Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

31. Chơn thật công đức

 Phẩm này tiếp nối phẩm trước, tiếp tục nói về những diệu đức tự lợi, lợi tha của bậc Bồ Tát cõi Cực Lạc. Phẩm này gồm ba phân đoạn chính:

a. Dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa.

b. Trình bày công đức của Thật Tướng.

c. Ðược Phật tán thán.

 Chánh kinh: Trí họ sâu rộng ví như biển cả. Bồ Ðề cao rộng ví như Tu Di. Oai quang nơi thân mình vượt xa mặt trời, mặt trăng. Tâm họ khiết bạch ví như núi Tuyết. Nhẫn nhục như đất, hết thảy bình đẳng. Thanh tịnh như nước rửa các trần cấu. Hừng hực như lửa thiêu củi phiền não. Chẳng vướng mắc như gió: không chướng, không ngại. Pháp âm sấm rền giác ngộ kẻ chưa giác. Mưa pháp cam lồ để nhuần thấm chúng sanh. Rộng dường hư không vì đại từ bình đẳng. Như hoa sen sạch vì lìa nhiễm ô. Như cây Ni Câu vì tỏa bóng mát lớn lao. Như kim cang xử vì phá tà chấp. Như núi Thiết Vy vì chúng ma ngoại đạo chẳng động nổi.

 Giải: Ðây chính là phân đoạn thứ nhất: dùng các thí dụ để minh thị hạnh đức tự lợi, lợi tha của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc.

Trước hết lấy biển cả để ví trí huệ Bồ Tát rộng sâu. ‘Rộng’ tức là lớn lao như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Xin nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển’.

Tiếp đó dùng núi Tu Di để ví với quả Bồ Ðề cao tột chót vót của Bồ Tát. Núi Tu Di chính là trung tâm của một thế giới. Tu Di dịch sang tiếng Hán là núi Diệu Cao. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa giảng: ‘Hán dịch là Diệu Cao sơn. Do bốn thứ báu hợp thành nên gọi là Diệu. Cao hơn các ngọn núi khác nên gọi là Cao. Hoặc còn dịch là Diệu Quang sơn vì bốn thứ báu màu sắc, quang minh khác nhau chiếu ngời thế giới’.

Tu Di còn được dịch là An Minh sơn, Minh đã hàm ý ‘diệu quang’, lại còn kiêm cả nghĩa thanh tịnh, vô cấu. An là định, là bất động. Vì thế, bản Tống dịch ghi: ‘Kiên cố bất động như núi Tu Di’.

Nay kinh dùng núi Tu Di để ví vì:

a. Núi Tu Di do bốn báu hợp thành, ngụ ý: Bồ Ðề của Bồ Tát do vạn đức trang nghiêm.

b. Núi Tu Di cao nhất trong các ngọn núi. Cũng vậy, không có gì cao hơn Bồ Ðề được cả.

c. Núi tỏa quang minh nhiệm mầu. Cũng thế, huệ quang thường chiếu thế gian.

d. Núi an tịnh, sáng ngời. An tịnh biểu thị diệu định, như như bất động. Sáng ngời nhằm ví Bồ Ðề khiết tịnh như chất báu vô cấu.

‘Oai quang’ là ánh sáng oai đức. Bản Ngụy dịch ghi là: ‘Huệ quang sáng sạch vượt xa mặt trời, mặt trăng’. Hội Sớ giảng: “Vượt xa mặt trời, mặt trăng” ý nói: mặt trời, mặt trăng còn có lúc tròn, khuyết, chứ huệ quang chẳng vậy. Mặt trời, mặt trăng có lúc hiện ra, có khi biến mất; huệ quang thường sáng tỏ. Mặt trời, mặt trăng chẳng soi được nội tâm, huệ quang soi thấu. Mặt trời, mặt trăng chẳng trọn khắp, huệ quang trọn khắp’. Bởi vậy, kinh mới nói: ‘Oai quang nơi tự thân vượt xa mặt trời, mặt trăng’.

‘Núi Tuyết’ chính là Ðại Tuyết Sơn (Hymalaya). Trong Nam Thiệm Bộ Châu, ngọn núi này cao nhất, dù Ðông hay Hè đều có tuyết phủ nên gọi là Tuyết Sơn. Tuyết Sơn trắng sạch nên được ví với giới đức và định thanh tịnh.

Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Ðịnh thanh tịnh, đức viên mãn như núi Tuyết’. Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Ðem giới đức ví với Tuyết Sơn vì giới đức thanh tịnh như Ðại Tuyết sơn thường trắng sạch, chiếu soi chúng sanh khiến họ được thanh lương’. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘[Lấy] Tuyết Sơn để hiển thị định thanh tịnh. Các đức đều tịnh nên gọi là bình đẳng thanh tịnh, nhất như’.

Tâm Bồ Tát vốn tịnh nên tâm họ trắng sạch như núi Tuyết. Tâm họ nhất như nên giống như núi Tuyết bất động. Tâm họ bình đẳng nên cả ba thứ (thanh tịnh, bình đẳng, nhất như) không sai biệt, chỉ một màu trắng tinh thuần.

