Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao dạy  trao dạy bảo Bồ tát sơ nghiệp, khiến kia tin hiểu các pháp tự tánh rốt  ráo đều không?
Phật bảo: Thiện Hiện! Đâu phải tất cả pháp trước  có sau không. Nhưng tất cả pháp phi hữu phi vô, vô tự tánh, vô tha tánh.  Trước đã chẳng có, sau cũng chẳng không, tự tánh thường không, không  nên run sợ. Cần phải dạy trao dạy bảo Bồ tát sơ nghiệp như thế, khiến  kia tin hiểu các pháp tự tánh rốt ráo đều không.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn cầu Bát nhã Ba la mật đa, nên như Bồ tát  Ma ha tát Thường Khóc mà cầu. Bồ tát Ma ha tát này hiện nay ở tại chỗ  Đức Phật Đại Vân Lôi Âm tu hành phạm hạnh.
Cụ thọ Thiên Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc cầu Bát nhã Ba la mật đa cách nào?
Phật  bảo: Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc vốn khi cầu Bát nhã Ba  la mật đa chẳng tiếc thân mạng, chẳng đoái của cải, chẳng màng danh dự,  chẳng mong cung kính mà cầu Bát nhã Ba la mật đa, kia thường ưa ở chỗ  thanh vắng. Một hôm bỗng nhiên nghe không trung có tiếng bảo rằng: "  Chao ôi! Thiện nam tử! Ngươi nên đi về phương Đông, quyết định được nghe  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Khi người đang đi chớ từ mệt mỏi, chớ  nhớ ngủ nghĩ, chớ nghĩ ăn uốnng, chớ tưởng ngày đêm, chớ sợ lạnh nóng,  đối với pháp trong ngoài tâm đừng tán loạn. Chính khi đi chẳng được ngó  xem tả hữu, chớ xem trước sau trên dưới bốn phía, chớ phá uy nghi, chớ  hoại thân tướng.
Chớ động nơi sắc, chớ động thọ tưởng hành thức.  Chớ động nhãn xứ, chớ động nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chớ động sắc xứ, chớ  động thanh hương vị xúc pháp xứ. Chớ động nhãn giới, chớ động nhĩ tỷ  thiệt thân ý giới. Chớ động sắc giới, chớ động thanh hương vị xúc pháp  giới. Chớ động nhãn thức giới, chớ động nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới,  chớ động nhãn xúc, chớ động nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chớ động nhãn xúc  làm duyên sanh ra các thọ, chớ động nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên  sanh ra các thọ.
Chớ động địa giới, chớ động thủy hỏa phong không  thức giới. Chớ động nhân duyên; chớ động đẳng vô gián duyên, sở duyên  duyên, tăng thượng duyên. Chớ động các pháp theo duyên sanh ra. Chớ động  vô minh; chớ động hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,  sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não.
Chớ động bố thí Ba la mật đa  la; chớ động tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật  đa. Chớ động bốn niệm trụ; chớ động bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm  căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.
Chớ động nội  không; chớ động ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,  thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế  không, tán không, vô biến dị không, bản tánh không, tự tướng không, cộng  tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,  tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Chớ động chơn như; chớ động  pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng  tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư  nghì giới. Chớ động khổ thánh đế, chớ động tập diệt đạo thánh đế.
Chớ  động bốn tĩnh lự; chớ động bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chớ động tám  giải thoát; chớ động tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chớ  động tất cả đà la ni môn, chớ động tất cả tam ma địa môn. Chớ động không  giải thoát môn; chớ động vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Chớ  động Cực hỷ địa; chớ động Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực  nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ  địa, Pháp vân địa. Chớ động năm nhãn, chớ động sáu thần thông.
Chớ  động Phật mười lực; chớ động bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ,  đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chớ động pháp vô  vong thất, chớ động tánh hằng trụ xả. Chớ động nhất thiết trí; chớ động  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Chớ động quả Dự lưu; chớ  động quả Nhất lai. Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chớ động hạnh Bồ  tát Ma ha tát. Chớ động Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Chớ động pháp  thế gian, chớ động pháp xuất thế gian. Chớ động pháp hữu lậu, chớ động  pháp vô lậu. Chớ động pháp hữu lậu, chớ động pháp vô lậu. Chớ động pháp  hữu vi, chớ động pháp vô vi.
Vì cớ sao? Thiện nam tử! Nếu đối các  pháp có sở động ấy, thời đối Phật pháp chẳng năng an trụ. Nếu đối Phật  pháp chẳng năng an trụ, thời ở sanh tử lộn quanh các thú. Nếu ở sanh tử  lộn quanh các thú, thời chẳng năng được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu".
Bấy  giờ, Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc nghe tiếng không trung ân cần dạy dỗ,  vui mừng nhảy nhót, khen chưa từng có, chấp tay cung kính thứa với  tiếng không trung rằng: " Như trước đã nói, tôi sẽ vâng theo. Sở dĩ vì  sao? Tôi phải muốn vì tất cả hữu tình làm sáng đại minh vậy. Tôi phải  muốn nhóm tất cả pháp thù thắng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vậy. Tôi  phải muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vậy".
