Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

45. Riêng lưu lại kinh này

 Phẩm này chỉ rõ trong tương lai các kinh diệt hết, Phật vì lòng từ bi ‘riêng lưu lại kinh này tồn tại một trăm năm’.

Trong phần Tự, nơi phẩm Ðại Giáo Duyên Khởi, đức Thế tôn đã phóng đại quang minh, ánh sáng, tướng lành đều thù diệu, toàn là những điều xưa nay chưa từng được thấy. A Nan khải vấn nhân duyên Phật phóng quang, Phật khen ngợi A Nan rằng: ‘Chư thiên, nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều do lời hỏi của ông mà được độ thoát’. Ðó là vì do lời khải vấn của ngài A Nan, đức Thế Tôn bèn dạy ra kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác thù thắng, hy hữu này, đủ chứng tỏ kinh này chính là do đức Thế Tôn ‘vì lòng đại bi vô tận, thương xót tam giới’, ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật’ nên mới nói pháp bảo rộng lớn, viên mãn, giản dị, phương tiện thẳng tắt, đệ nhất hy hữu khó được gặp gỡ này.

Mãi đến đời mai sau khi kinh pháp diệt hết, do lòng từ bi, Phật riêng lưu lại kinh này tồn tại một trăm năm. Kẻ gặp được kinh này tùy lòng mong mỏi đều được độ thoát. Thật là lòng từ bi của Phật vô tận, ân Phật vô cực!

Ðiều này càng chứng tỏ diệu pháp thù thắng: phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm của kinh này thật sự là thuốc A Già Ðà để cứu vớt khắp các chúng sanh. Khi pháp diệt tận, chúng sanh nghiệp chướng càng sâu, chỉ còn biết cậy vào pháp này để thoát sanh tử, càng tỏ rõ pháp này là phương tiện rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn.

 Chánh kinh: Ta nay vì các chúng sanh nói kinh pháp này hòng khiến họ thấy được Vô Lượng Phật và hết thảy các thứ trong cõi nước ngài, đều có thể đạt được những việc nên làm. Chẳng nên sau khi ta diệt độ rồi lại sanh nghi hoặc.

 Giải: Câu ‘khiến họ thấy được Vô Lượng Thọ Phật và hết thảy các thứ trong cõi nước ngài’ hàm ý: Do oai lực của Phật, hết thảy tất cả y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc như đã nói trong phẩm Lễ Phật Hiện Quang đều hiện rõ ràng như đối trước mắt, ai nấy đều thấy. Do thắng duyên ấy nên hội chúng đều sanh khởi lòng tin chơn thật; lại do oai đức của Phật Di Ðà gia trì nên thiện căn của hội chúng thảy đều tăng thượng. Vì thế bảo là ‘đều có thể đạt được những việc nên làm’. Sách Hội Sớ bảo: “Những việc nên làm” là thực hiện nguyện hạnh vãng sanh; “đều có thể đạt được” là nếu thuận theo kinh Phật thì đều có thể đạt được [những việc đáng nên làm ấy]’

Cuối đoạn trên, Phật lại rủ lòng từ răn dạy: Hiện tại quý vị đã đích thân thấy nghe, vì thế sau khi Phật đã diệt độ, chớ ‘lại sanh nghi hoặc’ y báo, chánh báo cõi Cực Lạc và pháp môn Tịnh Ðộ.

 Chánh kinh: Ðời tương lai, kinh đạo diệt sạch, ta vì từ bi, thương xót, riêng lưu lại kinh này tồn tại trăm năm. Nếu có chúng sanh nào gặp được kinh này, tùy lòng mong mỏi đều được độ thoát.

 Giải: Ngài Thiện Ðạo nói về việc tương lai kinh pháp sẽ diệt hết như sau: ‘Vạn năm Tam Bảo diệt, kinh này trụ trăm năm’. Các vị Tịnh Ảnh, Ðạo Xước, Từ Ân, Nghĩa Tịch, Pháp Trụ, Vọng Tây cũng bảo như vậy.

Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Câu “đời tương lai, kinh đạo diệt” ý nói  trong đời vị lai, pháp diệt tận. Chánh pháp của đức Thích Ca tồn tại năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một vạn năm. Khi hết thảy [các thời gian] ấy đã qua hết thì gọi là diệt tận’.