‘Nhẫn nhục như đất’ là dùng cõi đất để ví lòng nhẫn nhục bình đẳng. Bình đẳng chính là lìa các phân biệt. Vãng Sanh Luận Chú giảng về tâm nghiệp vô phân biệt như sau: ‘Như đất mang chở, nặng nhẹ không khác’. Ðại địa nâng đỡ vạn vật, dù vật nặng hay nhẹ vẫn mang đỡ như nhau, chẳng hề chọn lựa, chẳng hề phân biệt. Do vậy, kinh dùng cõi đất để ví cho đức nhẫn nhục của Bồ Tát, xa lìa hết thảy phân biệt ta - người, ân - oán, trái - thuận.

‘Thanh tịnh như nước’: Bồ Tát thanh tịnh giống hệt như nước sạch, rửa sạch các thứ trần lao cấu nhiễm nên kinh mới nói: ‘Rửa các trần cấu’.

‘Hừng hực như lửa thiêu củi phiền não’: Trí huệ ví như lửa, phiền não ví như củi. Trí huệ của Bồ Tát sắc bén, mạnh mẽ, hừng hực như lửa; trừ diệt phiền não như lửa đốt củi.

‘Chẳng vướng mắc như gió’: Tánh của gió là lưu chuyển, chẳng trụ vào đâu cả, cũng không chấp trước. Do Bồ Tát không chấp trước nên đi trong các thế giới một cách tự tại vô ngại như gió thổi trên không.

‘Pháp âm sấm rền’: Kinh nói: ‘Phật ngữ phạm lôi chấn’. Tiếng sấm rền vang xa, rúng động thế gian nên được ví với pháp âm có khả năng giác ngộ quần mê. ‘Giác ngộ kẻ chưa giác’ là khiến cho phàm phu chưa giác ngộ được tỉnh giác.

‘Mưa pháp cam lộ’: Dùng cam lộ ví cho giáo pháp của đức Phật. Cam lộ có thể làm cho người cải tử hoàn sanh. Giáo pháp của đức Phật khiến ta vĩnh viễn dứt khỏi sanh tử, đắc đại Niết Bàn; vì vậy gọi là pháp cam lộ.

‘Mưa’: giống như trời tuôn mưa nhuần thấm cả ba căn, nên kinh mới nói: ‘Nhuần thấm cả ba căn’.

Kinh Pháp Hoa có câu: ‘Ta làm Thế Tôn, không ai bằng nổi. Vì an ổn chúng sanh nên hiện trong đời. Vì đại chúng nói tịnh pháp cam lộ. Pháp ấy một vị giải thoát Niết Bàn’.

Phật Ðịa Luận cũng ghi: ‘[So] với các pháp thế gian tà kiến, kém cỏi của các ngoại đạo, giáo pháp của Như Lai là chơn thật nhất, thù thắng, thanh tịnh giống như đề hồ, cũng như cam lộ, khiến [chúng sanh] đắc Niết Bàn’.

Những lời kinh, luận vừa được dẫn trên đã tỏ rõ ý ‘mưa pháp cam lộ vì nhuần thấm chúng sanh’.

‘Rộng như hư không vì đại từ bình đẳng’: Dùng hư không để sánh ví lòng đại từ bình đẳng của Bồ Tát. Như hư không thật là bao la không bờ mé nên bảo là ‘rộng’. Dùng hư không để ví tâm Từ mênh mông. Hư không không vướng mắc như bản Ngụy dịch ghi: ‘Ví như hư không, đối với hết thảy cõi chẳng có chấp trước’. Sách Hành Sự Sao Tư Trì Ký viết: ‘Không chấp trước gì vì lìa trần nhiễm’. Do vậy, kinh dùng ngay tánh chất không vướng mắc của hư không để biểu thị tánh bình đẳng của tâm Từ.

‘Như hoa sen sạch’: Hoa sen mọc lên từ bùn nhơ nhưng chẳng bị nhiễm bẩn. [Dùng hình ảnh] hoa sen mọc trong bùn để biểu thị ý chẳng bỏ chúng sanh. Hoa sen vượt lên mặt nước rồi nở hoa ví như Bồ Tát ly cấu thanh tịnh nên kinh bảo: ‘Vì lìa nhiễm ô’.

‘Như cây Ni Câu’: Ni Câu (nigrodha) là tiếng Phạn, là tên một loài cây. Trung Hoa không có loại cây này, thường dịch là Vô Tiết Thọ (cây không có đốt), Tung Quảng thọ (cây to rộng).

Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười lăm nói: ‘Cây này thẳng thớm, không có mấu đốt, tròn trịa đáng yêu, mọc lên cao đến hơn ba trượng mới trổ cành lá. Hạt của nó bé xíu như hạt cây liễu. Trung Hoa không có loại cây này’.

Kinh Tội Phước Báo Ứng lại bảo: ‘Cây Ni Câu Ðà cao hai mươi dặm, cành mọc đều đặn xoay tròn, rợp bóng đến mười sáu dặm. Cây này có hạt nhiều đến vài muôn hộc’.