Khi ấy, tiếng  không trung lại bảo Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc rằng: " Hay thay, hay  thay! Thiện nam tử! Ngươi phải đối pháp không, vô tướng, vô nguyện thẳm  sâu nên sanh tin hiểu. Ngươi nên đem tâm lìa tất cả tướng cầu Bát nhã Ba  la mật đa thẳm sâu. Ngươi nên đem tâm lìa tướng ngã và hữu tình, mạng  giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác  giả, thọ giả, tri giả, kiến giả cầu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Thiện  nam tử! Đối các bạn ác nên phương tiện xa lìa, đối các bạn lành cần gần  gũi cúng dường. Nếu năng vì người khéo léo thuyết pháp không, vô tướng,  vô nguyện vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, xưa nay vắng lặng và năng  vì người chỉ hiện dạy dẫn, khen ngợi vui mừng Nhất thiết trí trí, đấy là  bạn lành.
Thiện nam tử! Ngươi nếu hành như thế, chẳng lâu được  nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Hoặc nghe từ trong kinh điển, hoặc  theo nghe chỗ Bồ tát. Ngươi được theo nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  phải đối chỗ ấy khởi tưởng như Đại sư. Ngươi nên biết ơn, nhớ sẽ trọng  báo. Thiện nam tử! Ngươi nên tác nghĩ này: Ta được theo nghe Bát nhã Ba  la mật đa thẳm sâu là bạn lành chơn thật rất hơn. Ta do kia nên được gần  Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường sanh cõi nước nghiêm tịnh của các  Đức Phật, để cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, để lóng nghe Chánh  pháp trồng các cội đức, xa lìa không nhàn rỗi, đầy đủ có nhàn rỗi, niệm  niệm tăng trưởng căn lành thù thắng. Ngươi nên suy nghĩ trù tính quan  sát các công đức thắng lợi như thế thảy. Pháp sư Bồ tát này vì ngươi  thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thường nên kính thờ tưởng như chư  Phật.
Thiện nam tử! Ngươi chớ đem thế lợi danh dự mà theo dõi  Pháp sư. Chỉ vì ái trọng cung kính cúng dường Vô Thượng Pháp nên theo  dõi Pháp sư.
Thiện nam tử! Ngươi nên giác việc ma. Nghĩa là có ác  ma vì hoại chánh pháp và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Pháp sư, nên đem diệu  cảnh sắc thanh hương vị xúc ân cần phụng thí. Khi ấy, vị Thuyết pháp sư  phương tiện khéo vì muốn điều phục ác ma kia vậy, khiến các hữu tình  trồng căn lành vậy, hiện cùng thế gian đồng sự vậy. Dù thọ thí kia mà  không nhiễm mắc. Ngươi với việc này chớ sanh uế tưởng, nên khởi nghĩ  này: Ta chưa được biết Bồ tát thuyết pháp phương tiện khéo léo. Đây vị  Thuyết pháp sư khéo biết phương tiện vì muốn điều phục hữu tình cứng  cỏi, muốn khiến hữu tình trồng các cội đức, xuống đồng thế sự hiện thọ  các dục, nhưng Bồ tát này chẳng lấy pháp tướng, không mắc không ngại,  từng không hủy phạm.
Thiện nam tử! Ngươi với lúc bấy giờ nên quán  các pháp chơn thật lý thú. Các pháp chơn thật lý thú là sao? Nghĩa là  tất cả pháp không nhiễm không tịnh. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Vì tất cả  pháp tự tánh đều không. Không có ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả,  dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, như vang,  như tượng, như ánh nắng, như bóng sáng, như việc biến hóa, như thành tầm  hương.
Thiện nam tử!Ngươi nếu năng quang sát các pháp chơn thật  lý thú như thế, theo dõi Pháp sư, chẳng lâu thành xong Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện nam tử! Đối các ma sự khác, người  nên giác biết. Nghĩa là vị Thuyết pháp sư thấy ngươi cầu thỉnh Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu đều chảng mến nghĩ, lại gia nhăng nhục. Ngươi nên  ái trọng cung kính Chánh pháp, thường theo Pháp sư chớ sanh nhàm chán".
Bấy  giờ, Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc thọ tiếng không trung lần nữa dạy bảo  rồi, càng thêm vui mừng. Từ đây đi phương Đông, đi chưa bao lâu lại  khởi nghĩ này: " Ta sao vô ý chẳng hỏi tiếng không trung kia, khiến ta  đi phương Đông cách chừng xa gần? Đến thành ấp nào? Lại theo ai nghe Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu? Khởi nghĩ này rồi, liền đứng tại chỗ, đấm  ngực buồn than, lo sầu khóc kể. Trải chừng giây lát, khởi suy nghĩ này: "  Ta đứng tại đây hơn một ngày đêm, cho đến hoặc hơn bảy ngày bảy đêm,  chẳng từ mệt mỏi, chẳng nhớ ngủ nghỉ, chẳng nghĩ ăn uống, chẳng tưởng  ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng,đối trong ngoài tâm chẳng tán loạn. Nếu  chưa nhận biết đi tới xa gần, đến chỗ thành ấp nào và theo ai nghe Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu, cương quyết chẳng khởi tâm nới bỏ chỗ này!"