Nhưng ngài Cảnh Hưng lại dựa vào sách Pháp Trụ Ký mà cho rằng pháp diệt nhằm giai đoạn kiếp tăng, con người thọ được bảy vạn tuổi. Sách Pháp Trụ Ký nói:

‘Khi tuổi thọ con người cao nhất chỉ là mười năm thì kiếp đao binh khởi, [con người] tàn sát lẫn nhau. Khi đó, Phật pháp tạm diệt. Sau khi tuổi thọ tăng tới trăm tuổi thì mười sáu vị đại A La Hán và các quyến thuộc lại xuất hiện nơi đây, xứng tướng hiển thuyết vô thượng chánh pháp, độ vô lượng chúng. Cho đến lúc con người ở châu này thọ sáu vạn tuổi thì vô thượng chánh pháp lưu hành trong thế gian phồn thịnh chẳng ngớt. Ðến khi con người thọ bảy vạn tuổi thì mười sáu vị A La Hán (như ngài Tân Ðầu Lô chẳng hạn) và các quyến thuộc cùng lúc nhập vô dư Niết Bàn’.

Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Ngay lúc con người thọ được bảy vạn năm thì vô thượng chánh pháp mới vĩnh viễn diệt mất nên bảo là kinh đạo diệt tận’.

Cả hai thuyết trên đều có lý riêng. Ngài Vọng Tây phán định: ‘Ngài Thiện Ðạo là đức Di Ðà hóa thân, ngài Từ Ân là Quán Âm hóa hiện nên lời giải thích của hai ngài chẳng thể xem thường. Phải nên dựa theo đó’. Theo ý ngài Vọng Tây, để giải thích đoạn kinh này ắt phải tuân theo lời giải thích của tổ Thiện Ðạo; thuyết ấy rất đúng.

Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘riêng lưu lại kinh này’ như sau: ‘Phật vì từ bi, thương xót chúng sanh nên sau khi pháp diệt, riêng lưu lại kinh này cả trăm năm để cứu vớt. Vì kinh này khai thị pháp Tịnh Ðộ khiến người ta cầu sanh nên Phật riêng lưu lại kinh này. Kinh Ðại Niết Bàn hiển thị Phật tánh nhưng vì thánh nhân ẩn mất trước nên kinh ấy bị ẩn mất trước hết. Kinh này dạy người chán khổ, cầu vui, là pháp trọng yếu để cứu vớt phàm phu nên bị diệt mất sau’.

Ý nói: Kinh này dạy người niệm Phật cầu sanh Tây phương nên riêng lưu lại trong một trăm năm cuối để cứu độ chúng sanh. Còn như kinh Niết Bàn (và kinh Thủ Lăng Nghiêm) hiển thị chơn lý ai ai cũng sẵn có Phật tánh là pháp rất sâu xa trong thánh giáo; nhưng chúng sanh đời mạt căn tánh kém cỏi, không ai lãnh hội nổi nên sẽ bị diệt mất trước hết. Kinh Vô Lượng Thọ đây dạy người nhàm chán Sa Bà, yêu thích, hâm mộ Cực Lạc; chính là pháp yếu để cứu độ phàm phu cho nên sẽ diệt sau rốt.

Ðoạn kinh từ câu ‘nếu có chúng sanh’ cho đến ‘đều được độ thoát’ được ngài Tịnh Ảnh giảng như sau:

‘Gặp được kinh này thì đều thỏa sở nguyện, đó là nói về ích lợi của lưu lại pháp. Sau khi pháp diệt, trong vòng trăm năm được nghe còn được lợi ích vãng sanh Tịnh Ðộ, huống hồ nay được nghe lẽ đâu chẳng sanh?’

Ý ngài nói: Gặp gỡ kinh này đều được mãn nguyện thật đã hiển thị lợi ích của việc riêng lưu lại kinh này. Còn như sau khi pháp đã diệt, nghe được kinh này còn được lợi ích vãng sanh Tây phương, huống hồ là người hiện tại nghe được kinh này mà tin nhận thì lẽ đâu lại chẳng được vãng sanh Tây Phương? Bởi thế, trong Tịnh Ảnh Sớ, ngài Huệ Viễn viết tiếp: ‘Quyết định vãng sanh, chớ tự ngờ lo’.

‘Ðắc độ’ là vượt qua được biển sanh tử để chứng Niết Bàn. Chữ ‘biển’ để ví sanh tử, ‘bờ kia’ ví với Niết Bàn, thoát khỏi trôi nổi trong dòng sanh tử vượt lên bờ kia Niết Bàn nên bảo là ‘đắc độ’.