Kinh A Duy Việt Trí Già bảo: ‘[Cây Ni Câu] có thể tỏa bóng rợp đến năm mươi dặm’.

Vì vậy, kinh mới bảo ‘vì tỏa bóng mát lớn lao’. Dùng hình ảnh này để ví Bồ Tát rộng làm bóng mát che chở hết thảy chúng sanh.

‘Như kim cang xử’: kim cang xử, tiếng Phạn là Phạt Triết La (vajra); nguyên là một thứ binh khí của Ấn Ðộ. Mật tông dùng nó làm pháp khí để biểu thị trí huệ kiên cố, bén nhạy.

Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển một chép: ‘Phạt triết la là kim cang trí ấn của Như Lai’. Sách còn viết: ‘Ví như  Ðế Thích tay cầm kim cang phá quân Tu La, nay các vị Chấp Kim Cang cũng giống như vậy’.

Sách Nhân Vương Kinh Tụng Niệm Nghi Quỹ, quyển thượng cũng bảo: ‘Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi Chánh Trí tựa như kim cang’.

Sách Chư Bộ Yếu Mục còn nói: ‘Chẳng cầm kim cang xử niệm tụng thì không cách chi thành tựu. “Kim cang xử” nghĩa là Bồ Ðề tâm, phá hoại cả hai thái cực:  Ðoạn và Thường, khế hợp Trung Ðạo. Chính giữa kim cang xử là mười sáu tòa Bồ Tát tượng trưng cho mười sáu thứ Không hợp thành Trung Ðạo. Mỗi đầu xử đều có năm nhánh, biểu thị ngũ trí của Phật, đồng thời biểu thị mười ba la mật phá tan mười thứ phiền não, thành tựu mười thứ Chơn Như, chứng ngay lên Thập Ðịa’.

Như vậy, kim cang xử là biểu tượng của Kim Cang Chánh Trí, đẩy lui ma quân, đoạn phiền não, đắc thành tựu. Ðấy chính là ý nghĩa ‘phá tà chấp’ được nói trong kinh đây. Ở đây, kinh dùng kim cang xử để ví diệu trí Kim Cang Bát Nhã của các Bồ Tát phá trừ hết thảy tình chấp bất chánh.

‘Như núi Thiết Vy’: Một tiểu thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, phía ngoài có tám núi, tám biển. Dãy núi ngoài cùng hết được gọi là núi Thiết Vy, hay còn gọi là Kim Cang Vy sơn. Do sắt có tánh chất kiên cố nên gọi là kim cang. Kim cang phá hoại hết thảy, nhưng không thứ nào phá tan nổi nó. Vì vậy, kim cang được dùng để ví đức tánh bất hoại, ‘chúng ma ngoại đạo’ đều không phá hoại được.

Về chữ ‘chúng ma’ xin xem lại lời giải thích chữ ‘phiền não’ trong phẩm mười một.

‘Ngoại đạo’ là những đạo được thành lập không xuất phát từ lời Phật dạy. Do thực hành những điều không thuộc về chơn lý tối cực nên đều gọi là ngoại đạo.

Sách Tư Trì Ký nói: ‘Gọi là ngoại đạo vì chẳng nhận lấy sự giáo hóa của Phật, riêng hành tà pháp’.

Bản sớ giải kinh Tịnh Danh của ngài Thiên Thai ghi: ‘Hiểu sai lầm ra ngoài giáo pháp thì gọi là ngoại đạo’.

Sách Viên Giác Kinh Tập Chú còn nói: ‘Tâm hạnh không đúng với Lý nên gọi là ngoại đạo’.

Sách Câu Xá Huyền Nghĩa lại bảo: ‘Học sai trái với Chơn Lý, rong ruổi theo vọng tình của mình, chẳng biết xoay về giác ngộ bề trong thì gọi là ngoại đạo’.

Kinh Ðại Trang Nghiêm Pháp Môn cũng nói: ‘Văn Thù Sư Lợi hỏi Kim Sắc Nữ: “Ai là ngoại đạo?” Cô ta bảo: ‘Tùy thuận, nhẫn thọ tà thuyết của kẻ khác thì gọi là ngoại đạo’.

Các kinh nói chẳng đồng nhất về số lượng các ngoại đạo. Kinh Ðại Nhật liệt kê ba mươi thứ, kinh Niết Bàn lại bảo có chín mươi lăm thứ. Kinh Hoa Nghiêm và Ðại Trí Ðộ Luận cùng bảo có chín mươi sáu thứ. Ðấy là vì kinh và luận trên dùng quan điểm Ðại Thừa bài xích Tiểu Thừa, tức là: trong chín mươi sáu thứ được có kể cả Thanh Văn đạo. Bách Luận ghi: ‘Thuận theo đạo Thanh Văn thì đều là tà’. Thanh Văn tuy thuộc trong chánh giáo của Như Lai, nhưng là quyền pháp nên cũng bị tính gộp vào chín mươi lăm thứ ngoại đạo thành ra có đến chín mươi sáu thứ.