Thiện  Hiện phải biết: Ví như cha mẹ duy một đứa con, đoan chính thông minh,  nhiều các tài giỏi, yêu thương nó lắm, đứa con khôn lớn bất ngờ mệnh  chung. Bấy giờ, cha mẹ buồn rầu kêu than khổ độc, duy nhớ đứa con, không  nghĩ gì hết. Bồ tát Thường Khóc cũng lại như vậy, chính lúc bấy giờ  không còn nghĩ gì, duy khởi nghĩ này: " Chẳng biết chừng nào ta sẽ được  nghe Bát nhã Ba la mật đa. Cớ sao ta trước chẳng hỏi tiếng không trung  khuyên ta đi hướng Đông phải đi xa gần, đến nơi chỗ nào, lại theo ai  nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu"
Thiện Hiện phải biết: Bồ tát  Ma ha tát Thường Khóc buồn khóc như thế, chính khi tự than hờn, bỗng nơi  trước mặt có tượng Phật hiện, khen Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc rằng: "  Giỏi thay, giỏi thay! Thiện nam tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ  khi làm Bồ tát đem hạnh cần khổ cầu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, cũng  như ngươi nay cầu gia hạnh. Lại nữa, Thiện nam tử! Ngươi đem tâm dũng  mãnh tinh tiến ưa muốn cung kính cầu pháp như thế, từ đây đông hành qua  hơn lượng năm trăm do tuần có đại vương thành tên Cụ Diệu Hương, thành  ấy cao rộng bảy báu làm thành. Ở nơi ngoài thành chung quanh đều có bảy  báu làm nên bảy lớp tường vách, bảy lớp lầu quán, bảy lớp lan can, bảy  lớp hào báu, bảy lớp cây báu đa-la giăng hàng. Tường vách này thảy thay  nhau xen lẫn, phát ra các thứ ánh sáng rất ưa thích lắm. Cái lượng thành  đại bảo này mỗi mặt mười hai do tuần, mát sạch rộng rãi, người vật phồn  thịnh yên ổn giàu vui. Trong có năm trăm đường sá chộ búa độ lượng  ngang nhau nghiêm đẹp như bức vẽ. Ở các ngã tư đường đều có nước trong  chảy phô bày, dùng bảo thuyền qua lại không cầm. Mỗi một ngã đường sạch  sẽ trang nghiêm, dùng nước hương rưới, dùng danh hoa rải. Thành và tường  vách có vật đẩy lui kẻ địch. Tướng nhỏ trên thành và lầu gác xây bằng  vàng tía, dùng các thứ ngọc cẩn sáng láng rực rỡ. Ở giữa tường nhỏ dùng  cây báu lẫn lộn, mỗi mỗi cây này gốc cọng nhánh lá và những hoa trái đều  dùng báu dùng lưới vàng phủ, dùng chỉ báu luồn. Gió nhẹ thổi động phát  tiếng hòa nhã, ví như năm thứ kỹ nhạc tấu hay. Bảo thành nội này vô  lượng hữu tình ngày đêm hằng nghe vui mừng khoái lạc. Chung quanh thành  ngoại bảy lớp bảo hào, tánh nước công đức đầy rẫy nơi trong, lạnh ấm  điều hòa, lóng trong gương sáng. Mỗi chỗ trong nước có thuyền bảy báu  xen lẫn trang nghiêm, chúng rất ưa thấy. Loại hữu tình kia khi túc  nghiệp cảm rước chung cưỡi đó, bơi nổi lồng bồng dạo giỡn. Nước trong  các hào đủ các diệu hoa: hoa sen trắng và các thừ bảo hoa tạp loại khác,  sắc hương đẹp thơm phủ khắp trên nước. Tóm lại mà nói bao nhiêu danh  hoa trong Tam thiên giới không thứ nào chẳng đầy đủ. Chung quanh đại  thành có năm trăm cảnh vườn, trang nghiêm bằng nhiều thứ rất nên ưa  muốn. Trong mỗi vườn có năam trăm ao. Ao ấy rộng rãi một Cũng chẳng lấy  đắm-lô-xá, bảy báu trau dồi vui đẹp lòng chúng. Ở trong các ao có bốn  thứ diệu hoa: hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng,  lượng như như bánh xe, ánh che trên nước. Hoa kia đều dùng các báu làm  nên: sắc xanh rõ xanh, bóng xanh sáng xanh; sắc vàng rõ vàng, bóng vàng  sáng vàng; sắc đỏ rõ đỏ, bóng đỏ sáng đỏ; sắc trắng rõ trắng, bóng trắng  sáng trắng. Trong các vườn ao có nhiều thứ chim: công, két, le, cò,  hồng, nhạn, bách lao vàng, vàng anh, vịt xanh, ngỗng trời trắng, xuân  oanh, vịt nước, cò trắng, uyên ương, giao thanh, chim trả, tinh vệ, gà  hồ, vịt cao cổ, chim biển, hồ phượng, diệu sí, bồ hồng, yết la tần ca,  chim mạng mạng thảy, âm thanh hòa nhau dạo giỡn trong ấy. Các vườn ao  này không thuộc về ai. Loại hữu tình kia đêm dài tu hành Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu, đối thâm pháp môn đều sanh tin muốn. Đời trước chung  gây thắng nghiệp như thế, nên với ngày nay đồng thọ quả này.
