Other (439)


Chân dung của một vị Độc giác.

959

Tư liệu kinh điển, danh xưng và phẩm vị.

- Về tư liệu kinh điển.

Trong kinh tạng Nam truyền, tư liệu về hành trạng của một vị Độc giác được ghi nhận trong cả năm bộ Nikāya, nhưng phần lớn được tập trung vào các bộ kinh cũng như các tập chú giải sau:

-  Kinh Trung Bộ, kinh Thôn tiên (Isigili Sutta)
-  Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp.
-  Kinh Tập, kinh Con tê ngưu một sừng (Khaggavisāṇa Sutta).
-  Chú giải kinh Tập (Paramatthajotikā II).
-  Chú giải kinh Tương Ưng, Chú giải kinh Không liễu tri (Appaṭividitasuttavaṇṇanā).
-  Thánh nhân ký sự (Apadāna), Độc giác ký sự (Paccekabuddhāpadānaṃ).
-  Trên 20 truyện trong 547 truyện tiền thân (Jataka).

Về thư tịch Hán tạng, nhân thân của một vị Độc giác được đề cập trong cả ba tạng kinh văn và được tập trung chủ yếu ở những tác phẩm sau:

-   Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 32, phẩm Lực, kinh số 7[4] (Tương đương kinh Thôn tiên trong kinh Trung Bộ).
-   Kinh Soạn tập bách duyên[5].
-   Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa[6].
-   Tát-bà-đa-Tỳ-ni-Tỳ-bà-sa[7].
-   Luận về nhân duyên Bích-chi-Phật[8].
-   Luận Đại trí độ[9].
-   Luận A-tỳ-đàm-Tỳ-bà-sa[10].
-   Luận A-tỳ-đạt-ma-phẩm-loại-túc[11].
-   Luận A-tỳ-đạt-ma-Câu-xá[12].

- Về danh xưng

Độc giác, Sanskrit ghi là Pratyeka Buddha (प्रत्येकबुद्ध), là một bậc giác ngộ ẩn cư do tự mình đạt được giải thoát[13]. Theo Pāli, Độc giác phát xuất từ hợp ngữ Paccekabuddha, bao gồm hai thành tố: Pacceka và Buddha. Pacceka là tính từ chỉ cho sự riêng biệt, một mình; Buddha thường được dịch là bậc tỉnh thức hay bậc giác ngộ. Từ điển của hội Pāli Text Society đã định nghĩa Paccekabuddha là bậc tự mình giác ngộ[14]. Do vậy, trong khi chuyển dịch cụm từ này sang tiếng Anh, các nhà nghiên cứu phương Tây thường dịch là Independent Buddha, Private Buddha, Solitary Buddha…

So sánh giữa Phật giáo sơ kỳ và Kỳ-na giáo, tên gọi Pacceka Buddha nhằm chỉ cho những bậc Thánh giả nói chung, như Isi, Muni, Śramaṇa[15]. Đó là trường hợp của bốn vị Độc giác trong chuyện tiền thân Chuyện người thợ gốm,(Jataka, 408), bốn vị này cũng xuất hiện trong cổ thư Uttarādhyayana của Kỳ-na. Bốn vị đó là: Karakaṇḍu, vua xứ Kaliṅga; Dvimukha, vua nước Pañchāla; Nami vua nước Vidēha; Naggati (đôi khi gọi là Nagnajit), vua nước Gāndhāra[16].

Xem ra, khái niệm tự mình tỏ ngộ được nhiều tôn giáo sử dụng, không riêng gì Phật giáo. Ngay như quả vị Phạm thiên (Brahmā), cũng có những vị do tự mình chứng đạt, gọi là Bích-chi Phạm Thiên (Pacceka Brahmā). Ba vị Phạm thiên Subrahmā, Suddhavāsa và Tudu được ghi nhận trong kinh Tương Ưng(S,i.146); (S,i.149)[17] với phẩm tính giác ngộ đệ tam Thánh quả (Anāgāmi) đã khẳng định quan điểm này.

Trong kinh điển Hán tạng, tùy theo quan điểm của các nhà dịch kinh mà Pratyeka Buddha trong Phạn ngữ có lúc được dịch âm, có khi được dịch nghĩa như: Bích-chi Phật,Bích-chi-ca-Phật, Bích-chi-ca-Phật-đà, Độc giác, Duyên giác, Duyên nhất giác, Độc giác Phật...

Theo luận Đại trí độ, quyển 57, Nhất thiết kinh âm nghĩa, quyển 17, Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển thứ nhất, Bích-chi-Phật cũng còn gọi là Bích-chi-ca. Bích-chi-ca (Pratyeka, Pacceka) được dịch là Độc, Phật-đà được dịch là Giác (辟支迦此云獨佛陀云覺)[18]. Từ điển Phạn ngữ của Monier-Williams cũng xác định nghĩa tương đương[19].

Trong lịch sử truyền dịch kinh tạng, Pratyeka Buddha đôi khi được dịch là Duyên nhất giác (緣一覺), đây là do sai sót khi phiên dịch[20]. Không những vậy, căn cứ vào nguyên ngữ Sanskrit Pratyeka Buddha (Pāli: Pacceka Buddha), nếu được phiên dịch thành độc giácPhật, thì vô hình trung đã thêm vào một chữ Phật.

Với khảo sát sơ bộ các dịch phẩm Hán tạng cho thấy, các nhà dịch kinh thời kỳ đầu như cư sĩ Chi Khiêm, ngài Khương Tăng Hội (?-280), ngài Trúc Pháp Hộ (226-303)[21]… cho đến pháp sư Cưu Ma La Thập (334-413) thường dịch Pratyeka Buddha là Bích-chi Phật. Trong khi đó, ở phần lớn dịch phẩm của mình, ngài Huyền Tráng (602-664) thường dịch hợp ngữ Pratyeka Buddha thành Độc giác.

 Sau khi thẩm sát cách chuyển ngữ của cụm từ Pratyeka Buddha (Pāli: Pacceka Buddha) trong nhiều dịch phẩm, ở các truyền thống kinh điển, chúng tôi tạm thống nhất sử dụng danh xưng Độc giác trong chuyên khảo này.

