Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi nay muốn nói thí dụ Bồ tát. Phật nói: Xá Lợi Tử! Tùy ý ngươi nói.
Xá  Lợi Tử nói: Bạch Thế Tôn! Như các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Ðại  thừa, trong mộng thấy tu hành bát nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh  giới, bố thí Ba la mật đa, ngồi nơi đạo tràng chứng Vô thượng giác.  Phải biết các thiện nam tử, thiện nữ nhân này hãy gần Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề. Huống chi Bồ tát Ma ha tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề, khi giác tỉnh tu hành bát nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh  giới, bố thí Ba la mật đa, mà chẳng chóng thành Vô thượng Chánh giác ư?  Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chẳng lâu sẽ ngồi dưới cội Bồ đề,  chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng  chúng. Bạch Thế Tôn! nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, thọ trì đọc tụng, như giáo tu hành,  phải biết các thiện nam tử, thiện nữ nhân này lâu học Ðại thừa, căn lành  thành thục, cúng dường nhiều các Phật, phụng sự nhiều bạn lành, trồng  nhiều cội đức nên mới năng thành việc này.
Bạch Thế Tôn! Nếu các  thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ như lý, vì người diễn nói.  Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này hoặc đã được thọ ký Ðại Bồ đề, hoặc  gần sẽ được thọ ký Ðại Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ  nhân này như trụ vị Bất thối Bồ tát Ma ha tát, chóng được Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề. Do được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu này, năng  tin hiểu sâu sắc, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ như lý, tùy giáo tu hành,  vì người diễn nói. Bạch Thế Tôn! Ví như có người dạo đi đồng nội, trải  qua đường hiểm trăm cái tám mươi dặm, hoặc hai hoặc ba, hoặc bốn năm  trăm; thấy các tướng trước thành ấp vương đô, nghĩa là những kẻ thả trâu  vườn rừng ruộng thảy. Thấy các tướng ấy rồi, bèn nghĩ tác này: "Thành  ấp vương đô cách đây chẳng xa". Tác nghĩ ấy rồi thân ý thơ thới, chẳng  sợ ác thú, ác tặc, đói khát. Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại  như vậy. Nếu được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, thọ trì đọc  tụng, suy nghĩ như lý, sanh lòng tin hiểu sâu sắc, nên biết chẳng lâu sẽ  được thọ ký, hoặc đã được thọ ký, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.  Bồ tát Ma ha tát này không sợ đoạ bực Thanh văn, Ðộc giác. Vì cớ sao?  Vì Bồ tát Ma ha tát này đã được thấy nghe tướng trước, cung kính cúng  dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu Vô thượng Bồ đề vậy.
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy. Như lời ngươi vừa nói. Ngươi nhờ Phật lực nên nói tiếp nữa đi!
Khi  ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn  xem biển cả, lần hồi đi đến trải qua nhiều ngày chẳng thấy núi rừng, bèn  nghĩ tác này: "Nay xem tướng đây là biển cả chẳng xa. Sở dĩ vì sao? Vì  gần bờ biển đất chắc thấp dần, quyết không núi rừng". Bất giờ, người ấy  tuy chưa thấy biển mà thấy tướng gần, vui mừng nhảy nhót. Bạch Thế Tôn!  Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như vậy. Nếu được nghe Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu đây, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ như lý, sanh lòng tin hiểu  sâu sắc. Bồ tát Ma ha tát tuy chưa được Phật hiện tiền thọ ký: " Ngươi ở  đời sau trải ngần ấy kiếp hoặc trải trăm kiếp, hoặc trải ngàn kiếp,  hoặc trải trăm ngàn kiếp cho đến hoặc trải qua trăm ngàn trăm ức muôn ức  kiếp, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề", mà nên tự biết sẽ được thọ  ký chẳng xa. Vì cớ sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này đã được thấy tướng trước  rất xa cuả Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, cung kính cúng dường, thọ trì  đọc tụng, suy nghĩ như lý Vô thượng Bồ đề vậy.