Lại  nữa, Thiện nam tử! Trong thành Diệu Hương có chỗ cao hơn là cung sở trụ  của Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát. Cung ấy cao rộng một do cung chung quanh  bảy lớp vách tường, bảy lớp lầu gác, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu,  bảy lớp cây đa-la báu dứng ngay hàng. Tường vách này thảy trang nghiêm,  văn vẽ rất nên ưa thích. Chung quanh cung này có bốn vườn mầu nhiệm: một  tên Thường Hỷ, hai tên Ly Ưu, Bát nhã Ba la mật đa tên Hoa Nghiêm, bốn  tên Hương Sức. Trong mỗi mỗi vườn đều có tám ao: một tên Hiền Thiện, hai  tên Hiền Thượng, ba tên Hoan Hỷ, bốn tên Hỷ Thượng, năm tên Yên O宬 sáu  tên Cụ An, bảy tên Ly Bố, tám tên Bất Thối. Bốn mặt các ao đều xây riêng  một thứ báu: một vàng, hai bạc, ba phê lưu ly, bốn phả chi ca yết kê,  đều dùng báu làm đáy ao, cát vàng rải trên, nước màu yên lặng. Mỗi mỗi  bên ao tám bậc thềm nhiều thứ báu mầu lấy làm trau dồi, dùng vàng thắng  thượng mà làm đường bước đi. Giữa hai các bậc có trồng cây chuối ngay  hàng xen lẫn làm bằng vàng tia. Trong các ao này đủ bốn diệu hoa: hoa  sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, các sắc xen lộn trải  khắp trên nước. Bốn phía quanh ao có cây hương hoa khi gió thanh động  tan nơi trong nước. Các ao đều đủ nước tám công đức, thơm đầy đủ như sắc  vị chiên đàn, có chim le, nhạn thảy dạo giỡn trong nước.
Pháp  Dũng Bồ tát Ma ha tát trụ trong cung này, thường cùng sáu muôn tám ngàn  thị nữ dạo các vườn ao, dùng diệu năm dục cùng nhau vui vẻ. Nam nữ lớn  nhỏ trong thành Diệu Hương vì muốn chiêm ngưỡng Pháp Dũng Bồ tát và nghe  Chánh pháp, nên có lúc được vào vườn Thường Hỷ thảy, ao Hiền Thiện  thảy, cũng dùng năm dục chung mhau vui vẻ.
Lại nữa, Thiện nam tử!  Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát cùng các thị nữ thọ diệu lạc rồi, ngày đêm  ba thời vì thuyết Bát nhã Ba la mật đa. Nội thành Diệu Hương có các sĩ  nữ ở trên đài bảy báu trong thành kia, vì Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát  trải tòa sư tử, các báu trau dồi, bốn chân tòa kia mỗi chân làm bằng một  thứ báu riêng: một vàng, hai bạc, ba phệ lưu ly, bốn phả chi ca. Ở trên  tòa ấy lại trải đệm kép, kê lót chăn thêu, phủ trên bằng lụa trắng,  buộc bằng dải hồng. Hai bên bảo toà đặt đôi gối đỏ thòng các dải the,  rưới hoa diệu hương. Tòa ấy cao rộng nửa câu-lô-xá, ở trên không trung  giăng bằng màn thêu, bên trong treo trướng ngọc lớn nhỏ xứng tòa, rủ  thòng các hoa tua treo dùng chuông vàng. Vì kính pháp nên ở bốn phía rải  hoa ngũ sắc, đốt hương vô giá, lại dùng các hương: nước, bột, xoa rải  nơi đất, la liệt nhiều thứ bảo tràng phan lọng. Pháp Dũng Bồ tát với  trong mỗi thời thăng lên tòa này, vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu. Mỗi khi thuyết pháp đều có vô lượng trời, rồng , dược xoa,  kiện đạt phược, a tô lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già,  người, phi người thảy đều đến nhóm hội, cung kính cúng dường Pháp Dũng  Bồ tát, nghe thọ Bát nhã Ba la mật đa. Khi các đại chúng đã nghe pháp  rồi, có kẻ tụng trì, có kẻ như nói mà làm, có kẻ chuyên đọc, có kẽ suy  nghĩ, có kẻ như nói mà làm, có kẻ khai ngộ cho người. Do nhân duyên này,  loại hữu tình kia đối các ác thú được pháp bất đọa và đối Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề hẳn chẳng quay lui. Thiện nam tử! Ngươi nên siêng tinh  tiến mau thẳng đến chỗ Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát, sẽ khiến ngươi bghe  sở cầu Bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện nam tử! Pháp Dũng Bồ  tát là bạn lành chơn tịnh đêm dài của ngươi, chỉ hiện dạy dẫn khen gắng  vui mừng khiến ngươi mau chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Pháp  Dũng Bồ tát ở đời quá khứ đem hạnh cần khổ cầu Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, cũng phương tiện như ngươi nay cầu. Ngươi nên mau đến chỗ Pháp  Dũng Bồ tát Ma ha tát, chớ sanh nghi nan, đừng tính ngày đêm, chẳng lâu  sẽ nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu".
Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát  Thường Khóc nghe lời này rồi tâm sanh sung sướng, vui mừng nhảy nhót,  khởi suy nghĩ này: " Chừng nào sẽ thấy pháp dũng Bồ tát, theo kia được  nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu?"
Thiện Hiện phải biết: Ví như  có người trúng phải tên độc bị khổ đau bức bách không còn tưởng gì, chỉ  khởi nghĩ này: Chaảng biết chừng nào ta đượv gặp thầy thuốc giỏi, vì  khổ tên đây, được khỏi khổ đây! Bồ tát Thường Khóc cũng lại như thế.  Chính lúc bấy giờ không còn tưởng gì khác, chỉ khởi nghĩ này: " Ta với  lúc nào sẽ thấy Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát để gần gũi cúng dường, được  nghe Bát nhã Ba la mật đa. Nghe rồi bèn năng dứt hẳn các thứ hư vọng  phân biệt, có chỗ đắc kiến, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề".
Thiện  Hiện phải biết: Bồ tát Thường Khóc liền đứng chỗ này khi khởi nghĩ đây,  đối trong tất cả pháp sanh khởi trí kiến vô chướng. Do trí kiến đây  liền nang hiện vào được vô lượng tam ma địa môn thù thắng, chỗ gọi Quán  tất cả pháp tự tánh tam ma địa, Đối tất cả pháp tự tánh vô sở đắc tam ma  địa, Phá tất cả pháp vô trí tam ma địa, Được tất cả pháp vô sanh biệt  tam ma địa, thấy tất cả pháp không biến khác tam ma địa, Đối tất cả pháp  lìa tối tam ma địa, Được tất cả không ý thú riêng tam ma địa, Biết tất  cả pháp đều vô sở đắc tam ma địa, Rải tất cả hoa tam ma địa, Dẫn phát  tất cả pháp vô ngã tam ma địa, Lìa huyễn tam ma địa, Dẫn phát gương  tượng soi sáng tam ma địa, Dẫn phát tất cả hữu tình ngữ ngôn tam ma địa,  Khiến tất cả hữu tình vui mừng tam ma địa, Khéo tùy thuận ngữ ngôn tất  cả hữu tình tam ma địa, Dẫn phát nhiều thứ ngữ ngôn văn tự tam ma địa,  Không sợ không dứt tam ma địa, Năng nói bản tánh tất cả pháp bất khả  thuyết tam ma địa, Được vô ngại giải tam ma địa, Xa lìa tất cả trần tam  ma địa, Khéo léo danh cú văn từ tam ma địa, Đối tất cả pháp khởi thắng  quan tam ma địa, Được tất cả pháp vô ngại tế tam ma địa, Như hư không  tam ma địa, Kim cương dụ tam ma địa, Tuy hiện hành sắc mà không bị phạm  tam ma địa, Đắc thắng tam ma địa, Được mắt không lui tam ma địa, Xuất  pháp giới tam ma địa, An ủi điều phục tam ma địa, Sư tử phấn tấn khiếm  khư hao hống tam ma địa, Ánh sáng đoạt tất cả hữu tình tam ma địa, Xa  lìa tất cả cấu tam ma địa, Đối tất cả pháp được vô nhiễm tam ma địa,  Liên hoa trang nghiêm tam ma địa, Dứt tất cả nghi tam ma địa, Tùy thuận  tất cả kiên cố tam ma địa, Xuất tất cả pháp tam ma địa, Dược sức thần  thông vô úy tam ma địa, Hiện tiền thông đạt tất cả pháp tam ma địa, Hoại  tất cả pháp ấn tam ma địa, Hiện tất cả pháp không sai tam ma địa, Lìa  tất cả tối tăm tam ma địa, Lìa tất cả tướng tam ma địa, Tháo tất cả dính  tam ma địa, Lìa tất cả biếng nhác tam ma địa, Được thâm pháp minh tam  ma địa, Như núi Diệu cao tam ma địa, Chẳng khá dẫn đoạt tam ma địa, Xô  dẹp tất cả tam ma quân tam ma địa, Chẳng dính ba cõi tam ma địa, Dẫn  phát tất cả thù thắng quang minh tam ma địa, như thế cho đến Hiện thấy  chư Phật tam ma địa.