- Về phẩm vị

Có vài khác biệt trong quan niệm về phẩm vị giác ngộ của một bậc Độc giác giữa hai truyền thống kinh điển.

Theo kinh Tăng Chi (A.i,76), Đức Phật dạy rằng có hai bậc giác ngộ:

Có hai bậc giác ngộ này, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, và Độc Giác Phật. Những vị này, này các Tỷ-kheo, là hai bậc giác ngộ[22].

Theo kinh Thôn tiên, thuộc Trung Bộ, khi chứng đạt quả vị Độc giác, thì vị ấy đã chấm dứt các nguyên nhân đưa đến tái sanh. Kinh ghi: Chư vị Độc Giác Phật./ Đoạn trừ nguồn tái sanh[23]. (Paccekabuddhā bhavanettikhīṇā)[24].

Theo ngữ cảnh kinh văn, cụm từ Bhavanetti ở đây được HT. Thích Minh Châu dịch là nguồn tái sanh. Trong trường hợp khác, cụm từ này cũng được HT. Thích Minh Châu dịch là Sợi dây tái sanh (S,iii.190). Theo kinh Tương Ưng, nhân câu hỏi của tôn giả Rādha, Đức Phật đã đưa ra một định nghĩa về cụm từ này:

Thế nào là sợi dây tái sanh, bạch Thế Tôn? Thế nào là sự đoạn diệt sợi dây tái sanh? -Này Rādha, phàm dục gì, tham gì, hỷ gì, khát ái gì, phàm những chấp thủ phương tiện, tâm kiên trú, thiên chấp tùy miên gì đối với sắc, như vậy gọi là sợi dây tái sanh. Sự đoạn diệt chúng là sự đoạn diệt sợi dây tái sanh... đối với thọ... với tưởng... với các hành... Phàm dục gì, tham gì, hỷ gì, khát ái gì, phàm những chấp thủ phương tiện, tâm kiên trú, thiên chấp tùy miên gì đối với thức, đó gọi là sợi dây tái sanh. Sự đoạn diệt chúng là sự đoạn diệt sợi dây tái sanh[25].

Nói rõ hơn, một vị Độc giác, khi đã đoạn trừ nguồn tái sanh (Bhavanettikhīṇā) hay đoạn diệt sợi dây tái sanh (Bhavanettinirodha), tức vị đó chứng quả A-la-hán. Kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 19 cũng ghi nhận điều tương tự[26].

Theo Chú giải kinh Tập (Paramatthajotikā II), Độc giác là bậc giác ngộ không còn phiền não và dục vọng. Vì lẽ, hết thảy phiền não (của vị đó) bị đoạn diệt tận gốc rễ, như nhổ bật rễ cây Tala, sanh hữu chấm dứt và chúng không sanh khởi ở tương lai. Vị đó vượt thoát hoàn toàn sự chi phối của dục vọng (ekantavigatakilesoti), là bậc không thầy mà tự đạt giải thoát (Anācariyako hutvā sayambhū),  theo phương cách giác ngộ của một vị độc giác. Như vậy, một bậc độc giác là tự mình giác ngộ[27].

Bên cạnh đó, Chú giải kinh Tương Ưng SA I, 25 (Saṃyutta Nikāya Aṭṭhakathā), đã chỉ ra sự khác biệt về phẩm vị của bốn bậc giác ngộ:

Thật vậy, có bốn bậc giác ngộ. Bậc giác ngộ viên mãn. Bậc độc giác. Bậc giác ngộ bốn chân lý và bậc giác ngộ do việc nghe.

Ở đây, một vị sau khi thành tựu 30 hạnh Ba-la-mật, đạt đến phẩm vị toàn giác, được gọi là bậc giác ngộ viên mãn. Một vị sau khi trải qua hai A-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, thực hành đầy đủ các hạnh Ba-la-mật, đạt đến bản thể tự chủ, được gọi là bậc độc giác. Một vị đã đoạn tận phiền não nhưng còn chút tập khí dư tàn, được gọi là bậc giác ngộ bốn chân lý. Và một vị được gọi là bậc đa văn, là bậc đã giác ngộ do việc nghe[28].

Theo luận Đại trí độ, quyển thứ 18, thì độc giác Bích-chi-ca-Phật có hai hạng:

Thứ nhất, vốn là bậc hữu học, sanh trong nhân gian vào thời gian không có Phật và giáo pháp. Là bậc Tu-đà-hoàn đã trải quan bảy lần tái sanh nên không thể sanh lần thứ tám, tự mình chứng đạo. Vị này không gọi là Phật, không thể gọi là A-la-hán mà được gọi là Tiểu-bích-chi-ca, cùng với A-la-hán không khác, không thể sánh với các bậc đại A-la-hán như ngài Xá-lợi-phất…

Thứ hai, là Đại-bích-chi-Phật, là vị đã tu tạo công đức trong một trăm kiếp, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu 31 tướng, hoặc 30 tướng, hoặc 29 tướng cho đến một tướng của 32 tướng phần. Trong chín bậc A-la-hán thì trí tuệ vượt thắng, có thể thâm nhập các pháp sâu sa như tổng tướng, biệt tướng; miên mật thiền định, ẩn dật tịnh cư. Với tướng chân thật đó nên gọi là Đại-bích-chi-ca-Phật và đó là sự khác biệt[29].

Cũng theo luận Đại trí độ, quyển 3, đã giải thích rõ hơn sự khác biệt giữa quả vị A-la-hán, Bích-chi-Phật và Đức Phật toàn giác.

Hỏi: Như A-la-hán, Bích-chi-Phật đều phá dâm, nộ, si (tham, sân, si), so với Phật thì có gì sai khác?

Đáp: Quả vị A-la-hán và Bích-chi-Phật tuy phá tam độc nhưng tập khí vẫn còn. Ví như để hương trong rương tráp, tuy đã lấy thỏi hương ra nhưng mùi hương còn vương vấn. Cũng như thiêu đốt cỏ cây, tuy lửa khói đã bay đi nhưng hơi ấm vẫn còn, vì tro than chưa tận.