Bạch Thế Tôn! Ví  như mùa xuân cây hoa trái, lá già đã rụng, nhánh nhóc tươi nhuận. Nhiều  người đã thấy đều nói lời này: "Lá hoa trái mới chẳng lâu sẽ nứt nở. Sở  dĩ vì sao? Vì các cây này lá hoa trái mới trước hiện tướng vậy". Người  châu Thiệm bộ trai gái lớn nhỏ thấy tướng này rồi, vui mừng nhảy nhót  đều nói lời này: " Chúng ta chẳng lâu sẽ được thấy hoa trái thịnh mậu  này". Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như vậy. Nếu được nghe  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu này, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ như lý,  tin hiểu sâu sắc. Phải biết căn lành đời trước đã thành thục, cúng dường  nhiều Phật, phụng sụ nhiều bạn lành, chẳng lâu sẽ được thọ ký Ðại Bồ  đề. Bạch Thế Tôn! Bồ tát ma ha tát này nên tác lên nghĩ này: " Ta định  biết đời trước có sức căn lành thù thắng, vì năng dẫn đến Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề". Vậy nên, nay thấy nghe cung kính cúng dưòng Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu, thọ trì đọc tụng, sâu sanh tin hiểu, suy nghĩ như  lý tùy sức tu tập.
Bạch Thế Tôn! Trong hội đây có các chúng  Thiên tử thấy Phật quá khứ đã nói pháp này, đều sanh vui mừng cùng nhau  bàn nói rằng: Xưa các Bồ tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa bèn được  thọ ký, nay các Bồ tát đã nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây,  chẳng lâu quyết định sẽ được thọ ký Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Ví như  người nữ mang thai lâu dần, thân kia chuyển nặng, đi đứng chẳng an, ăn  uống ngủ nghỉ thảy đều giảm thiểu nên chẳng vui nói nhiều, chán chỗ  thường làm, việc nhiều thở vội, vì thọ khổ đau vậy. Có người mẹ khác  thấy tướng đây rồi, tức biết nữ kia chẳng lâu sanh sản. Bạch Thế Tôn!  Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, lâu trồng căn lành, cúng dường  nhiều Phật, phụng sự nhiều bạn lành. Căn lành thành thục nên nay được  nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ như  lý, sâu sanh tin hiểu, tùy sức tu tập. Bạch Thế Tôn! Phải biết Bồ tát Ma  ha tát này do nhân duyên đấy, chẳng lâu được thọ ký Vô thượng Chánh  đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Phật khen Xá Lợi Tử! rằng: Hay thay!  Hay thay! ngươi khéo hay nói thí dụ Bồ tát được nghe Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu như thế, phải biết đều là nhờ Phật lực oai thần vậy.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng  Chánh Ðẳng Giác rất lạ hiếm có, khéo hay dặn dò các Bồ tát Ma ha tát,  khéo hay nhiếp thọ các Bồ tát ma ha tát! Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy,  như vậy. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cầu đến Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề vì nhiều hữu tình được lợi vui vậy, thương xót nhiêu  ích các trời người vậy. Các Bồ tát Ma ha tát này khi hành đạo Bồ đề, vì  muốn nhiêu ích vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức các loại hữu tình vậy,  nên mới đem bốn nhiếp sự mà nhiếp thọ đó. Những gì là bốn? một là bố  thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự; cũng an lập nó khiến  siêng tu tập mười thiện nghiệp đạo.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha  tát này tự hành bốn tĩnh lự, cũng dạy người hành bốn tĩnh lự. Tự hành  bốn vô lượng, cũng dạy người hành bốn vô lượng. Tự hành bốn vô sắc định,  cũng dạy người hành bốn vô sắc định. Tự hành sáu Ba la mật đa, cũng dạy  người hành sáu Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Các Bồ tát ma ha tát  này nương dựa Bát nhã Ba la mật đa sức khéo léo phương tiện, tuy dạy hữu  tình chứng quả Dự lưu mà mình chẳng chứng. Tuy dạy hữu tình chứng quả  Nhất lai, Bất hoàn, A la hán mà mình chẳng chứng. Tuy dạy hữu tình chứng  Ðộc giác Bồ đề mà mình chẳng chứng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát  này tự tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la  mật đa; cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức Bồ tát Ma ha tát  tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật  đa. Tự trụ bậc Bất thối chuyển, cũng khuyên kia trụ bậc Bất thối chuyển.  Tự nghiêm tịnh cõi Phật, cũng khuyên kia nghiêm tịnh cõi Phật. Tự thành  thục hữu tình, cũng khuyên kia thành thục hữu tình. Tự khởi thần thông  Bồ tát, cũng khuyên kia khởi thần thông Bồ tát. Tự tu đà la ni môn, cũng  khuyên kia tu đà la ni môn; tự tu tam ma địa môn, cũng khuyên kia tu  tam ma địa môn. Tự đủ vô ngại biện, cũng khuyên kia đủ thân vô ngại  biện. Tự đủ thân diệu sắc, cũng khuyên kia đủ thân diệu sắc. Tự đủ các  tướng hảo, cũng khuyên kia đủ các tướng hảo. Tự đủ hạnh đồng chơn, cũng  dạy kia đủ hạnh đồng chơn. Tự tu bốn niệm trụ, cũng dạy kia tu bốn niệm  trụ; tự tu bốn chánh đoạn, cũng dạy kia tu bốn chánh đoạn; tự tu bốn  thần túc, cũng dạy kia tu bốn thần túc; tự tu năm căn, cũng dạy kia tu  năm căn; tự tu năm lực, cũng dạy kia tu năm lực; tự tu bảy đẳng giác  chi, cũng dạy kia tu bảy dẳng giác chi; tự tu tám thánh đạo chi, cũng  dạy kia tu tám thánh đạo chi.