Dùng kim cang xử để ví trí huệ Bồ Tát kiên cố, hết thảy ma tà, ngoại đạo chẳng thể lay động nổi.

 Chánh kinh: Tâm họ chánh trực, thiện xảo quyết định, luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc. Giới tợ lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục. Ðánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ phá si ám. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định, minh sát; làm đại đạo sư, điều phục cả mình lẫn người, dẫn đạo quần sanh phá các ái trước, vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu, du hý thần thông.

 Giải: Phần trên, kinh đã dẫn các thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa. Phần này, kinh giảng rõ công đức chơn thật của các vị Bồ Tát cõi ấy. Ðó là đức tự giác, giác tha, hoằng pháp lợi sanh.

‘Chánh trực’: Chánh là chẳng tà, trực là chẳng cong vạy. Kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’. Sách Vãng Sanh Luận Chú ghi: ‘Chánh trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sanh tâm thương xót hết thảy chúng sanh’.

Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Ở giữa các vị Bồ Tát, chánh trực xả phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng’. Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng câu trên như sau: ‘Ngũ thừa còn cong quẹo nên chưa phải là trực. Thông giáo, Biệt giáo còn thiên lệch nên chẳng phải là chánh. Nay bỏ cả lệch lạc lẫn cong quẹo ấy, chỉ nói một đạo Nhất Thừa chánh trực’.

Có nhiều cách hiểu ‘ngũ thừa’, nhưng chữ ‘ngũ thừa’ được dùng trong sách Văn Cú nghĩa là: nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa.

Thông giáo, Biệt giáo là thiên lệch, cả năm thừa: nhân, thiên v.v… đều cong vẹo; cho nên Nhất đạo chánh trực chính là Nhất Thừa của Viên giáo.

Vì vậy, câu ‘tâm họ chánh trực’ hàm ý tâm các Bồ Tát đã xa lìa các giáo pháp lệch lạc, cong vạy, chỉ thuần là Nhất Thừa viên pháp, như cỗ xe to lớn, ngay ngắn, được trâu trắng kéo chạy vùn vụt như gió.

Phật Ðịa Luận giảng chữ ‘thiện xảo’ như sau: ‘Xứng thuận cơ nghi nên gọi là thiện xảo’. Sách Văn Cú cũng bảo: ‘Hiển lộ thiện quyền phương tiện, tỏ rõ phương tiện tinh vi’. Câu trên nói đến đức giác tha, khéo quán căn cơ để dạy pháp thích hợp, hành quyền phương tiện. Câu dưới nói về tự giác: khéo nhập quán hạnh đến mức tinh vi. Tự giác như vậy nên mới có thể dùng phương tiện giác ngộ người khác, tùy cơ ứng duyên, nên kinh khen là ‘thiện xảo’.

Kinh Hoa Nghiêm có nói đến mười trí thiện xảo: Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp rất sâu, trí thiện xảo xuất sanh Phật pháp rộng lớn, trí thiện xảo tuyên nói các thứ Phật pháp, trí thiện xảo chứng nhập Phật pháp bình đẳng, trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp sai biệt, trí thiện xảo ngộ giải Phật pháp không sai biệt, trí thiện xảo trang nghiêm Phật pháp, trí thiện xảo một phương tiện nhập Phật pháp, trí thiện xảo vô lượng phương tiện nhập Phật pháp, trí thiện xảo vô biên Phật pháp chẳng sai biệt.

Ta thấy rằng mười trí thiện xảo đều vốn là do đã thâm nhập quán hạnh một cách tinh vi, thấu triệt tột cùng nguồn tâm, từ Căn Bản Trí hiện thành Sai Biệt Trí nên có thể hiểu thấu các trí thiện xảo: xuất sanh, ngôn thuyết, chứng nhập v.v…

‘Quyết định’ có nghĩa là việc đã nhất định, không thay đổi nữa. Sách Thắng Man Bảo Quật nói: ‘Quyết định là tín’. Như vậy thì ‘thiện xảo’ là tùy cơ ứng duyên, ‘quyết định’ là chơn thật bất biến. ‘Thiện xảo quyết định’ nghĩa là tùy duyên thiện xảo nhưng thảy đều chơn thật.

‘Luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc’: Câu trên nói về giác tha, câu dưới nói đến tự giác.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ là phương tiện tự lợi… Thường muốn rộng nói, chí không mệt mỏi chính là lợi tha’.

Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Bồ Tát cầu pháp để lợi người, đắc được pháp nào ắt giảng cho người khác. Vì hết thảy chúng sanh trải vô lượng kiếp chẳng hề chán mỏi’.

‘Giới tợ lưu ly’: Giới là giới luật, tức là môn đầu tiên trong ba vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ. Phụng trì giới luật trong sạch, thanh khiết để tự trang nghiêm. Trì giới khiết tịnh khác nào ngọc lưu ly. Kinh Phạm Võng nói: ‘Giới như nhật, nguyệt sáng, cũng như anh lạc châu’. Vì vậy, kinh mới nói: ‘Giới tợ lưu ly’.