Đức Phật chấm dứt hoàn toàn tam độc. Ví như vào lúc kiếp tận, lửa thiêu núi Tu-di thì hết thảy đất đai, làng mạc đều bị cháy rụi không còn dư tàn. Như chút tập khí sân nhuế của ngài Xá-lợi-phất, như dư tàn tập khí dâm dục của ngài Nan-đà, như tập khí ngã mạn của ngài Tất-lăng-già-bà-tha; cũng như người bị xiềng xích, vừa được mở ra thì chân đi chưa vững[30].

Theo luận A-tỳ-đàm-Tỳ-bà-sa của tôn giả Ca-chiên-diên, thì: một bậc có tăng thượng tuệ, giác ngộ và rõ biết chân lý của mọi sự vật, được tôn xưng là Phật, nếu chỉ thành tựu trung tuệ, thì gọi là Bích-chi-Phật, nếu chỉ đạt hạ tuệ, thì gọi là Thanh văn[31].

Về năng lực nhận thức, theo luật Thiện Kiến, quyển 5, có sự khác biệt rất lớn giữa tuệ tri của Đức Phật và nhận thức của bậc Độc giác cũng như các bậc thánh giả khác. Luật ghi:

Phạm chí ngoại đạo chỉ biết trong phạm vi bốn mươi kiếp, hơn thế thì không biết. Do sự hạn hẹp của trí tuệ nên họ không thể thấy xa, chỉ thấy rõ việc thọ sanh,  ngoài ra, các việc khác đều không thấy được. Vì sao vậy? Vì trí tuệ yếu kém. Có tám mươi vị đại A-la-hán, rõ biết mười ngàn kiếp. Có hai thượng thủ A-la-hán rõ biết một A-tăng-kỳ-kiếp và mười ngàn kiếp. Bích-chi-Phật cũng rõ biết một A-tăng-kỳ-kiếp cộng với hơn mười ngàn kiếp. Những vị này tùy theo năng lực của mình mà có sự thấy biết khác nhau. Chỗ thấy biết của Đức Phật thì không cùng tận[32].

Như vậy, theo hai truyền thống kinh điển nêu trên, có sự khác biệt về năng lực tuệ tri cũng như phẩm vị giác ngộ giữa quả vị Phật toàn giác, Bồ-tát, Độc giác và A-la-hán. Theo kinh Đại-bát-niết-bàn[33] thuộc Trường Bộ, kinh Phân biệt cúng dường[34], thuộc Trung Bộ, kinh Mi Tiên vấn đáp[35] và các kinh Hán tạng tương đương, thì quả vị Độc giác đứng sau quả vị Phật và đứng trước quả vị A-la-hán. Theo các tập Jataka, giai vị giữa Độc giác và Bồ-tát không đồng nhau. Đôi khi một vị Độc giác có khả năng hướng dẫn tu tập cho Bồ-tát (tiền thân Đức Phật)[36]; trong trường hợp ngược lại, một vị Độc giác sở dĩ chứng ngộ là do sự hướng dẫn của Bồ-tát[37]. Tuy nhiên, theo kinh Thôn tiên, thuộc Trung Bộ, Chú giải kinh Tập (Paramatthajotikā II), luận Đại trí độ, thì Độc giác là một vị A-la-hán.

1.2.  Nhân duyên để trở thành bậc Độc giác.

Xét về nguyên nhân sâu xa, quả vị Độc giác sở dĩ được thành tựu là do quá trình tu tập nhiều đời. Ngài Buddhaghosa trong chú giải kinh Tương Ưng (Saṃyutta Nikāya Aṭṭhakathā) đã cho rằng, một vị sau khi trải qua hai A-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, thực hành đầy đủ các hạnh Ba-la-mật, đạt đến bản thể tự chủ, được gọi là bậc Độc giác[38].Ở bản chú giải kinh Tập (Paramatthajotikā II) cũng xác nhận điều tương tự[39]. Ở Hán tạng, theo luận Đại trí độ, quyển thứ 18,  là vị đã tu tạo công đức trong một trăm kiếp[40].

Trong khuôn khổ khảo cứu, chúng tôi tập trung tìm hiểu những nguyên nhân trực tiếp để trở thành một bậc Độc giác trong kiếp sống sau cùng, từ những câu chuyện, những sự kiện được ghi lại trong các tập Jataka.

Khảo sát trên 20 câu chuyện trong các tập Jataka, và những tư liệu tương đương trong Hán tạng, đã cung cấp những bằng chứng cho thấy, điều kiện cơ bản để chứng đạt quả vị Độc giác, là vị đó nhận ra ba đặc tính quan trọng của đời sống, là vô thường, khổ và vô ngã, trên nền tảng của nguyên lý duyên sinh.

Quán sát và chứng nghiệm vô thường.

Theo chuyện tiền thân số 378, chuyện Bà-la-môn Darīmukha. Có hai người bạn Brahmadatta và Darīmukha cùng kết thân từ thuở bé. Đến tuổi trưởng thành, cả hai du phương cầu học tại Takkasilā. Trong thời gian đó, quốc vương Ba-la-nại băng hà và chưa tìm ra người kế vị. Theo sự hướng dẫn của quan tế sư, quan quân triều đình nỗ lực tìm kiếm.

Nghe tiếng nhạc hiệu, Darīmukha đã vội ẩn mình, đoàn cung nghinh sau khi thăm hỏi, đã cung rước Brahmadatta về kinh đô và tôn lên ngôi vua. Trong lúc chìm đắm vinh quang trên ngôi cao Cửu ngũ, vua Brahmadatta đã quên mất người bạn chí cốt của mình. Cùng thời gian đó, khi biết đoàn hộ giá đã rời xa, Darīmukha bước ra và ngồi yên trên bảo tọa trong vườn. Ngay khi ấy, một ngọn lá khô rơi xuống trước mặt ngài. Thấy rõ các quy luật lão tử, ngài bừng ngộ Tam pháp ấn (Khổ, vô thường, vô ngã) và chứng đắc quả vị Độc Giác Phật (Paccekabodhi), liền reo mừng hoan hỷ làm vang dậy cả cõi trần[41].