 Chánh kinh: Ðức Như Lai xuất hiện trong đời khó gặp, khó thấy; kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe. Gặp thiện tri thức, nghe pháp xong có thể tu hành, điều ấy lại càng khó. Như nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì thì là việc khó nhất trong những việc khó, không còn gì khó hơn nổi.

 Giải: Trong đoạn này, Phật than thở: nghe kinh này tin nhận, thọ trì nổi chính là điều khó nhất trong các điều khó để con người biết rằng kinh này khó được nghe mà sanh lòng kính trọng, hy hữu.

‘Hưng thế’ là xuất hiện trong thế gian. Sách Tư Trì Ký nói: ‘Phật thân tràn ngập, tùy theo [từng loại] chúng sanh mà hiện thân. Thị hiện sanh diệt để tiếp độ các phẩm. Nếu xét theo cái thấy của cõi Sa Bà thì ngài đản sanh trong cung vua, bỏ tục đi tu hành, hàng ma, thành Phật nên bảo là “hưng thế”. Ý nói: Thân Phật đầy khắp cả pháp giới, chẳng có qua lại, ba đời hệt như nhau, vốn chẳng sanh diệt. Chỉ vì ứng cơ hóa độ nên thị hiện sanh trong vương cung, xuất gia tu đạo, hàng ma thành Phật; do đó mà gọi là “hưng thế”.

Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘khó gặp, khó thấy’ như sau: ‘Ý nói gặp Phật khó. Lúc Phật đang còn trong đời thì gọi là “gặp”, mắt trông thấy Phật gọi là “thấy”. Cả hai điều này đều là khó. “Kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe” v.v… ý nói pháp khó được nghe. Trong những câu ấy, trước hết nói rõ: khó được nghe biết kinh giáo. Tay cầm được quyển kinh gọi là “được”. Tai nghe gọi là “nghe”. Cũng có thể hiểu là lãnh thọ, tụng đọc là “được”, tai nghe nhận là “nghe”. Những điều ấy đều là khó’ nên bảo rằng: ‘Kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe”.

‘Gặp thiện tri thức, nghe pháp xong có thể tu hành, điều ấy lại càng khó’: Trong từ ‘thiện tri thức’, thiện nghĩa là có ích cho ta, dẫn dắt ta theo đường lành; tri là biết cái tâm; thức là rành cái hình như sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển 4 giảng: ‘Nghe danh là tri, thấy hình là thức. Người ấy có lợi cho đạo Bồ Ðề của ta nên gọi là thiện tri thức’. Như vậy, hai chữ ‘tri thức’ nghĩa là biết cái tâm, thấu hiểu cái hình. Do đó, thiện tri thức được gọi là thiện hữu (bạn lành). Người tương tri, tương thức của mình, dẫn dắt mình đi trên đường lành thì gọi là thiện hữu hay là thiện tri thức.

Viên Giác Kinh Ðại Sớ, quyển mười lăm có câu: ‘Khéo hiểu chơn, biết vọng, biết bịnh rành thuốc thì gọi là thiện tri thức’. Ý nói: người phân biệt rành chơn, vọng, thông đạt chơn tế, biết căn tánh của chúng sanh, theo bịnh cho thuốc thì gọi là thiện tri thức.

Trong tác phẩm An Lạc Tập, ngài Ðạo Xước lại dựa theo kinh Pháp Cú mà viết:

‘Phật dạy thiện tri thức có thể thuyết pháp sâu, nghĩa là: không, vô tướng, vô nguyện, các pháp bình đẳng, vô nghiệp, vô báo, vô nhân, vô quả, cứu cánh như như, trụ trong thật tế; nhưng trong tất cánh không lại rộn ràng lập ra hết thảy pháp thì gọi là thiện tri thức.

Thiện tri thức là cha mẹ vì dưỡng dục thân Bồ Ðề của các ông. Thiện tri thức là tròng mắt của các ông vì thấy hết thảy đường thiện ác. Thiện tri thức là thuyền lớn của các ông vì chuyên chở các ông vượt khỏi biển sanh tử. Thiện tri thức là dây giàm của các ông vì lôi kéo các ông ra khỏi sanh tử’.

Sách còn viết: ‘Hết thảy chúng sanh muốn đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nên thân cận thiện tri thức, thưa hỏi pháp yếu’. Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương trong kinh Pháp Hoa có câu: ‘Thiện tri thức là đại nhân duyên vì giáo hóa, dẫn dắt khiến được thấy Phật, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác’.