Bồ tát Thường Khóc an trụ trong tam ma địa  như thế, hiện thấy chư Phật Như Lai mười phương vô lượng vô số vô biên  thế giới, vì các chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa.  Khi ấy, các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chung khen ngợi an ủi dạy  bảo dạy trao Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc rằng: " Giỏi thay, giỏi thay!  Thiện nam tử! Khi xưa các chúng tam ma địa hành đạo Bồ tát, cũng như  ngươi nay đem hạnh cần khổ cầu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Đang khi  cần cầu cũng như ngươi nay hiện được các tam ma địa như thế. Bấy giờ các  chúng tam ma địa được vô lượng thắng tam ma địa này, tu rốt ráo rồi  thời năng thành xong được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo  léo. Do đây năng xong tất cả Phật pháp, bèn được trụ nơi bậc Bất thối  chuyển. Các chúng tam ma địa quán các tam ma địa này sở bẩm tự tánh vô  nhập vô xuất, cũng chẳng thấy pháp kẻ năng nhập xuất, cũng chẳng thấy  nang tu hạnh Bồ tát Ma ha tát này, cũng chẳng thấy năng chứng Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề đây. Bấy giờ, chúng tam ma địa vì đối các pháp vô sở  chấp nên tức gọi tên Bát nhã Ba la mật đa. Các chúng tam ma địa trụ vô  sở chấp đây, nên bèn nang hoạch được sắc thân chân kim, thường quang một  tầm, đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu, tám mươi tùy hảo viên mãn  trang nghiêm. Lại năng chứng được bất khả tư nghì vô thượng Phật trí, vô  thượng Phật giới, vô thượng Phật định, vô thượng Phật huệ, tất cả công  đức Ba la mật đa không đức nào chẳng viên mãn. Vì năng viên mãn được tất  cả công đức Ba la mật đa, Phật hãy chẳng năng lấy lượng nói hết, huống  các Thanh văn và Độc giác thảy. Vì cớ này, Thiện nam tử! Ngươi đối pháp  này bội nên cung kính, ưa muốn siêng cầu, chớ được nới bỏ. Nếu đối pháp  này bội sanh cung kính, ưa muốn siêng cầu năng chẳng tạm bỏ, bèn đối Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề dễ dàng chứng được. Lại nữa, Thiện nam tử! Ngươi  đối bạn lành nên thường cung kính, ưa vui siêng cầu, tưởng như chư  Phật. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát thường được bạn lành  nhiếp hộ, mau được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề".
Khi ấy, Bồ tát  Ma ha tát Thường Khóc liền thưa chư Phật mười phương rằng: " Bậc nào gọi  là bạn lành của tôi, tôi phải gần gũi cung kính cúng dường?" Chư Phật  mười phương bảo Thường Khóc rằng: " Có Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát là bạn  lành chơn tịnh đêm dài của ngươi, năng nhiếp hộ ngươi, khiến ngươi  thành thục sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng khiến ngươi học Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo. Vì kia năng nhiếp ích  cho ngươi đêm dài vậy, là bạn lành ngươi, ngươi nên gần gũi cúng dường  cung kính.
Lại nữa, Thiện nam tử! Ngươi nếu một kiếp, hoặc hai  hoặc ba, như vậy cho đến hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc quá hơn đây, cung  kính đầu đội Pháp Dũng Bồ tát, lại đem tất cả đồ vui thượng diệu cho đến  Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu diệu sắc thanh hương vị xúc,  tận đem cúng dường, chưa đền ơn kia được giây lát. Vì cớ sao? Thiện nam  tử! Ngươi nhờ uy lực Pháp Dũng Bồ tát, hiện được vô lượng thắng diệu tam  ma địa môn như thế. Lại sẽ nhờ kia khiến ngươi hoạch được Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề". Khi ấy mười phương chư Phật phương tiện khen ngợi an ủi dạy bảo  dạy trao Bồ tát Thường Khóc khiến vui mừng rồi, bỗng nhiên đâu mất.
Bấy  giờ, Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc từ tam ma địa hiện đã chứng khởi  chẳng thấy chư Phật, ôm lòng buồn than, tác suy nghĩ này: " Khi ấy tam  ma địa được thấy chư Phật mười phương trước từ đâu đến, giờ lại đi đâu,  ai năng vì tam ma địa dứt nghi như vầy?" Lại tác nghĩ này: " Pháp Dũng  Bồ tát lâu đã tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo,  đã được vô lượng đà la ni môn và tam ma địa, đối các Bồ tát vô lượng  Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở chỗ chư Phật phát thề nguyện rộng, trồng  các căn lành, ở trong đêm dài làm bạn lành tam ma địa, thường nhiếp thọ  tam ma địa khiến được lợi vui. Tam ma địa phải mau đến chỗ Pháp Dũng Bồ  tát Ma ha tát hỏi khi nãy đã thấy mười phương chư Phật trước từ đâu đến,  nay đi chỗ nào, kìa năng vì tam ma địa dứt nghi như vậy".
