Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

4. Pháp Tạng nhân địa

Chánh kinh:

Phật bảo A Nan:

- Vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô ương số kiếp trong quá khứ có Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn trụ thế giáo hóa trong bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, đức Phật vì chư thiên và người đời nói kinh giảng đạo.

Giải:

‘Vô ương số kiếp’, tiếng Phạn là a tăng kỳ, dịch thành Vô Ương Số. Ương nghĩa là cùng tận. Do kiếp số chẳng thể tính đến cùng tận nên gọi là vô ương số kiếp (hoặc còn nói là a tăng kỳ kiếp. Trong quyển 1 đã giảng chữ ‘kiếp’: Kiếp là đơn vị thời gian rất dài. Số kiếp nhiều đến nỗi chẳng thể tính đếm nổi thì gọi là vô ương số kiếp). A tăng kỳ kiếp lại chẳng có hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn cho xiết nên bảo là ‘vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô ương số kiếp’, ngụ ý: thời gian lâu xa đến vô cực trong quá khứ.

‘Thế Gian Tự Tại Vương’ (danh xưng này dựa theo cách dịch của bản Ðường dịch): trong quá khứ lâu xa đến vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô tận đại kiếp, có một vị Phật xuất hiện trong thế gian, danh xưng là Thế Gian Tự Tại Vương Phật. Ngài là một vị cổ Phật. Thế Gian Tự Tại là thường ở trong thế gian nhưng chẳng bị thế gian chướng ngại như câu nói: ‘Phật chiếu tướng thế gian, thường  trụ tự tịch diệt’. Sách Bình Giải lại bảo: ‘Chữ Thế Gian tương ứng với Bát Nhã, Tự Tại nghĩa là giải thoát, Vương là Pháp Thân. Ba chính là một, một chính là ba, chẳng ngang, chẳng dọc nên gọi là Thế Tự Tại Vương’. Ðấy là cách giải thích danh hiệu Phật dựa trên ba đức của Niết Bàn.

Thời cổ, mọi thứ đều thuộc về nhà vua cả nên dùng chữ Vương để ví Pháp Thân. Hết thảy đều từ Pháp Thân hiện ra, nhưng thứ nào rồi cũng quy về Pháp Thân cả nên bảo Vương là Pháp Thân. Thông đạt thế gian là Bát Nhã đức, tự tại trong thế gian là Giải Thoát đức. Như vậy, danh hiệu Thế Tự Tại Vương chứa trọn ba đức, ba tức là một, một tức là ba, giống như ba điểm của chữ Y (\\). Câu ‘chẳng ngang chẳng dọc’ diễn tả diệu đức vô thượng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của chơn thân Niết Bàn.

Từ ‘Như Lai’ đến ‘Phật Thế Tôn’ là hiệu chung của chư Phật, hết thảy các đức Phật cùng có đủ mười hiệu này. Thật ra, chư Phật vô lượng đức nên đức hiệu cũng vô lượng, nay do thuận theo căn cơ chúng sanh nên chỉ nói giản lược mười hiệu.

Trong các kinh, do tách ra hay gộp lại sai khác nên mười danh hiệu trên thành ra sai khác. Chẳng hạn như Tịnh Ảnh Sớ đã dựa theo Thành Thật Luận gộp Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu thành một hiệu, tách chữ Phật Thế Tôn thành hai danh hiệu. Theo các kinh Niết Bàn, kinh Anh Lạc và quyển 10 của bộ Ðại Luận thì Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu là hai danh hiệu, Phật Thế Tôn được gộp lại thành một danh hiệu. Tôi theo thuyết này.

Mười hiệu được giải thích như sau:

a. Như Lai: Như là Chơn Như. Nương theo đạo Chơn Như để đạt (lai) thành Chánh Giác nên gọi là Như Lai. Còn có thể hiểu là chư Phật đạt đạo an ổn nên cũng bảo là Như Lai đến, lại chẳng sanh trong sanh tử nên gọi là Như Lai. Lại giống như chư Phật mà đến nên gọi là Như Lai.