Muốn chứng Bồ Ðề thì nên cầu bạn lành. Nên dùng cách để cầu được bạn lành như kinh Viên Giác đã dạy:

‘Chúng sanh đời mạt toan phát đại tâm cầu thiện tri thức hòng tu hành thì nên cầu người có chánh tri kiến đối với hết thảy, tâm chẳng trụ tướng, chẳng đắm theo cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy hiện trong trần lao nhưng tâm hằng thanh tịnh; thị hiện có các lỗi, nhưng khen ngợi phạm hạnh, chẳng khiến chúng sanh làm điều chẳng đúng với luật nghi. Cầu người như thế thì liền được vô thượng chánh đẳng chánh giác’.

Kinh Viên Giác dạy rằng muốn cầu thiện tri thức thì trước hết phải tìm người có chánh tri kiến đối với hết thảy. Thế nào là chánh tri kiến? Viên Giác Ðại Sớ ghi: ‘Khéo thông đạt giác tánh, chẳng do tu mà sanh, quyết trạch không nghi thì gọi là chánh tri kiến’.

Giác tánh là tánh giác diệu minh. Khéo thông đạt được tánh giác sẵn có nên bảo là “khéo thông đạt giác tánh”. Giác tánh sẵn có ấy chẳng từ bên ngoài đến, chẳng phải do tu mà có nên bảo là ‘chẳng do tu mà sanh’, vì nó chính là chỗ chẳng thể tu để đạt đến nổi.

‘Quyết trạch’ là khéo phân biệt các pháp tướng. ‘Không nghi’ là bất động nơi Ðệ Nhất Nghĩa.

Ðại Sớ giảng câu ‘tâm chẳng trụ tướng’ như sau:

‘Tâm chẳng trụ tướng là lìa khỏi cảnh giới phiền não của phàm phu. Nếu còn bận tâm đến chút pháp thì gọi là trụ tướng. Thậm chí với Bồ Ðề, Niết Bàn còn chẳng chấp trước, huống hồ là cảnh giới huyễn mộng của thế gian. Vì thế, chẳng nên trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để sanh tâm, nên không trụ vào đâu cả mà sanh tâm. Ðã được vô tâm trụ thì liền khế hợp với viên giác’.

‘Chẳng đắm theo cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác’ là như kinh Xưng Tán Ðại Thừa đã dạy: ‘Thà ở trong địa ngục cả trăm ngàn kiếp, trọn chẳng phát tâm Nhị Thừa’.

Nói chung, tất cả những câu từ ‘tuy hiện trần lao’ cho đến ‘chẳng đúng với luật nghi’ là như Ðại Sớ đã nói: ‘Người hoại kiến tuy chẳng hoại hạnh, nhưng chẳng thể làm con mắt đạo cho chúng sanh. Dẫu hoại hạnh nhưng kiến giải chẳng sai lầm thì vẫn là ruộng phước chơn thật thù thắng cho trời người’.

Ðại Luận còn viết: ‘Ðối với các bậc sư tôn nên tưởng như Thế Tôn. Nếu có ai có thể khai hiển, giải thích nghĩa sâu, cởi mở nghi kết [cho mình] thì tận tâm cung kính, chẳng nghĩ đến các điều ác khác [của người đó].

Ví như cái túi dù bệ rạc thì chẳng nên vì cái túi ấy bệ rạc mà bảo là nó chẳng thể đựng nổi của báu.

Lại như ban đêm đi trên đường hiểm, có kẻ tệ hại cầm đuốc thì chẳng nên vì kẻ ấy tệ ác mà chẳng thèm nhờ kẻ ấy soi sáng.

Bồ Tát cũng lại như vậy: nhờ thầy mà được trí huệ quang minh thì chẳng bận tâm đến lỗi ác của thầy’.

Vì thế, kinh Viên Giác kết luận: ‘Cầu người như thế liền được vô thượng chánh đẳng chánh giác’. Ý nói: Những người [có đủ các đức tánh] như đã nói trên chính là chơn thiện tri thức. Có thể biết được, cầu được vị thiện tri thức như vậy thì ắt sẽ chứng Bồ Ðề.