Tự trụ nội không, cũng khuyên kia  trụ nội không; tự trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại  không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô  tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,  cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh  không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, cũng dạy kia trụ ngoại  không cho đến vô tánh tự tánh không. 
Tự trụ chơn như, cũng dạy  kia trụ chơn như; tự trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất  biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật  tế, hư không giới, bất tư nghì giới; cũng dạy kia trụ pháp giới cho đến  bất tư nghì giới. Tự trụ khổ thánh đế, cũng dạy người trụ khổ thánh đế;  tự tu tập diệt đạo thánh đế, cũng dạy kia trụ tập diệt đạo thánh đế. Tự  tu bốn tĩnh lự, cũng dạy kia tu bốn tĩnh lự; tự tu bốn vô lượng, cũng  dạy kia tu bốn vô lượng; tự tu bốn vô sắc định, cũng dạy kia tu bốn vô  sắc định. Tự tu tám giải thoát, cũng dạy kia tu tám giải thoát; tự tu  tám thắng xứ, cũng dạy kia tu tám thắng xứ; tự tu chín thứ dệ định, cũng  dạy kia tu chín thứ đệ định; tự tu mười biến xứ, cũng dạy kia tu mười  biến xứ. Tự tu ba giải thoát môn, cũng dạy kia tu ba giải thoát môn.Tự  tu Bồ tát thập địa, cũng dạy kia tu Bồ tát thập địa, Tự tu năm nhãn,  cũng dạy kia tu năm nhãn; tự tu sáu thần thông, cũng dạy kia tu sáu thần  thông. Tự tu tất cả đà la ni môn, cũng dạy kia tu tất cả đà la ni môn;  tự tu tất cả tam ma địa môn, cũng dạy kia tu tất cả tam ma địa môn. 
Tự  tu Phật mười lực, cũng dạy kia tu Phật mười lực; tự tu bốn vô sở úy,  cũng dạy kia tu bốn vô sở úy; tự tu bốn vô ngại giải, cũng dạy kia tu  bốn vô ngại giải. Tự tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, cũng dạy kia tự  tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tự tu mười tám pháp Phật bất cộng,  cũng dạy người tu mười tám pháp Phật bất cộng. Tự tu nhất thiết trí,  cũng dạy kia tu nhất thiết trí; tự tu đạo tướng trí, cũng dạy kia tu đạo  tướng trí; tự tu nhất thiết tướng trí, cũng dạy kia tu nhất thiết tướng  trí. Tụ tu pháp vô vong thất, cũng dạy kia tu pháp vô vong thất; tự tu  tánh hằng trụ xả, cũng dạy kia tu tánh hằng trụ xả. Tự dứt tập khí tất  cả phiền não, cũng dạy kia dứt tập khí tất cả phiền não. Tự chứng Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng, cũng dạy  kia chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề quay xe diệu pháp độ vô lượng  chúng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Rất lạ, Thế Tôn!  Hiếm có, Thiện Thệ! Các chúng Bồ tát ma ha tát này trọn nên nhóm đại  công đức như thế, vì muốn lợi ích tất cả hữu tình tu hành Bát nhã Ba la  mật đa, cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha  tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa làm sao mau đựợc viên mãn? 