Sách Hợp Tán lại giảng: ‘Phẩm Phạm Hạnh của kinh Niết Bàn chép rằng: Vì sao gọi là Như Lai? Giống như lời nói của chư Phật quá khứ chẳng biến đổi. Vì sao không biến đổi? Chư Phật quá khứ vì độ chúng sanh nên giảng mười hai bộ kinh, Như Lai nay cũng thế nên gọi là Như Lai’.

Sách Hội Sớ lại nói: “Chữ Như Lai có ba nghĩa là: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. Kinh Kim Cang dạy: ‘Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu’ là nói về Pháp Thân Như Lai. Luận Chuyển Pháp Luân bảo: ‘Ðệ Nhất Nghĩa Ðế là Như, Chánh Giác là Lai’ là nói về báo thân Như Lai. Luận Thành Thật chép: ‘Nương đạo Như Lai đạt thành Chánh Giác nên gọi là Như Lai’ là nói về ứng thân Như Lai”.

Trong bản sớ giải phẩm Thọ Lượng [kinh Pháp Hoa], tổ Thiên Thai (Trí Giả đại sư) lại giảng rằng: ‘Như là pháp bất biến, giống như tấm gương, chẳng phải là nhân, chẳng phải là quả. Dẫu có Phật hay không có Phật thì tánh tướng vẫn thường như vậy. Trọn khắp hết thảy các chốn mà chẳng bị đổi khác là Như, bất động mà đến được khắp tất cả là Lai’. Giải thích như vậy là giảng theo Pháp Thân Như Lai. Do Phật có ba thân: pháp, báo, ứng nên chữ Như Lai tất nhiên được giải thích theo từng quan điểm: pháp, báo, ứng khác nhau. Nói đầy đủ thì sẽ như Hội Sớ giảng:

- Chẳng đến, đi là Pháp Thân.

- Chánh Giác Ðệ Nhất Nghĩa Ðế, đạt đến Chơn Như Thật Tướng như thế là Báo Thân.

- Nương theo Chơn Như Thật Tướng để thành tựu Chánh Giác, đạt đến như vậy thì là Ứng Thân.

 Với các cách giải thích khác, ta luôn có thể dựa theo cách giải thích của Hội Sớ để lãnh hội ý chỉ.

b. Ứng Cúng: Ðại Luận chép: ‘Ðức Phật đã trừ sạch hết các kiết sử, đắc hết thảy trí huệ nên xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của hết thảy chúng sanh trong trời đất. Vì vậy, Phật được xưng là Ứng Cúng’. Tịnh Ảnh Sớ lại bảo: ‘Chứng, diệt tương ứng nên gọi là Ứng. Lại do chứng diệt nên đáng cúng dường vì vậy bảo là Ứng Cúng’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Vạn hạnh viên thành, phước huệ đầy đủ, xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của trời, người, lợi ích hữu tình nên Phật hiệu là Ứng Cúng’.

c. Ðẳng Chánh Giác: tiếng Phạn là Tam Miệu Tam Bồ Ðề, nói đủ là ‘a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. A là Vô, Nậu Ða La là thượng, Tam là chánh, Miệu là đẳng, Bồ Ðề là giác, nói gộp lại là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bồ Tát nhân hạnh viên mãn nên thành Ðẳng Chánh Giác, xưa kia dịch là Vô Thượng Chánh Biến Tri. Bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài Tăng Triệu có chép: ‘A Nậu Ða La: Hán dịch là Vô Thượng. Tam Miệu Tam Bồ Ðề: Hán dịch là Chánh Biến Tri. Do không có gì lớn hơn được đạo nên đạo là Vô Thượng; đạo ấy chơn chánh, không pháp nào chẳng biết nên là Chánh Biến Tri’. Tịnh Ảnh Sớ lại chép: ‘Chánh là lý. Chiếu soi tột cùng lý thể nên bảo là Biến Tri’.

 d. Minh Hạnh Túc: Có nhiều cách giải thích chữ Minh.

- Ðại Luận giảng: ‘Túc mạng, thiên nhãn, lậu tận gọi là tam minh’. Sách Hội Sớ và Tịnh Ảnh Sớ cùng theo cách giải thích này, đều cho rằng Minh chính là Tam Minh.