Cùng sự kiện thấy lá khô rơi, và chợt nhận ra Tam pháp ấn để rồi chứng đạt quả vị Độc giác, là Chuyện hiền giả Sonaka số 529. Môtif câu chuyện cũng là hai người bạn thân, tên là Sonaka và Arindama, người chứng quả Độc giác là tôn giả Sonaka[42].

Quán sát và chứng nghiệm về khổ.

Khổ đau từ những biến thể của dục vọng, là một trong những tiền đề để chứng đạt quả vị Độc giác. Khổ có nhiều cấp độ. Khổ do sắc dục, khổ vì trói buộc gia đình, khổ vì tranh chấp quyền uy hay mưu toan vương vị.

Theo chuyện tiền thân số 408, Chuyện người thợ gốm,  quốc vương Nimi trị vì quốc độ Videha. Một buổi sáng nhìn qua song ngự điện, vua thấy một con diều hâu vừa cắp được miếng thịt, thì các con khác bay quanh cắn mổ nó. Không chịu nổi đớn đau, diều hâu đành buông ra thì một con khác liền chụp lấy miếng thịt, và bọn chúng lại cắn mổ con kia như trước. Vua thấy bầy chim, suy nghĩ: "Ai lấy miếng thịt, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ miếng thịt, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Ai hưởng năm dục lạc, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ năm dục lạc, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Nay ta có mười sáu ngàn cung nữ, ta cần phải sống trong hạnh phúc sau khi từ bỏ năm dục lạc như diều hâu bỏ miếng thịt". Quan sát việc này với trí tuệ, ngay khi đứng tại đó, vua nhận thức ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và thành đạt viên trí của quả Độc Giác Phật[43].

Tương tự, vua Dummukha quan sát con bò đực tử thương, do bị những con bò đực khác đâm thủng ruột,vì cùng tranh dành một nàng bò cái. Sự kiện này đã làm cho nhà vua chấn động tâm can và ngay tại đó chứng đắc quả vị Độc giác[44].

Bên cạnh khổ đau từ dục vọng, thì sự trói buộc của gia đình cũng là một trở ngại lớn cho những bậc có chí nguyện xuất trần. Trong Luận về nhân duyên Bích-chi-Phật ở Hán tạng, đã nêu dẫn sự trói buộc của gia đình, của công việc như những lùm cây với cành lá rậm rạp, khi có việc cần lấy ra một cây thì cũng rất khó khăn vì chúng đã cột chặt lẫn nhau[45].  Tương tự, kinh Con Tê ngưu một sừng (Sn.6) đã tóm tắt sự kiện đó bằng những vần kệ cô đọng:

Ai nhớ nghĩ chờ mong./ Đối với con và vợ./ Người ấy bị buộc ràng./ Như cành tre rậm rạp[46].

Nếu sự trói buộc của gia đình, vợ con chỉ gây ra phiền não ở mức độ vừa phải, thì lòng tham về danh vọng, vương quyền đã tiềm tàng vô số tai ương. Câu chuyện quốc vương Nguyệt Xuất (月出)nước Ba-la-nại, nhận ra âm mưu ly gián, nhằm thoán ngôi của gian thần, đã làm cho ngài chán ngán ngôi vua và chứng đạt quả vị Bích-chi-Phật. Sau đó, ngài đã tự thuật qua những vần kệ: Như bướm vào lửa lớn./ Đắm tham nước cũng thế./ Dính mắc chuyện được, thua./ Mưu toan, tự thực hiện./ Làm đất nước sầu đau./ Không chốn nào yên ổn. / Vừa tư duy như thế./  Thân nghiệp liền thuần tịnh./ Tâm khởi niệm yểm ly./ Liền thành Bích-chi-Phật[47].

Quan sát và chứng nghiệm về vô ngã.

Ba pháp ấn vô thường, khổ và vô ngã vốn không lìa nhau. Nhận ra một trong ba đặc tính thì sẽ trực ngộ những đặc tính còn lại. Tuy nhiên, tùy theo nghiệp cảm và năng lực tu tập của mỗi người mà có sự sai khác. Chuyện người thợ gốm trong Jataka số 408 có những liên hệ đến đặc tính duyên sinh, vô ngã.

Trong quốc độ Gandhāra ở kinh thành Takkasilā, vị vua mệnh danh Naggaji ngự trên thượng lầu, giữa vương sàng, thấy một nữ nhân đeo vòng ngọc trên một tay, đang xay hương liệu gần đó, vua suy nghĩ: "Các vòng ngọc này không cọ xát hoặc kêu leng keng khi rời nhau", và cứ ngắm nghía nàng ấy mãi. Sau đó, nàng ấy đặt chiếc vòng từ tay phải sang tay trái và dùng tay phải thu góp hương liệu rồi bắt đầu xay tiếp. Chiếc vòng trên tay trái chạm vào chiếc vòng kia gây tiếng động.

Vua quan sát hai chiếc vòng cọ xát vào nhau, gây âm thanh, liền suy nghĩ: "Vòng ấy khi để riêng không chạm vào vật gì cả, nay đụng vào vòng thứ hai gây tiếng động, khi hai ba chiếc vòng chạm nhau tạo thành tiếng ồn lớn. Nay ta trị thần dân ở hai quốc độ Kasmīra và Gandhāra, ta cũng cần phải ở riêng như chiếc vòng độc nhất để tự trị chứ không trị kẻ khác nữa". Như vậy lấy việc cọ xát hai chiếc vòng làm chủ đề, trong lúc ngồi đó, vua nhận thức Ba đặc tính trên và đạt Tuệ giác, đắc quả Độc Giác Phật[48].

Có thể nói, do công hạnh tu tập từ nhiều kiếp, kết hợp với nhân duyên đã chín muồi trong đời hiện tại, cộng với sự tác động mạnh mẽ của thực tại khách quan, đã đưa một chúng sanh đạt đến quả vị Độc giác. Ngoài ra, trong một số trường hợp, khi tâm tàm quý được khơi dậy và đẩy lên cực điểm, cũng là một trong những tiền đề dẫn đến quả vị Độc giác, như năm trường hợp trong Jataka số 459 đã chỉ ra[49]. Tuy nhiên, đây không phải là những trường hợp phổ biến.