‘Trong ngoài sáng sạch’: “Trong” là tâm ý, ý nghiệp thanh tịnh; khởi tâm, động niệm thảy đều lìa khỏi cấu nhiễm. Ngoài là oai nghi đầy đủ, đó là đức thể hiện ra bên ngoài. Trong, ngoài đều thanh khiết nên nói ra điều gì cũng khiến cho người nghe lòng vui thích, kính phục thật sự. Do đó, kinh nói: ‘Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục’.

Sách Hội Sớ giảng câu ‘đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ’ như sau: ‘Pháp âm vang dội khác nào tiếng trống. Oai đức dẹp tà khác nào thắng tràng. Huệ nhật chiếu mê khác nào mặt trời sáng ngời’. Ý nói: ‘Tiếng trống pháp’ là ví pháp âm của Bồ Tát vang xa cảnh tỉnh mọi người.

Dùng ‘pháp tràng’ để ví oai đức của Bồ Tát dẹp tan tà ác như Gia Tường Sớ viết: ‘Kiến lập là dáng vẻ chiến thắng ví như thuyết pháp hàng ma đắc thắng vậy’. Ðem ‘mặt trời trí huệ’ ví cho trí huệ Bồ Tát chiếu phá si ám, lay tỉnh quần mê.

Tịnh Ảnh Sớ lại dùng ba huệ Văn, Tu, Tư để giảng ba ví dụ này. Sớ viết: “Ðánh trống pháp” là Văn Huệ pháp. Do tiếng trống vang xa nên nói là “đánh trống pháp”. “Dựng pháp tràng” là Tư Huệ pháp. Thành lập nghĩa là “kiến” (tạo dựng), nghĩa lý được tỏ bày ra được gọi là “tràng” (ý nói: dựng bày pháp nghĩa rồi chỉ bày rõ ràng cho chúng sanh thì gọi là ‘dựng pháp tràng’). “Rực chiếu mặt trời trí huệ” là trừ si ám. Ðó chính là Tu Huệ pháp khai hóa chúng sanh’.

Si ám chính là vô minh ám hoặc. Kinh Hoa Nghiêm, quyển 2 nói: ‘Trí huệ của Như Lai là vô biên duyên, hết thảy thế gian chẳng thể thấu đạt nổi. [Trí huệ ấy] diệt trừ vĩnh viễn tâm si ám của chúng sanh’. Ðó chính là ý nghĩa của câu ‘phá si ám’ trong kinh này vậy.

‘Thuần tịnh ôn hòa’: Tịnh là thanh khiết. ‘Thuần tịnh’ là nội tâm trong lặng, lìa cấu. Ôn là tốt đẹp, an hòa. Hòa là bình hòa. Như vậy, chữ ‘ôn hòa’ diễn tả dáng vẻ, phong cách ôn nhu, hòa dịu, đẹp đẽ.

‘Tịch định minh sát’: Tịch định chính là Thật Tế lý thể, minh sát là công dụng chiếu soi của trí huệ. Sách Tông Kính Lục viết: ‘Lấy nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp như tấm gương’. Tịch định có tánh chất như tấm gương, có công năng chiếu soi như gương rành rành phân minh, chẳng bỏ sót mảy may nên bảo là ‘minh sát’. ‘Tịch định minh sát’ chính là tịch mà thường chiếu vậy.

Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘đạo sư’ trong câu ‘làm đại đạo sư’ như sau: ‘Dùng trí huệ để khai hóa người khác thì gọi là đại đạo sư’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Vì kẻ lạc đường chỉ con đường đúng nên gọi là đạo sư’. Làm được như bậc đại sĩ Phổ Hiền, mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, thật là pháp tối cực viên đốn phổ lợi chúng sanh trong cửu giới nên được gọi là đại đạo sư.

‘Ðiều phục cả mình lẫn người’: Ðiều là điều hòa, điều thuận, chế ngự cái tâm mình; phục là hàng phục, chế phục, hàng phục những tâm sai trái. Kinh Kim Cang chép: ‘Nên trụ như thế nào, nên hàng phục cái tâm như thế nào?’ Ý của lời hỏi ấy là hỏi về cách điều phục.

Nếu giảng rộng ra thì khai hiển bổn tâm chính là ‘điều’; hàng phục tâm sai trái chính là ‘phục’. Hễ làm bậc đại đạo sư thì ắt phải điều phục được tâm mình lẫn tâm người khác, tự thân nhập đạo thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập đạo; tự tâm đại giác thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập giác đạo.

Vì thế, tiếp đó, kinh chép: ‘Dẫn dắt quần mê xả các ái trước’. ‘Trước’ là chấp trước, nhiễm trước. ‘Ái’ là tham ái, hỷ ái, ân ái. Cổ đức bảo: ‘Ái chẳng nặng, chẳng đọa Sa Bà’. Chúng sanh nhiễm chấp khó xả, nhưng diệu đức của Bồ Tát có thể khiến họ vĩnh viễn lìa được nhiễm chấp nên kinh bảo: ‘Vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu’ (ba cấu là tham, sân, si).