- Tịnh Ảnh Sớ lại còn viết thêm: ‘Minh là chứng hạnh. Chứng pháp rõ ràng rốt ráo nên bảo là Minh’. So ra, thuyết này sâu sắc hơn cả vì toàn bộ kinh Hoa Nghiêm chỉ là tín giải hành chứng. Nếu thấu suốt rõ ràng, chứng ngộ thông suốt được hành pháp thì mới được gọi là Minh.

- Quyển 18 kinh Niết Bàn có chép: ‘Minh là được vô lượng thiện quả... Thiện quả gọi là A-nậu-đa-la tam-miệu tam Bồ Ðề’. Thuyết này cực sâu vì đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mới được gọi là Minh.

Dùng thuyết của kinh Niết Bàn để giải thích chữ Minh trong bản kinh Vô Lượng Thọ này là thỏa đáng nhất. Quyển 18 kinh Niết Bàn giảng chữ Hạnh Túc như sau: ‘Hạnh là như chân cẳng (cước túc)…. Chân cẳng là Giới, Huệ. Dùng chân Giới, Huệ để đắc A-nậu-đa-la tam miệu tam Bồ Ðề nên gọi là Minh Hạnh Túc’. Tịnh Ảnh Sớ cũng giảng tương tự: ‘Ngài Long Thọ nói: Giới, Không Huệ v.v... được gọi là Hạnh. Ðầy đủ trọn vẹn hai thứ ấy (chỉ giới và không huệ) thì gọi là Túc’. Sách Hội Sớ giảng hơi khác: ‘Hạnh Túc là thân khẩu ý nghiệp chơn chánh, thanh khiết. Dùng nguyện lực của chính mình để khéo tu trọn vẹn hết thảy các hạnh nên hiệu là Minh Hạnh Túc’.

e. Thiện Thệ: Thiện là hay, tốt. Thệ là đi qua. Vì vậy, Thiện Thệ còn được dịch là Hảo Khứ (khéo đi qua). Ðại Luận chép: “Hảo Khứ là khéo đạt các tam ma đề (chánh định) sâu và vô lượng đại trí huệ như lời kệ: ‘Nhất thiết trí của Phật là cỗ xe lớn, hành tám chánh đạo nhập Niết Bàn’ nên gọi là Hảo Khứ”. Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Thiện là phát tâm lúc đầu tiên, Thệ là Ðại Bát Niết Bàn. Như Lai chẳng bỏ cái tâm đã phát đầu tiên mà chứng đắc Niết Bàn. Vì vậy, Như Lai hiệu là Thiện Thệ’. Cả hai thuyết trên đều coi ‘nhập Niết Bàn’ là Thiện Thệ. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Thiện Thệ nghĩa là diệu trụ, tức là vô lượng trí huệ đoạn được các hoặc, khéo xuất thế gian nên đạt đến Phật quả vậy’. Như vậy, thuyết này xem ‘đạt Phật quả’ là Thiện Thệ, nhưng thật ra cũng chẳng khác với hai thuyết nói trên. Phật đã chẳng đến, đi,  sao lại bảo là Hảo Khứ? Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đức viên mãn chẳng có chốn nào để đến nên bảo là Hảo Khứ. Tuy không đến đâu nhưng chẳng phải là không đến được, như lửa lúc kiếp tận tuy chẳng thiêu cái gì, nhưng không cái gì nó chẳng thiêu được. Vì vậy, cũng có thể bảo là Khứ’.

f. Thế Gian Giải: Còn dịch là Tri Thế Gian. Sách Bình Giải giảng: ‘Thế Gian là ngũ ấm. Giải là biết. Chư Phật Thế Tôn khéo hiểu ngũ ấm nên được gọi là Thế Gian Giải’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Thế Gian Giải là Hóa Tha Trí. Khéo hiểu thế gian nên gọi là Thế Gian Giải’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Với các pháp nhân quả thế gian, xuất thế gian, không pháp nào chẳng hiểu rõ nên gọi là Thế Gian Giải’. Tổng hợp ba cách giải thích trên, Thế Gian Giải là thánh trí hóa độ người khác (hóa tha trí), nghĩa là Như Lai thật sự hiểu rõ các pháp: nhân quả thế gian, xuất thế gian.