Như vậy, xét về nguyên nhân trực tiếp, việc trực ngộ chân lý về vô thường từ sự biến đổi của sự vật, nhận thức rõ bản chất khổ đau từ những biến thể của dục vọng, và thâm nhập yếu tính vô ngã của các pháp, là những nguyên nhân chính để tác thành nên quả vị Độc giác.

Kể từ đây, một bậc Độc giác đã tùy theo nhân duyên và tâm nguyện của mình đã tạo nên những hành trạng đặc thù trong thực tế hóa đạo chúng sanh.

1.3.  Biện nghi về hành hoạt của bậc Độc giác.

Có nhiều cách hiểu chưa đầy đủ xoay quanh về hành hoạt của một bậc Độc giác, như: một bậc Độc giác thì phải du hành cô độc, không giảng dạy chánh pháp, chuyên về tự độ, không lập hạnh độ tha… Định kiến này được hình thành từ cơ sở được nêu dẫn trong một vài bộ kinh, luận Hán tạng[50], và trong cả một dịch phẩm luận tạng nổi tiếng[51]. Nhân đây, chúng tôi xin được biện giải về những tồn nghi này, nhằm góp phần làm rõ thêm về hành hoạt của các vị Độc giác.

Đơn cử cho những tồn nghi nêu trên, theo kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 24, một bậc Độc giác là bậc: Du hành không bạn hữu./ Không thuyết pháp cho người (獨逝無伴侶,不與他說法)[52].

Quan điểm này cũng xuất hiện trong bản kinh biệt hành Thọ tân tuế kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch[53]. Như vậy, đây không phải quan điểm được thêm vào về sau mà xuất hiện khá sớm trong thư tịch Phật giáo. Muốn hiểu đúng cụm từ này, cần phải dựa vào sự luận giải từ những luận tạng liên quan, cũng như nghiên cứu về tính kế thừa của ngôn ngữ kinh văn ở thời kỳ đầu, trong mối giao thoa với các giá trị văn hóa, lịch sử-xã hội.

Trước hết, với cụm từ Du hành không bạn hữu (獨逝無伴侶). Theo sự giải thích của luận Du-già-sư-địa: bản tánh nơi Độc giác trước chưa chứng đắc quả vị Bồ-đề Độc giác (本性獨覺先未證得彼菩提時)[54], thời có chủng tánh Bạc trần. Do nhân duyên này, nên đối với chốn huyên náo, tâm không yêu thích. Đối với xứ tịch tĩnh, tâm luôn yêu thích[55]. Ý nghĩa Du hành không bạn hữu nằm ở nghĩa này, đi cùng với lưu ý quan trọng là, trước khi chứng đắc quả vị Độc giác. Đây cũng là tâm thế của một bậc Độc giác được mô tả trong kinh Tập (Sn.6) Hãy sống riêng một mình./ Như tê ngưu một sừng[56] (eko care khaggavisāṇakappo)[57].

Thứ hai, với câu Không thuyết pháp cho người (不與他說法). Theo luận Du-già-sư-địa: bản tánh nơi Độc giác trước chưa chứng đắc quả vị Bồ-đề kia thì có chủng tánh Bạc bi (tâm bi mỏng). Do nhân duyên này, nên đối với sự việc thuyết giảng chánh pháp, tạo lợi ích cho hữu tình, tâm không yêu thích. Ở trong sự việc trụ nơi tịch tĩnh, ít tư duy, thâm tâm yêu thích[58]. Có thể còn nhiều điều cần bàn về nội dung này, tuy nhiên, lưu ý quan trọng từ bản luận này, đó là, đối với sự việc thuyết giảng chánh pháp, tạo lợi ích cho hữu tình, tâm không yêu thích chỉ diễn ra vào thời điểm: trước khi chứng đắc quả vị Độc giác (獨覺先未證得).

 Trong liên hệ mở rộng, ở Phật giáo sơ kỳ, một bậc Độc giác đôi khi cũng được gọi là vị Mâu-ni[59]. Theo thánh điển Vệ-đà, bậc Mâu-ni (मुनि) là người giữ lời nguyền im lặng[60]. Từ điển Pāli cũng xác tín nghĩa tương đương và còn bổ sung thông tin: quả vị Độc giác là một trong sáu bậc Mâu-ni[61]. Mâu-ni trong Hán tạng ở thời nhà Đường được dịch là tịch mặc (牟尼, 此云寂默也)[62]. Do vậy, xét về từ nguyên, khi Độc giác được xem như vị Mâu-ni, thì dễ dàng mở ra cách hiểu, là một bậc không thuyết pháp cho người.

Trở lại nội dung được đề cập trong kinh Tăng-nhất-A-hàm nêu trên, ngữ cảnh xuất hiện của của cụm từ Độc giác chưa thể hiện rõ, đó là vị Độc giác đang trên đường huân tu, hoặc đã thành tựu quả vị, hay là vị Mâu-ni theo truyền thống Ấn giáo. Trường hợp này cũng giống với bối cảnh xuất hiện của hợp ngữ Ariyasāvaka, thường được dịch là bậc Thánh đệ tử[63]. Khi xuất hiện trong một ngữ cảnh không rõ ràng, thì khó có thể xác định phẩm vị tu chứng, cũng như nhân thân của một vị mang danh Ariyasāvaka. Vì lẽ, bậc Thánh đệ tử này có thể mang hình thức cư sĩ với quả vị Dự lưu (Sotāpatti), hoặc trong hình thức xuất gia với quả vị A-la-hán (Arahant).

Ở đây, căn cứ vào luận giải của luận Du-già-sư-địa nêu trên, đã đủ cơ sở để kết luận rằng, khi vị Độc giác được mô tả là bậc Du hành không bạn hữu./ Không thuyết pháp cho người (獨逝無伴侶,不與他說法), cần được hiểu rằng, đó là hành hoạt của một bậc Độc giác, đang trên con đường huân tu, trước khi thành tựu quả vị.