Thiện  Hiện phải biết: Khi ấy Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc tác nghĩ này rồi,  bèn đối chỗ Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát nhiếp tâm thanh tịnh càng thêm  mến kính. Lại tác nghĩ này: " Tam ma địa này muốn đến chỗ Pháp Dũng Bồ  tát Ma ha tát, phải đem phẩm vật gì mà vì cúng dường. Nhưng tam ma địa  nghèo cùng, không có những hoa hương, hương ướt, hương khô, áo mặc,  chuỗi ngọc, bảo tràng, phan lọng, kỹ nhạc, đèn sáng, ngọc mạc ni chơn,  ngọc phệ lưu ly, ngọc phả chi ca, vàng, bạc, san hô, loa bối, ngọc bích  và những đồ cúng thượng diệu khả dĩ cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát? Ta quyết định chẳng nên thân  không mà đến chỗ Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát. Nếu tam ma địa đến không,  chẳng sanh tự vui, lấy gì tỏ lòng biết chí thành cầu pháp? Với tam ma  địa ngày nay nên tự bán mình đề cầu của cải, đem dùng cúng dường Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát. Vì cớ sao?  Tam ma địa ở đêm dài các cõi thú sanh, luống mất hoại diệt vô biên thân  mạng, vô thủy sanh tử bị dục nhân duyên, theo các địa ngục chịu khổ vô  lượng, chưa vì cúng dường Diệu Pháp và Sư thuyết pháp như thế, tự bỏ  thân mạng, nên ta ngày nay quyết định phải bán mình để cầu của cải, đem  dùng cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu và Sư thuyết pháp Pháp  Dũng Bồ tát".
Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc khởi nghĩ này  rồi, lần lữa đông hành đến một thành lớn rộng rãi nghiêm sạch, nhiều  các nhân chúng yên ổn giàu vui. Bồ tát Thường Khóc vào trong chợ phố,  dạo quanh chỗ chỗ, cao tiếng xướng rằng: " Nay tối bán mình, ai muốn mua  người? Nay tôi bán mình, ai muốn mua người?" Khi ấy ác ma thấy việc đây  rồi bèn khởi nghĩ này: " Bồ tát Thường Khóc vì mến trọng pháp nên muốn  tự bán mình, bảo vì để cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu và Sư  thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát vậy. Nhơ đây sẽ được đúng lẽ  thỉnh hỏi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, rằng khởi  hỏi này: Bồ tát làm sao phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Khởi hỏi này rồi Pháp Dũng Bồ  tát phải vì tuyên nói pháp yếu thẳm sâu, khiến được nghe nhiều in như  biển cả. Ma và dòng họ ma chẳng thể làm hoại được, dần dần năng viên mãn  tất cả công đức. Nhờ đây nhiêu ích các loại hữu tình chứng được Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, lần lữa nối nhau làm trống cảnh giới ta. Ta  phải phương tiệnn che giấu tiếng rao kia làm cho những trưởng giả, cư  sĩ, bà la môn thảy trong thành này đều chẳng nghe được". Duy trừ một cô  gái con trưởng giả trong thành, vì sức thiện căn đời trước ma chẳng thể  che được.
Bồ tát Thường Khóc bởi trở ngại này, qua thời gian lâu  bán thân chẳng ai mua, buồn rầu khổ não, đứng ở một chỗ rơi lệ mà rằng: "  Tam ma địa có tội chi, vì muốn cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát, nên dù tự bán mình mà  không ai mua!"
Khi ấy, Thiên Đế Thích thấy rồi nghĩ rằng " Thiện  nam tử này tựa hồ vì cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu và Sư  thuyết pháp Phá Dũng Bồ tát, mến trọng pháp nên tự bán mình. Tam ma địa  nên thử đó vì thật mộ pháp hay ôm lòng dối trá lừa gạt thế gian?" Nghĩ  như thế rồi liền tự hóa làm cậu thiếu niên Bà la môn đến chỗ Thường Khóc  hỏi rằng: "Nam tử! Ngươi nay vì cớ sao đứng sững buồn khóc rầu lo chẳng  vui?" Bồ tát Thường Khóc đáp rằng: " Hỡi cậu bé! Ta vì cúng dường Bát  nhãBa la mật đa thẳm sâu và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát. Nhưng tam  ma địa nghèo cùng không có của cải, mến trọng pháp nên muốn tự bán mình,  khắp trong thành này không ai hỏi tới, tự nghĩ bạc phước đứng đây buồn  khóc!" Khi ấy, Bà la môn bảo Thường Khóc rằng: " Tam ma địa nay chính  muốn tế trời mà chẳng dùng thân người, chỉ cần máu người, tủy người, tim  người, vả có thể bán được chăng?" Bồ tát Thường Khóc nghe rồi nghĩ  rằng: " Tam ma địa nay quyết Thường Khóc hoạch thắng lợi. Sở dĩ vì sao?  Vật kia muốn mua tam ma địa đều có đủ. Do đây được của, sẽ đem cúng  dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát,  khiến tam ma địa đầy đủ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo  léo, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề". Khi khởi nghĩ này nhảy nhót  vui mừng, dùng lời mềm mại trả lời Bà la môn rằng: " Vật ngài muốn mua,  tôi đều bán được". Bà la môn nói: " Cần giá bao nhiêu?" Thường Khóc trả  lời: " Giúp nhau tùy ý". Bấy giờ, Thường Khóc nói lời này rồi, liền đưa  tay hữu cầm lấy con dao đâm vào cánh tay tả mình khiến máu chảy ra, lại  cắt đùi vế hữu da thịt rơi xuống đất, phá xương tủy chảy ra, trao dưa Bà  la môn. Lại tới bên tường muốn mổ tim ra.