Ðại Sớ còn nói: ‘Chỉ nên khéo thờ minh sư, gặp việc minh sư ắt sẽ chỉ dạy. Cũng giống như Thiện Tài phát Bồ Ðề tâm nơi đức Văn Thù xong, hỏi về Bồ Tát hạnh. Ngài Văn Thù chẳng dạy đủ mà lại dạy nên thân cận thiện hữu; ngài dạy nên gặp Ðức Vân tỳ kheo, lần lượt mà trụ’.

Sách còn viết: ‘Bởi thế kinh Pháp Cú dùng hăm mốt thí dụ để ví thiện tri thức, nghĩa là: cha mẹ, tròng mắt, chân cẳng, thang, ghế cao, thức ăn, áo báu, cầu, rường, của báu, mặt trời, mặt trăng, thân mạng v.v… Cuối cùng kết luận: “Thiện tri thức có vô lượng công đức như thế nên ta dạy các ông thân cận”. Ðại chúng nghe xong lớn tiếng than thở, tự nghĩ trong bao kiếp nhờ thiện tri thức thủ hộ nên ngày nay mới được gặp đức Như Lai, nhưng chưa từng báo ân, chưa hề có tâm thân cận. Thốt lên những lời ấy xong lại vật mình khóc lóc’.

Vì thế trong kinh Viên Giác, trong phẩm Phổ Giác có lời phổ khuyến như sau: ‘Chúng sanh đời mạt muốn tu hành thì phải nên trọn đời cúng dường, phụng sự thiện hữu, thờ kính thiện tri thức’. Muốn cung kính thiện tri thức thì trước hết phải phụng hành đúng như lời dạy, điều này lại càng khó. Bởi thế, kinh mới nói: ‘Nghe pháp xong có thể tu hành, điều ấy lại càng khó’, nghĩa là: thiện tri thức đã khó gặp, khó biết, nay may mắn đã cầu được; nhưng nếu đối với những điều thiện tri thức đã dạy mà ta chẳng thể tin nhận, phụng hành thì lương y cũng đành bó tay. Như thế thì dẫu có gặp cũng như không. Bởi thế nghe xong lời dạy của thiện tri thức mà có thể tin tưởng nổi; tin rồi làm nổi thì lại càng thật khó.

Trên đây, kinh đã nói những việc như gặp Phật, nghe kinh, gặp thiện tri thức, nghe pháp thực hành nổi; đó đều là những việc rất khó được, thật là hy hữu. Nhưng cả ba điều khó nói trên vẫn chẳng khó hơn nổi việc ‘nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì’. Ðấy mới là điều khó làm nổi nhất trong những điều khó làm nổi nên mới bảo là “khó nhất trong những điều khó”. Việc hy hữu khó được không chi hơn nổi việc này nên bảo ‘không còn gì khó hơn nổi’. Vì cớ sao?

Tịnh Ảnh Sớ đáp: ‘Các nghĩa khác, các kinh khác tuyên thuyết khắp nơi. Khai hiển Tịnh Ðộ, dạy người vãng sanh thì chỉ có mình kinh này nên là rất khó’.

Sách Hội Sớ cũng bảo: “Nếu nghe kinh này” là cái nghe biết được huân tập. “Tin ưa thọ trì” là chánh nhân vãng sanh, nghĩa là: tin ưa bổn nguyện, thọ trì danh hiệu. Vì pháp này siêu dị các giáo pháp khác, vì được lợi ích vượt trỗi các điều lành khác, vì mọi căn cơ đều cùng được vào trong báo độ (mọi căn tánh đều cùng được sanh trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm); vì chỉ một đời là thành tựu, ắt phải là do túc thiện nhiều kiếp nên bảo là khó nhất trong những điều khó v.v…’

Chuẩn theo ý của hai bộ sớ trên, ta thấy rằng nếu ai có thể đối với diệu pháp đệ nhất hy hữu, khó nghe, khó tin, một đời thành tựu này mà nghe được, tin được, lãnh nhận được, vâng giữ được thì nên biết người ấy ắt là đã huân tu trong nhiều kiếp, đã gieo nhiều căn lành, thật là hy hữu, vượt trỗi hết thảy. Vì thế mới bảo là ‘khó nhất trong các điều khó, không còn gì khó hơn nổi’.

Nói như vậy không có nghĩa pháp môn này khó tu mà là ngụ ý: thật là khó có những người có những thiện căn phước đức nhân duyên hy hữu như thế!