Về phương diện ngược lại, khảo từ kinh tạng cho thấy, sau khi thành tựu quả vị, một bậc Độc giác không những thuyết pháp cho tha nhân mà còn cùng nhau du hành, vì lợi ích, vì an lạc cho nhiều người, và thậm chí còn thuyết giảng cho cả tiền thân của Đức Phật. Thực tế này hoàn toàn trái ngược so với điều được nêu ra trong kinh Tăng-nhất-A-hàm. Thể hiện cụ thể ở những điểm sau.

Về vấn đề bạn hữu. Kinh Thôn tiên và bản kinh tương đương trong Hán tạng đều ghi nhận rằng, có 500 vị Độc giác cùng chung sống trong núi Thôn tiên. Kinh ghi: Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm trăm vị Độc Giác Phật sống trong một thời gian khá dài, trong núi Isigili này[64] (Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, pañca paccekabuddhasatāni imasmiṃ isigilismiṃ pabbate ciranivāsino ahesuṃ)[65]. Hình ảnh bảy vị Độc giác đáp lời thỉnh cầu của vua Bharata cùng đến hoàng cung Roruva trong Jataka số 424, đã bổ chính thêm cho quan điểm này.

Về vấn đề khất thực, thuyết pháp. Trong nhiều mẫu chuyện tiền thân sinh động (Jataka) đã ghi nhận rằng, việc thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh cũng là một trọng trách của bậc Độc giác. Đoạn duyên khởi của Jataka, số 96 đã ghi: Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người con trai trẻ nhất trong một trăm người con của vua, dần dần đến tuổi trưởng thành. Thời ấy, các vị Phật Độc Giác thường đến dùng cơm trong cung điện của vua và Bồ-tát phục vụ các vị ấy. Một hôm Bồ-tát suy nghĩ: "Ta có rất nhiều anh, không biết ta có được vương quốc thuộc gia sản trong thành này hay không? Nếu hỏi các vị Phật Độc Giác, ta sẽ biết[66]. Việc cúng dường các vị Độc giác tạo nên công đức giàu có ở nhiều đời, cũng được ghi nhận trong kinh Tạp-A-hàm[67], bản kinh Pāli tương đương[68] và cũng xuất hiện trong Jataka số 390.

Ngay như tiền thân của Đức Phật, do vì dư nghiệp kiêu mạn về dòng dõi và địa vị vẫn còn, nên đã làm cho sở nguyện của ngài mãi chưa thành tựu, dù đã phát nguyện ẩn chốn cư thâm sơn, khi ấy, một vị Độc Giác Phật, nhận thấy ngài đang bị ngã mạn chi phối, tuy vậy, vị này biết rõ ngài không phải là người tầm thường. Vị ấy suy nghĩ: "Người này sẽ thành bậc Chánh Giác, và ngay trong hiện kiếp này người ấy sẽ đạt Tối thắng trí. Ta muốn giúp người ấy nhiếp phục ngã mạn và khiến người ấy tu tập các Thiền chứng"[69]. Với lời khuyên nhủ kịp thời của vị Độc giác, tiền thân Bồ-tát đã nhiếp phục được lòng kiêu mạn, thành tựu các thiền chứng và thắng trí.

Có thể nói, trong hành hoạt của một bậc đã thành tựu quả vị Độc giác, thì hai việc khất thực và thuyết pháp thường đi đôi với nhau[70]. Tư liệu kinh điển cả Hán tạng và Nikaya đã ghi nhận rất nhiều về sự kiện này và do vậy, quan điểm: không thuyết pháp cho người (不與他說法) cần được hiểu là phương cách ứng xử trước khi chứng đắc quả vị Độc giác.

Như vậy, con đường thành tựu quả vị Độc giác phải trải qua nhiều giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, khi vừa khởi tâm yểm ly thế gian thì cần phải chuyên tâm cô độc, dứt bỏ trần duyên, tịnh cư độc xứ…Hình ảnh con tê ngưu một sừng là hình ảnh tiêu biểu cho bậc Độc giác trong giai đoạn này.

Sau khi đã chứng đạt quả vị Độc giác, thì tùy duyên giáo hóa cho người, bất kể không gian, không từ phương xứ, miễn làm sao đem đến an lạc cho người thì bậc Độc giác sẵn sàng làm. Định nghĩa thế nào là Hạnh của một bậc Độc giác trong luận Du-già-sư-địa đã làm sáng tỏ điều này:

Tất cả các bậc Độc giác đều tùy thuận, dựa vào các xóm làng thôn ấp để trụ, khéo hộ trì thân, khéo giữ gìn các căn, khéo trụ nơi chánh niệm, tùy nhập nơi các xóm làng thôn ấp, hoặc là khất thực, hoặc là cứu độ các hữu tình ngu tối, thấp kém…[71] Hạnh nghi đó của một bậc Độc giác đã mở ra những dấu hiệu tương đồng, khi khảo cứu về hành trạng của tôn giả Minh Đăng Quang.


GHI CHÚ

[1]劉勰. 文心雕龍,書記: 體貌本原,取其事實,先賢表謚,並有行狀,狀之大者也.

[2] Truyện về Thích Sư Ngạn trong Tống Cao Tăng Truyện. Xem, 大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳,卷第十三,梁台州瑞巖院師彥傳.

[3] Chúng tôi sử dụng từ Tôn giả dựa theo nghĩa của chữ Bhante, căn cứ vào kinh Đại Bát Niết Bàn. Xem, Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 337.

[4]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三十二, 力品, 七.

[5]大正藏第 04 冊 No. 0200 撰集百緣經

[6]大正藏第 24 冊 No. 1462 善見律毘婆沙

[7]大正藏第 23 冊 No. 1440 薩婆多毘尼毘婆沙, 卷第三.

[8]大正藏第 32 冊 No. 1650 辟支佛因緣論

[9]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論

[10]大正藏第 28 冊 No. 1546 阿毘曇毘婆沙論

[11]大正藏第 26 冊 No. 1542 阿毘達磨品類足論

[12]大正藏第 29 冊 No. 1558 阿毘達磨俱舍論

[13]Monier-Williams, M. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p. 664. Cf: a Buddha who lives in seclusion and obtains emancipation for himself only.