Có cô gái con trưởng  giả ở trên lầu cao, trước kia nghe thấy Thường Khóc cất tiếng rao tự bán  mình, giờ đây lại thấy tự hại nơi thân, khởi nghĩ này rằng: " Thiện nam  tử này vì duyên cớ nào mà khốn khổ nơi thân, tam ma địa phải hỏi xem".  Nghĩ rồi xuống lầu, đến chỗ Thường Khóc hỏi lời như vầy: " Ngươi vì  duyên cớ nào trước rao tự bán, nay chảy máu tủy, còn muốn mổ bụng?"  Thường Khóc trả lời: " Chị chẳng biết ư? Tôi vì cúng dường Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát. Nhưng tôi nghèo  cùng không các của cải, vì mến trọng pháp nên trước tự bán mình mà không  ai mua hộ. Nay bán ba món cho Bà la môn". Cô trưởng giả hỏi: " Ngươi  nay tự bán máu tim tủy trong thân, muốn đem của ấy cúng dường Bát nhã Ba  la mật đa và Sư thuyết pháp Pháp Dũng Bồ tát, sẽ được công đức thắng  lợi ra sao?" Thường Khóc đáp rằng: " Pháp Dũng Bồ tát với pháp sâu thẳm  đã được tự tại, sẽ vì tôi nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện  khéo léo Bồ tát sở học, Bồ tát sở cưỡi, Bồ tát sở hành, Bồ tát sở làm.  Tôi được nghe rồi như nói tu hành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi  Phật, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, được thân sắc vàng, đủ ba  mươi hai tướng Đại trượng phu, tám mươi tùy hảo viên mãn trang nghiêm,  thường quang một tầm, các quang khác vô lượng. Đủ Phật mười lực, bốn vô  sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp  Phật bất cộng. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Năm tịnh nhãn, sáu  thần thông. Bất khả tư nghì thanh tịnh nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ,  nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến, vô chướng tri kiến, vô thượng  tri kiến. Được nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Đầy  đủ tất cả Vô thượng Pháp bảo, phân chia bố thí cho tất cả hữu tình,  cùng các hữu tình làm chỗ nương dựa. Tôi xả bỏ thân mạng vì cúng dường  kia sẽ được cônng đức tháng lợi như đây".
Cô gái trưởng giả này  nghe nói Phật pháp nhiệm mầu thù thắng bất khả tư nghì, nhảy nhót vui  mừng, lông mình đều đứng sững, cung kính chấp tay thưa Thường Khóc rằng:  " Đại sĩ đã nói nhiệm mầu thứ nhất rộng lớn hơn hết, rất là hiếm có. Vì  được mỗi mỗi Phật pháp như thế hãy phải xả bỏ thân mạng sở trọng như số  cát Căng già, huống chỉ bỏ một. Sở dĩ vì sao? Nếu được công đức nhiệm  mầu như thế, thời năng lợi vui tất cả hữu tình. Đại sĩ nhà nghèo hãy vì  công đức nhiệm mầu như thế chẳng tiếc thân mạng, huống tôi nhà giàu có  nhiều của báu, vì công đức này mà chẳng nới bỏ! Đại sĩ nay nên chớ tự  hại mình nữa, sở cần đồ cúng, tôi sẽ tận giúp cho nhau. Bất quá là vàng,  bạc, ngọc phệ lưu ly, ngọc phả chi ca, ngọc mạc ni chơn, xử tàng, thạch  tàng, loa bối, ngọc bích, đế thanh, đại thanh, san hô, hổ phách và bao  nhiêu vô lượng ngọc của loại khác. Hoa hương, anh lạc, bảo tràng, phan  lọng, kỹ nhạc, đèn sáng, xe cưỡi, áo mặc và kỳ dư các thứ đồ cúnng hạng  thượnng, đáng đem cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu và Sư thuyết  pháp Pháp Dũnng Bồ tát. Cúi xin Đại sĩ chớ tự hại mình nữa! Thân tôi  cũng nguyện tùy tòng Đại sĩ đến chỗ Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát đồng thời  chiêm ngưỡng, chung trồng căn lành, vì được các Phật pháp như trước đã  nói vậy.