Bồ Tát lại có thể khiến cho chúng sanh du hý trong thần thông. ‘Du’ là thông suốt như nước chảy, ‘hý’ là an vui, nhàn hạ. Như vậy, ‘du hý’ nghĩa là tùy ý sử dụng thần thông một cách tự tại vô ngại nên mới nói là ‘du hý thần thông’.

Ý của toàn bộ đoạn kinh này là:

- Bồ Tát nhất tâm chánh trực, an trụ trong pháp Nhất Thừa, lại có đầy đủ phương tiện thiện xảo, siêng gắng cầu pháp, lại còn giảng cho khắp mọi người không biết chán nhàm. Bồ Tát giới đức thanh tịnh nên nói năng gì cũng khiến cho người nghe vui lòng, tin phục. Ðấy chính là đánh trống pháp, giương cao tràng pháp, phóng ánh sáng trí huệ lớn lao, phổ biến rộng rãi diệu pháp, phá trừ vô minh si ám của chúng sanh.

- Bồ Tát nội tâm thuần tịnh; dáng vẻ, phong cách ôn hòa, không những chỉ thanh tịnh trong nội tâm mà còn thể hiện ra ngoài, trong ngoài như một. Bồ Tát ‘tịch định minh sát’, Ðịnh lẫn Huệ đều quân bình, tịch chiếu đồng thời. Vì thế, các ngài làm đại đạo sư cho chúng sanh, tự giác, giác tha, khiến khắp chúng sanh thảy đều trừ ác sanh thiện, thuận theo Phật pháp, hàng phục tâm sai bậy, xả các chấp trước ái kiến, vĩnh viễn dứt ba độc, khai hiển bổn tánh, an trụ thần thông tự tại vô ngại.

 Chánh kinh: Nhân duyên nguyện lực xuất sanh thiện căn, dẹp tan hết thảy ma quân, tôn trọng, thừa sự chư Phật. Làm đèn sáng soi thế gian, [làm]  phước điền tối thắng, cát tường thù thắng, đáng được cúng dường, rạng rỡ hoan hỷ, hùng mãnh, vô úy. Thân sắc, tướng hảo, công đức biện tài đầy đủ không ai bằng nổi.

 Giải: Ðoạn kinh này giảng rộng về công đức chơn thật của Bồ Tát.

Chữ ‘nhân duyên’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘nhân lực, duyên lực’.

Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Nhân lực, duyên lực là môn thứ nhất để dựa vào đó mà khởi tu. Hết thảy hạnh lành đã tu trong quá khứ sanh ra điều lành trong hiện tại thì gọi là “nhân lực”. Gần thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp là “duyên lực”.

Ngài Vọng Tây bảo: ‘Căn lành từ những đời trước gọi là “nhân lực”. Thân cận thiện tri thức là “duyên lực”. Do nhân duyên hòa hợp nên có thể khởi hạnh’.

Hai thuyết trên tương đồng, nhưng sách Hội Sớ lại giảng hơi khác. Sách viết: ‘Nhân lực là Bồ Ðề tâm, đây chính là cái nhân gốc của Phật đạo, xuyên suốt thập phương tam thế khiến cho chúng ma kinh hãi lớn. Duyên lực là rộng cầu tri thức, những điều lành của đại chúng. Duyên này có đại oai lực chuyển phàm nhập thánh’.

Xét về văn tự, thuyết này khác với hai thuyết trên, nhưng thật chẳng mâu thuẫn nhau! Ngài Tịnh Ảnh lấy điều lành từ quá khứ làm cái nhân cho hiện tại; sách Hội Sớ coi cái tâm Bồ Ðề hiện tại là cái nhân để thành Phật. Thật ra, nếu chẳng có hạnh lành trong nhiều kiếp quá khứ thì chẳng thể phát khởi nổi cái tâm Bồ Ðề trong hiện tại. Nếu chẳng phát khởi nổi tâm Bồ Ðề thì không có cái nhân thành Phật!

Như vậy, hai thuyết trên chỉ bổ sung lẫn nhau; nhưng trong hai thuyết trên, thuyết của sách Hội Sớ gần với ý chỉ kinh này hơn vì phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm chính là tông chỉ của kinh này.

Tịnh Ảnh Sớ giảng ‘nguyện lực’ như sau: ‘Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực’. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Cầu Bồ Ðề Tâm là nguyện lực’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Nguyện lực là tứ hoằng thệ nguyện để nghiêm tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sanh’. Tổng hợp cả ba thuyết trên thì dùng tứ hoằng thệ nguyện để trang nghiêm cõi nước, thành tựu chúng sanh, mong cầu tâm Bồ Ðề mình sẵn có, tất cả đều là từ nguyện khởi hạnh nên gọi là nguyện lực. Có nguyện mà không hạnh thì chỉ là nguyện suông nên chẳng có công lực.