[14]The Pāli Text Society’s Pāli-English Dictionary. Rhys Davids T.W – Stede William (Ed).Part V (P-Ph). London: Published by the Pāli Text Society. 1952. p.8. Cf: One enlightened by himself

[15]Martin G. Wiltshire. Ascetic Figures before and in Early Buddhism. New York – Berlin: Mouton de Gruyter.  1990.p.22

[16]The Sacred Books of the East. Vol XLV. Edited by F. Max. Muller. Gaina Sūtra– Part II: The Uttarādhyayana Sūtra. Hermann Jacobi. Trans.  Oxford: Clarendon Press. 1895.p.87

[17]Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 234-238

[18]大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義,卷第二十七

[19]Monier-Williams, M. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p. 664

[20]大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第十

[21]Theo Lương Cao tăng truyện, quyển 1, ngài Trúc Pháp Hộ thọ 78 tuổi (春秋七十有八). Ngài mất trong thời gian Tấn Huệ Đế từ Lạc Dương chạy về Trường An (晉惠西奔). Căn cứ vào tư liệu lịch sử, Tư Mã Dĩnh bắt được Tấn Huệ Đế vào năm 303, do Quan Trung chiến loạn nên ngài Trúc Pháp Hộ đã cùng với môn đồ chạy loạn về phía Đông, đến Thằng Trì thì ngọa bệnh rồi mất. Như vậy, ngài Trúc Pháp Hộ viên tịch vào khoảng năm 303. Theo Wisdom Library, ngài Trúc Pháp Hộ có niên đại: AD 223-300.

[22]Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 113.

[23] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 397.

[24]Xem tại, http://www.tipitaka.org.

[25]Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 45.

[26] 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第十九, 四意斷品. Nguyên văn: 辟支佛,無師自悟,去諸結使,更不受胎.

[27]Pāli Text Society. Sutta Nipāta Commentary. Vol 1. (Paramatthajotikā II). Edited by Helmer Smith. Lodon: Luzac and Company Ltd., 1966.  p.64. Cf: Sabbakilesāssa pahīnā mūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammāti – evaṃ ekantavigatakilesoti eko. Anācariyako hutvā sayambhū sāmaññeva paccekasambodhiṃ abhisambuddhoti – evaṃ eko paccekasambodhiṃ abhisambuddhoti eko.

[28]Nguyên tác Pāli: Cattāro hi buddhā – sabbaññubuddho, paccekabuddho, catusaccabuddho, sutabuddhoti. Tattha samatiṃsapāramiyo pūretvā sammāsambodhiṃ patto sabbaññubuddho nāma. Kappasatasahassādhikāni dve asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā sayambhutaṃ patto paccekabuddho nāma. Avasesā khīṇāsavā catusaccabuddhā nāma. Bahussuto sutabuddho nāma.Xem tại: http://tipitaka.org/romn/cscd/s0301a.att1.xml

[29]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第十八. Nguyên văn: 獨覺辟支迦佛有二種: 一, 本是學人, 在人中生; 是時無佛,佛法滅. 是須陀洹已滿七生,不應第八生,自得成道。是人不名佛,不名阿羅漢,名為小辟支迦佛,與阿羅漢無異; 或有不如舍利弗等大阿羅漢者. 大辟支佛, 亦於一百劫中作功德,增長智慧,得三十二相分: 或有三十一相,或三十, 二十九相,乃至一相. 於九種阿羅漢中, 智慧利勝,於諸深法中總相, 別相能入; 久修習定,常樂獨處. 如是相,名為大辟支迦佛,以是為異.

[30]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二. Nguyên văn:問曰: 如阿羅漢, 辟支佛,亦破婬怒癡,與佛何異? 答曰: 阿羅漢, 辟支佛雖破三毒, 氣分不盡: 譬如香在器中, 香雖出, 餘氣故在; 又如草木薪火燒煙出, 炭灰不盡,火力薄故. 佛三毒永盡無餘; 譬如劫盡火燒須彌山, 一切地都盡, 無煙無炭. 如舍利弗瞋恚氣殘, 難陀婬欲氣殘, 必陵伽婆磋慢氣殘; 譬如人被鎖, 初脫時行猶不便.

[31]大正藏第 28 冊 No. 1546 阿毘曇毘婆沙論, 卷第九. Nguyên văn: 若增上慧。覺知名等法. 是名為佛. 若以中慧. 名辟支佛. 若以下慧. 名曰聲聞.

[32]大正藏第 24 冊 No. 1462 善見律毘婆沙, 卷第五.  Nguyên văn: 外道梵志知四十劫, 此外不知. 智慧狹劣故, 不得遠知, 正知受生而已, 餘一切悉不能知. 何以故?為狹劣故. 大阿羅漢有八十人, 知十千劫; 有二上阿羅漢, 知一阿僧祇劫又十千劫; 辟支佛亦知一阿僧祇劫又十千餘劫, 此是隨所行而得知; 佛所知非可窮盡.

[33] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 330.

[34] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 597.

[35] Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, HT. Giới Nghiêm, dịch, NXB. Tôn giáo, 2003, tr. 318. Nguyên văn câu hỏi: Có gì khác nhau giữa tâm giải thoát, tuệ giải thoát của một vị A-la-hán và một vị Độc Giác Phật, thưa đại đức? - Về giải thoát, vô lậu ấy thì giống nhau nhưng về sự sâu cạn của tâm, của tuệ thì khác nhau. Ví như, vị Độc Giác Phật có thể biết tâm của vị A-la-hán, còn vị A-la-hán không biết tâm của vị Độc Giác Phật.

[36]Kinh Tiểu Bộ, tập 5, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 348-355.

[37]Kinh Tiểu Bộ, tập 5, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 356-364.

[38]Theo Chú giải kinh Tương Ưng SA I, 25 (Saṃyutta Nikāya Aṭṭhakathā).Nguyên văn: Kappasatasahassādhikāni dve asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā sayambhutaṃ patto paccekabuddho nāma.

[39] Xem, Pāli Text Society. Sutta Nipāta Commentary. Vol 1. (Paramatthajotikā II). Edited by Helmer Smith. Lodon: Luzac and Company Ltd., 1966.  p.52.