Phật  nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy sắc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thọ tưởng hành thức hoặc  tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau  được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la  mật đa chẳng thấy nhãn xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba  la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành  Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy  thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu  hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhãn giới hoặc  tăng hoặc giảm; chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn  xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này  tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhĩ giới hoặc tăng  hoặc giảm; chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm  duyên sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành  Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tỷ giới hoặc tăng hoặc  giảm; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên  sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát  nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi  hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy thiệt giới hoặc tăng hoặc giảm;  chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên  sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát  nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi  hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy thân giới hoặc tăng hoặc giảm;  chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh  ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba  la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành  Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy ý giới hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy  pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc  tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau  được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã  Ba la mật đa chẳng thấy địa giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thủy  hỏa phong không thức giới hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu  hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy vô minh hoặc tăng hoặc  giảm; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,  sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện!  Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy bố thí Ba  la mật đa hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,  tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này  tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu  Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nội không hoặc  tăng hoặc giảm; chẳng thấy ngoại không, nội ngoại không, không không,  đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,  vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng  không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô  tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc tăng hoặc giảm. Bồ  tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện  Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy  chơn như hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư  vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,  pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới hoặc tăng hoặc giảm.  Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.  Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng  thấy khổ thánh đế hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tập diệt đạo thánh đế  hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa  mau được viên mãn. 
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa chẳng thấy bốn tĩnh lự hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy  bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này  tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tám giải thoát hoặc  tăng hoặc giảm; chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa  mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa chẳng thấy bốn niệm trụ hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy  bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám  thánh đạo chi hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã  Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát  khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy không giải thoát môn hoặc tăng  hoặc giảm; chẳng thấy vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc tăng hoặc  giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy Bồ tát thập địa hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu  hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy năm nhãn hoặc tăng hoặc  giảm, chẳng thấy sáu thần thông hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện!  Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Phật mười  lực hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tăng hoặc  giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy pháp vô vong thất hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tánh hằng  trụ xả hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la  mật đa mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi  hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhất thiết trí hoặc tăng hoặc giảm;  chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc tăng hoặc giảm. Bồ  tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện  Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tất  cả đà la ni môn hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tất cả tam ma địa môn  hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa  mau được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa chẳng thấy quả Dự lưu hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy  quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Ðộc giác Bồ đề  hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa  mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba  la mật đa chẳng thấy tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc tăng hoặc giảm.  Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.  Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng  thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma  ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy pháp phải, chẳng thấy pháp quấy, chẳng thấy hữu lậu, chẳng  thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi. Bồ tát Ma ha tát này  tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy quá khứ, chẳng thấy  hiện tại, chẳng thấy vị lai, chẳng thấy thiện, chẳng thấy bất thiện,  chẳng thấy vô ký, chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, chẳng thấy cõi  Vô sắc. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật  đa chẳng thấy bố thí Ba la mật đa; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh  tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát  nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi  hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nội không; chẳng thấy ngoại không,  nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi  không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị  không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp  không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh  không. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy chơn như; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,  bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,  thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát Ma ha tát này tu hành  Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát  khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy khổ thánh đế, chẳng thấy tập  diệt đạo thánh đế. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau  được viên mãn. 
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa chẳng thấy bốn tĩnh lự; chẳng thấy bốn vô lượng, bốn vô  sắc định. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được  viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa  chẳng thấy tám giải thoát; chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được  viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật  đa chẳng thấy bốn niệm trụ; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm  căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy không giải thoát  môn; chẳng thấy vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ tát Ma ha tát này  tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy năm nhãn, chẳng thấy  sáu thần thông. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau  được viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã  Ba la mật đa chẳng thấy Phật mười lực; chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô  ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.  Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.  Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng  thấy pháp vô vong thất, chẳng thấy tánh hằng trụ xả. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhất thiết trí;  chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bồ tát Ma ha tát này tu  hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tất cả đà la ni môn,  chẳng thấy tất cả tam ma địa môn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã  Ba la mật đa mau được viên mãn.
Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì tất cả  pháp vô tánh tướng vậy, vô tác dụng vậy, chẳng khá chuyển vậy, hư vọng  dối trá, tánh chẳng bền chắc, chẳng tự tại vậy, vô giác thọ vậy, lìa  ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, rộng nói cho đến tri kiến giả vậy.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như Lai đã thuyết  chẳng khá nghĩ bàn. Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như Lai đã  thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Sắc chẳng khá nghĩ bàn nên Như  Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, thọ tưởng hành thức chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện  Hiện! Sắc xứ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ  bàn, thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết  chẳng khá nghĩ bàn.
Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng khá nghĩ bàn nên  Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn  xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai  đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Nhĩ giới chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; thanh giới, nhĩ thức giới và  nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn nên Như  Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Tỷ giới chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; hương giới, tỷ thức giới và  tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai  đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Thiệt giới chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; vị giới, thiệt thức giới và  thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn nên  Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Thân giới chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; xúc giới, thân thức  giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! ý giới chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; pháp giới, ý thức  giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá nghĩ bàn nên  Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn.
Thiện Hiện! Ðịa giới chẳng  khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, thủy hỏa phong  không thức giới chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ  bàn. Thiện Hiện! Vô minh chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng  khá nghĩ bàn; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,  sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã  thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! bố thí Ba la mật đa chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; tịnh giới, an nhẫn,  tinh tiến, tĩnh lự chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá  nghĩ bàn.
Thiện Hiện! Nội không chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã  thuyết chẳng khá nghĩ bàn; ngoại không, nội ngoại không, không không,  đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,  vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng  không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô  tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng khá nghĩ bàn nên  Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Chơn như chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; pháp giới, pháp tánh,  bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chẳng khá nghĩ  bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Khổ thánh đế  chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, tập diệt  đạo thánh đế chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ  bàn. Thiện Hiện! Bốn tĩnh lự chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết  chẳng khá nghĩ bàn; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng khá nghĩ bàn nên  Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn.Thiện Hiện! Tám giải thoát chẳng  khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn; tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết  chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần  túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Không  giải thoát môn chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ  bàn; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai  đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Bồ tát thập địa chẳng khá nghĩ  bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Năm nhãn  chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, sáu thần  thông chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. 
Thiện  Hiện! Phật mười lực chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá  nghĩ bàn; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại  xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết  chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Pháp vô vong thất chẳng khá nghĩ bàn  nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, tánh hằng trụ xả chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Nhất  thiết trí chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn;  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã  thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Tất cả đà la ni môn chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn, tất cả tam ma địa môn  chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn.
Thiện  Hiện! Quả Dự lưu chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá  nghĩ bàn; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chẳng khá nghĩ bàn nên Như  Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Ðộc giác Bồ đề chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn. Thiện Hiện! Tất cả  hạnh Bồ tát Ma ha tát chẳng khá nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá  nghĩ bàn. Thiện Hiện! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng khá  nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng khá nghĩ bàn.
Thiện Hiện!  Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối sắc chẳng khởi  tưởng chẳng nghĩ bàn, đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi tưởng chẳng  nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được  viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật  đa, đối nhãn xứ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát  nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi  hành Bát nhã Ba la mật đa, đối sắc xứ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn,  đối thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn. Bồ tát  Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Thiện  Hiện! nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối nhãn giới  chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối sắc giới, nhãn thức giới và nhãn  xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn.  Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.  Thiện Hiện! Nêú Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối nhĩ  giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối thanh giới, nhĩ thức giới và  nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ  bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối  tỷ giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối hương giới, tỷ thức giới  và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ  bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối  thiệt giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối vị giới, thiệt thức  giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng  chẳng nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau  được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la  mật đa, đối thân giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối xúc giới,  thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng  khởi tưởng chẳng nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la  mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa, đối ý giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối pháp  giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi  tưởng chẳng nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát nha Bát nhã Ba la mật đa mau được  viên mãn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba  la mật đa, đối địa giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn, đối thủy hỏa  phong không thức giới chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát  này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối vô minh chẳng khởi  tưởng chẳng nghĩ bàn; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,  thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ  bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên  mãn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đối  bố thí Ba la mật đa chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn; đối tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi tưởng chẳng  nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được  viên mãn.