Nhân duyên hòa hợp như vậy, lại đầy đủ nguyện lực nên tự nhiên ‘xuất sanh thiện căn’. Ngài La Thập giảng ‘thiện căn’ như sau: ‘Tâm lành kiên cố sâu chẳng thể nhổ trốc được nên gọi là căn’. Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Hết thảy thiện pháp đều từ ba điều ấy mà sanh’. Vì vậy, điều lành sanh ra diệu quả, lại còn sanh ra các điều thiện khác nên gọi là ‘thiện căn’.

Sách Di Ðà Yếu Giải nói: ‘Bồ Ðề chánh đạo gọi là thiện căn, tức là cái nhân gần’. Bồ Ðề chánh đạo chính là phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm. Ðấy chính là cái nhân gần để thành tựu Bồ Ðề.

Nhân có nghĩa là hột giống, ý nói: Phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm là hột giống để thành tựu quả Bồ Ðề nên gọi là ‘thiện căn’. Kinh Ðại Bi cũng dạy: ‘Một phen xưng danh hiệu Phật, dùng thiện căn ấy để nhập Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận’. Ta thấy rõ thiện căn chính là cái nhân gần. Từ nhân được quả, quả có đầy đủ chủng tử nên lại trở thành cái nhân thù thắng. Cứ xoay vần như thế nên thiện căn vô tận. Do đó, Bồ Tát có đầy đủ những diệu đức như sẽ được nói sau đây:

- ‘Dẹp tan hết thảy ma quân’: ‘Dẹp tan’ là phá trừ và hàng phục. Xin xem lại lời giải thích về chữ ‘ma’ ở phần trước. Trí Ðộ Luận lại bảo: ‘Ðoạt huệ mạng, phá hoại gốc lành đạo pháp công đức nên gọi là Ma’. Loại quỉ thần này có đại thần lực, có khả năng gây chướng nạn cho người tu pháp xuất thế. Quân lính của ma được gọi chung là ma quân.

- ‘Tôn trọng, phụng sự chư Phật’: trong phẩm bốn mươi mốt của kinh này có nói kẻ vãng sanh về biên địa ‘ở trong hoa sen chẳng được xuất hiện’, ‘trong năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo, chẳng được cúng dường, phụng sự chư Phật’. Vì vậy, chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được thấy Phật và phụng sự chư Phật. Nay các vị Bồ Tát được phụng sự chư Phật chính là do có nhiều thiện căn phước đức nhân duyên.

- ‘Làm đèn sáng soi thế gian’: Trí huệ của Bồ Tát được ví như đèn sáng, chiếu tan sự tăm tối của chúng sanh, khiến chúng sanh khai giải chánh đạo. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Tự đủ trí huệ lại làm cho chúng sanh giải ngộ, nên gọi là đèn sáng soi thế gian’. Do tự đủ trí huệ nên như đèn sáng. Ánh đèn tỏa sáng hiện rõ các sắc ví như trí huệ khiến cho chúng sanh khai phát tín giải. Do vậy, kinh bảo: ‘Làm đèn sáng soi thế gian’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Soi tỏ thế gian mê ám nên bảo là đèn sáng soi thế gian’. Ý nói: Bồ Tát chiếu tan sự si ám và hôn mê của thế gian nên giống như đèn sáng vậy.

‘Phước điền’: Ðiền là mảnh ruộng, hàm nghĩa sanh trưởng. Tạo phước nơi bậc đức hạnh đầy đủ thì sẽ được phước báo. Gieo phước thì được quả phước, do đó, gọi là gieo trồng phước điền. Bậc đáng nên cúng dường được gọi là phước điền. Sách Thám Huyền Ký nói: ‘Sanh phước cho ta nên gọi là phước điền’. Theo kinh Ưu Bà Tắc Giới, có ba thứ phước điền:

a. Báo ân phước điền tức là cha mẹ, sư trưởng.

b. Công đức phước điền là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.

c. Bần cùng phước điền là những hạng người bần cùng, khốn khổ.

Cúng dường ba hạng trên đều có phước nên gọi là phước điền.

Chữ ‘phước điền tối thắng’ trong kinh này hàm ý: Trong các thứ phước điền, các Bồ Tát là thù thắng nhất. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Có thể phát sanh điều lành cho chúng sanh nên gọi là phước điền tối thắng’. Do có thể khiến cho chúng sanh xuất sanh thiện căn nên gọi là phước điền tối thắng vì từ thiện căn lại sanh ra vô lượng các quả phước và nhân lành.

Hai câu ‘làm đèn sáng soi thế gian, làm phước điền tối thắng’ nên đọc liền một mạch với hai câu ‘cát tường thù thắng, đáng được cúng dường’ ở phần sau thì dễ thấy trọn ý nghĩa.

‘Cát tường thù thắng’ chính là ý nghĩa sâu xa của thánh hiệu Văn Thù đại sĩ. Văn Thù tức là Văn Thù Sư Lợi. Chữ Văn Thù có thể dịch là Thắng, Diệu, Ðệ Nhất; chữ Sư Lợi có thể dịch là Ðức, Cát Tường v.v… Kinh Ðại Nhật gọi ngài Văn Thù là Diệu Cát Tường.