 Chánh kinh: Nếu có chúng sanh được nghe danh hiệu Phật, từ tâm thanh tịnh, hớn hở, hoan hỷ, lông tóc dựng cả lên, hoặc chảy nước mắt, [thì những người ấy] đều là do đời trước đã từng hành Phật đạo, chẳng phải là phàm nhân.

Nếu nghe danh hiệu Phật mà trong lòng hồ nghi, đối với những lời kinh Phật đều chẳng tin thì đều là mới từ trong ác đạo thoát ra, túc ương chưa hết, sẽ chưa được độ thoát nên tâm hồ nghi, chẳng tin tưởng nổi!

 Giải: ‘Ðược nghe danh hiệu Phật’ là câu trích trong bản Hán dịch, bản Ngô dịch ghi là ‘được nghe danh hiệu A Di Ðà Phật’, bản Ngụy dịch ghi là ‘được nghe danh hiệu đức Phật ấy’, bản Ðường dịch ghi là ‘được nghe tên đức Phật ấy’, bản Tống dịch ghi là ‘được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật’. Ðối chiếu các bản dịch, ta thấy rằng ‘danh hiệu Phật’ chính là danh hiệu A Di Ðà Phật.

‘Nghe’ là nghe tên, thọ trì. Bởi danh hiệu Phật có đủ vạn đức nên người nghe ‘từ tâm thanh tịnh’. Từ tâm là phát khởi đại tâm. Thanh tịnh là thuần tịnh vô cấu. ‘Hoan hỷ’ nội tâm hỷ lạc. ‘Hớn hở’ là sự hân hoan phấn chấn thể hiện ra nơi dáng vẻ, lời nói. ‘Lông tóc dựng cả lên’ ý nói các lỗ chân lông khắp thân mình nở to ra, lông đều dựng cả lên. ‘Chảy nước mắt’ là nước mắt tuôn ra. Những người như thế đều từ Phật đạo mà đến.

Vô thượng Bồ Ðề mà Phật đã chứng đắc gọi là ‘Phật đạo’. Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa có câu: ‘Các vị Thế Tôn ấy đều nói pháp Nhất Thừa, giáo hóa vô lượng chúng sanh khiến họ nhập Phật đạo’. Lại cũng vì do hạnh mà gọi là đạo: Phật đạo chính là vạn hạnh để đạt đến địa vị Phật.

Câu ‘từng hành Phật đạo, chẳng phải là phàm nhân’ chính là lời đức Phật khen ngợi, giống như kinh Kim Cang dạy: ‘Trong đời tương lai năm trăm năm sau, nếu có chúng sanh được nghe kinh này tin hiểu, thọ trì thì người ấy chính là đệ nhất hy hữu. Vì sao vậy? Người ấy không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sanh tướng, không có thọ giả tướng’.

Trong tác phẩm Phá Không Luận, ngài Linh Phong đã giảng như sau: ‘Ðây chính là tín tu đại quả. Nếu như còn có chút mảy tướng ngã, nhân v.v… thì quyết chẳng tin nổi kinh này. Nếu như tin hiểu, thọ trì kinh này thì quyết phải thông đạt ngã tướng, nhân tướng v.v… đương thể chính là vô tướng’.

Chuẩn theo lời giảng ấy mà luận thì kinh này là pháp hết thảy thế gian khó tin. Nếu ai sanh nổi lòng tin đối với pháp này thì nên biết rằng người ấy chẳng phải là phàm nhân, mà chính là người hy hữu trong hết thảy thế gian. Nếu có thể sanh lòng tin chơn thật vào Viên giáo, hiểu trọn vẹn, tu trọn vẹn thì đáng xưng tụng là viên nhân (người căn cơ viên đốn). Viên nhân tu hành một ngày bằng thường nhân tu hành cả một kiếp.

Trái lại, kẻ hồ nghi chẳng tin thì là mới từ ba ác đạo thoát ra, ương họa nghiệp chướng túc thế chưa đoạn hết, còn chưa đến thời kỳ được đắc độ nên chẳng thể tin nhận nổi. Ðây cũng chính là điều kinh Kim Cang đã nói: ‘Trong đời mai sau, có kẻ thọ trì, đọc tụng kinh này, nếu ta nói đủ công đức người ấy đạt được ắt sẽ có kẻ nghe rồi tâm liền cuồng loạn, hồ nghi chẳng tin’. Vì vậy, ta thấy rằng pháp môn càng thù thắng, thế nhân càng khó tin. Bởi lẽ đó, đối với pháp viên đốn, họ hồ nghi chẳng tin.

Xem mục lục