[40]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第十八. Nguyên văn:大辟支佛, 亦於一百劫中作功德

[41] Kinh Tiểu Bộ, tập 4, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 513

[42] Kinh Tiểu Bộ, tập 5, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 723.

[43] Kinh Tiểu Bộ, tập 4, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 635-636.

[44]Kđd.

[45]大正藏第 32 冊 No. 1650 辟支佛因緣論, 卷下. Nguyên văn: 在家如稠林.眾務如枝柯.雖欲求出要.縛著永無因.

[46] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 335.

[47]大正藏第 32 冊 No. 1650 辟支佛因緣論, 卷下. Nguyên văn:如蛾投熾火,貪國盲亦爾.深著於得失,作以及不作,沒國事淤泥,不得寂定處,作是思惟時,身行極清淨,逮得厭惡心,即獲辟支佛.

[48] Kinh Tiểu Bộ, tập 4, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 635.

[49] Kinh Tiểu Bộ, tập 5, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 128-134.

[50]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十四. Nguyên văn: 恒沙過去佛,弟子清淨心,皆是諸佛法,非今釋迦文.辟支無此法,無歲無弟子,獨逝無伴侶,不與他說法; 大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論, 卷第一. Nguyên văn: 夫辟支佛法,不說法教化,專以神足感動三昧變現; 大正藏第 15 冊 No. 0614 坐禪三昧經, 卷下. Nguyên văn: 若佛不出世,無佛法無弟子時,是時離欲人辟支佛出. Lưu ý rằng, bản kinh Tọa thiền tam muội do ngài Tăng-già-la-sát (僧伽羅剎) soạn tập, nội dung nêu dẫn nhiều bản kinh văn, trong đó có cả luận Đại trí độ, chuyện tiền thân số 408 liên quan đến quả vị Độc giác, và quan điểm riêng của tác giả.

[51] Luận Đại Trí Độ, tập 1, TN Diệu Không, dịch, chùa Hồng Ân, TP. Huế, 1987, Lưu hành nội bộ, tr. 583. Nguyên văn: Chư vị Bích Chi Phật chỉ ở một mình, tự tu học, tự giác ngộ, rồi liền nhập Niết Bàn, không ra hoằng pháp độ sanh. Chúng tôi đã tham chiếu nguyên bản Hán tạng, và cả bản dịch luận Đại Trí Độ của HT. Thích Thiện Siêu, nhưng không có đoạn văn này.

[52]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十四.

[53]大正藏第 01 冊 No. 0061 受新歲經

[54]大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第三十四, 本地分中獨覺地第十四.

[55] Luận Du-già-sư-địa, tập 2, Nguyên Huệ, dịch, NXB. Hồng Đức, 2013, tr. 203

[56] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 334-344.

[57] Xem tại, http://www.tipitaka.org.

[58] Luận Du-già-sư-địa, tập 2, Nguyên Huệ, dịch, NXB. Hồng Đức, 2013, tr. 203

[59] Martin G. Wiltshire. Ascetic Figures before and in Early Buddhism. New York – Berlin: Mouton de Gruyter.  1990.p.22

[60] Monier-Williams, M. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p. 823. Cf: one who has taken the vow of silence.

[61] The Pāli Text Society’s Pāli-English Dictionary. Rhys Davids T.W – Stede William (Ed).Part V (P-Ph). London: Published by the Pāli Text Society. 1952. p. 162-163.

[62]大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第二十一

[63] Buddhadatta Mahāthera A.P.Consice Pāli-English Dictionary. Sri Lanka: University of Ceylon, 1949. p. 37.

[64] Kinh Trung bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr. 396.

[65] Xem tại, http://www.tipitaka.org.

[66] Kinh Tiểu Bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 371.

[67]大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 四十六, 一二三三. Nguyên văn: 遇多迦羅尸棄辟支佛,施一飯食

[68] Kinh Tương ưng bộ, tập 1, Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr. 161.

[69] Kinh Tiểu Bộ, tập 5, Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 350.

[70] Theo Trưởng lão Tăng kệ và kinh  Thuyết bổn, thuộc Trung A-hàm, trong kiếp quá khứ, tôn giả Anuruddha đã từng cúng dường một vị Độc giác và nghe vị này thuyết giảng giáo pháp. Xem, 大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 王相應品,說本經. Kinh Tiểu Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 453-454.

[71] Luận Du-già-sư-địa, tập 2, Nguyên Huệ, dịch, NXB. Hồng Đức, 2013, tr. 205-206.

...

Trích Nghiên Cứu Về Những Tương Đồng.. - TG Chúc Phú

959

Luật Nhân Quả Trong Đời Sống Xã Hội và Khoa Học

Luật Nhân Quả Trong Đời Sống Xã Hội và Khoa HọcLUẬT NHÂN QUẢ LÀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG TÂM LINHKhi con người không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự

16,699
BÀI CA CHO DAGMEMA Tâm Bảo Đàn

“Con trai ta, ngay từ giây phút đầu tiên, ta đã biết rằng con sẽ là người đệ tử có khả năng để thọ nhận giáo pháp. Vào đêm hôm trước, trước

527
NGƯỜI LẮNG NGHE TIẾNG KHÓC CỦA THẾ GIAN - SHE WHO HEARS THE CRIES OF THE WORLD (Phật giáo song ngữ Việt - Anh)

Tranh gốm nung của nghệ nhân Kubasa Kazuhisha NGƯỜI LẮNG NGHE TIẾNG KHÓC CỦA THẾ GIANTrong biểu tượng Phật giáo, tâm Đại bi được thể hiện trong Bồ tát Quán Thế Âm, người được cho

590
Dẫn vào thế giới Văn học Phật giáo - (Tuệ Sỹ)

Văn học phật giáoI. GIỚI HẠN CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁOÝ nghĩ đầu tiên của một người vừa bước đến văn học Phật giáo, tất nhiên sẽ coi đây chỉ là một

22,065
12 THÓI QUEN CỦA NGƯỜI CHÂN THẬT

Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient – EQ) cao là một lợi thế giúp nâng cao khả năng tập trung và huy động nguồn lực để giúp một

769
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,233
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,670
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,570
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,340
Chùa Việt
Sách Đọc