Văn Thù biểu trưng Căn Bản Trí. Ngài là thầy của bảy đức Phật nên Văn Thù tốt lành nhất. Nay các hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc có đầy đủ trí đức của Văn Thù đại sĩ, thấy tự tánh rõ ràng nên họ là phước điền tối thắng, nhận lãnh nổi sự cúng dường của hết thảy trời người. Trí huệ của họ lại ‘rạng rỡ’, tức là sáng suốt chói lọi.

Ðối với chữ ‘hùng mãnh’, phẩm Thọ Ký kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Ðại hùng mãnh Thế Tôn’. Thế Tôn đoạn sạch hết thảy phiền não, đại hùng chẳng khiếp nhược, dũng mãnh, tinh tấn nên được gọi là ‘hùng mãnh’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trong thế gian, Phật là hùng mãnh nhất’.

‘Vô úy’ là đức tánh ở giữa đại chúng thuyết pháp không hề hãi sợ, kinh khiếp. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại bảo: ‘Tâm giáo hóa chẳng khiếp nên gọi là vô úy’. Ðối với việc hóa độ chúng sanh chẳng hề có tâm khiếp hèn nên bảo là vô úy.

‘Tướng hảo’ là băm hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo.

Như vậy, chữ ‘rạng rỡ’ diễn tả oai quang của Bồ Tát chói ngời, chữ ‘hoan hỷ’ diễn tả nội tâm tự tại, hình dung vui vẻ, an hòa. Chữ ‘hùng mãnh vô úy’ diễn tả thật đức của Bồ Tát: dũng mãnh, tinh tấn, thuyết pháp vô úy; đồng thời mô tả phong thái, oai thần khôn sánh: đại hùng chẳng khiếp nhược. Chữ ‘tướng hảo’ chuyên chỉ thân sắc.

Tiếp đó, kinh nói: ‘Công đức biện tài’ ngụ ý: Bồ Tát có đầy đủ các công đức khác và có đủ các thứ biện tài vô ngại. Chữ ‘đầy đủ trang nghiêm’ chính là câu tổng tán nhằm kết lại những lời khen ngợi ở phần trên: Như Lai dùng phước đức, trí huệ trang nghiêm thân mình. Các hàng Bồ Tát này có đầy đủ phước trí trang nghiêm, vượt xa hết thảy thế gian.

Ðoạn kinh này cực lực tán dương công đức chơn thật của Bồ Tát, thật là hy hữu.

 Chánh kinh: Thường được chư Phật cùng khen ngợi, rốt ráo các Bồ Tát ba la mật, nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt. Hạnh khắp đạo tràng, xa lìa cảnh Nhị Thừa.

A Nan! Ta nay nói đại lược: công đức chơn thật của các Bồ Tát sanh trong thế giới Cực Lạc kia thảy đều như vậy. Nếu nói rộng ra thì trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể hết được nổi.

 Giải: Ðây là ý chính thứ ba: Chư Phật cùng khen ngợi để chứng minh, chư Phật đồng thanh ca ngợi tỏ rõ đại sĩ đức hạnh rất sâu.

Chữ ‘bất sanh bất diệt’ trong câu ‘rốt ráo các Bồ Tát ba la mật nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt’ nên hiểu như kinh Ðại Niết Bàn đã dạy: ‘Niết là bất sanh, Bàn là bất diệt. Bất sanh bất diệt thì gọi là Ðại Niết Bàn’. Kinh Duy Ma cũng dạy: ‘Pháp vốn chẳng sanh nên nay chẳng diệt’.

Tiểu Thừa dựa vào lý Hữu Dư Niết Bàn để quán bất sanh bất diệt nên nghiêng về Thiên Không. Ðại Thừa từ Không nhập Giả nên ngay nơi cái có sự tướng mà hiển thị lẽ bất sanh bất diệt; ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chơn. Vì vậy nên có thể suốt ngày độ sanh mà suốt ngày chẳng độ, suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch; lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ: bố thí, nhẫn nhục… mà vẫn an trụ trong các tam muội bất sanh bất diệt, chẳng đánh mất định ý.

‘Hạnh khắp đạo tràng’ là đối với những chánh hạnh đạo tràng không chút khuyết thiếu.

‘Xa lìa cảnh Nhị Thừa’ là chỉ nương theo một pháp Nhất Thừa, rốt ráo đạt tới bờ kia. Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Nếu đắm trong [cảnh giới của] địa vị Thanh Văn và địa vị Bích Chi Phật thì gọi là Bồ Tát chết, là mất hết thảy cái lợi. Dù đọa vào địa ngục cũng chẳng sợ hãi đến thế. Nếu sa vào địa vị Nhị Thừa thì là điều sợ hãi lớn’. Vì vậy, Bồ Tát ‘xa lìa cảnh Nhị Thừa’.

Từ chữ ‘A Nan’ trở đi là lời đức Thế Tôn tổng kết: công đức chơn thật của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc chẳng thể nói trọn hết nổi.

Xem mục lục