g. Vô Thượng Sĩ: Sĩ là người, cao quý nhất trong loài người thì gọi là Thượng Sĩ. Kinh Niết Bàn dạy: ‘Như Lai gọi là Vô Thượng Sĩ. Ví như nơi thân người, đầu ở cao nhất, chân tay, các chi chẳng bằng được; Phật cũng giống như vậy, cao quý nhất, Pháp, Tăng chẳng bằng’. Kinh còn chép: ‘Còn có cái để đoạn thì gọi là Thượng Sĩ. Không còn gì để đoạn là Vô Thượng Sĩ’. Sách Hội Sớ cũng giảng giống hai thuyết trên: ‘Hoặc nghiệp hết sạch thì không có gì để đoạn, trong nhân thiên phàm thánh của tam giới là bậc nhất, tối thượng, không ai bằng nên hiệu là Vô Thượng Sĩ’. Trí Ðộ Luận lại bảo: ‘Pháp Niết Bàn vô thượng, Phật tự biết là Niết Bàn chẳng phải nghe từ người khác, lại còn có thể dẫn dắt chúng sanh đạt đến Niết Bàn. Như Niết Bàn là vô thượng trong các pháp, Phật cũng là vô thượng trong chúng sanh. Hơn nữa, Phật trì giới, thiền định, trí huệ giáo hóa chúng sanh không ai bằng được nổi, huống là hơn nổi ngài. Vì vậy, gọi Phật là vô thượng’.

h. Ðiều Ngự Trượng Phu: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Khéo có thể điều phục chúng sanh thì gọi là Ðiều Ngự Trượng Phu’. Sách Hợp Tán lại giảng: ‘Chính mình đã là trượng phu, lại có thể điều phục trượng phu. Vì vậy, xưng tụng Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Nếu đầy đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu. Những gì là bốn? Gần thiện tri thức, hay nghe pháp, suy nghĩ ý nghĩa [của pháp đã được nghe], đúng lời dạy tu hành’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Ðầy đủ lực dụng của đại trượng phu để thuyết các pháp, điều phục chế ngự hết thảy chúng sanh khiến họ lìa cấu nhiễm, đắc đại Niết Bàn’.

Nếu có kẻ chất vấn: Cũng phải nên giáo hóa bọn nữ nhân, cớ sao chỉ nói đến bọn trượng phu? [Xin mượn lời] Trí Ðộ Luận để đáp: ‘Nếu nói trượng phu là đã tính cả nhị căn (kẻ có đủ hai căn nam, nữ), vô căn (bẩm sinh không có bộ phận sinh dục), nữ nhân, nên chỉ nói là trượng phu’. Như vậy, khi nói đến trượng phu là đã tính hết phụ nữ, nhị căn, vô căn trong ấy.

i. Thiên Nhân Sư: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Có thể dùng chánh pháp để gần gũi, giáo hóa trời người thì gọi là Thiên Nhân Sư’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Tất cả thiên thượng, nhân gian, ma vương, ngoại đạo, Thích, Phạm, thiên, long đều cùng quy mạng, tuân lời dạy vâng làm, đều làm đệ tử nên hiệu là Thiên Nhân Sư’. Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Chư Phật tuy là vô thượng đại sư của hết thảy chúng sanh, nhưng trong các loài chúng sanh chỉ có trời và người phát nổi tâm vô thượng đại Bồ Ðề. Do đó, xưng tụng Phật là Thiên Nhân Sư’.

j. Phật Thế Tôn: Thành Thật Luận tách danh hiệu này ra làm hai, coi Phật là danh hiệu thứ chín, Thế Tôn là danh hiệu thứ mười. Nay tôi theo ý kinh Niết Bàn gộp Phật và Thế Tôn thành hiệu thứ mười.

Phật là giác: tự giác, giác tha và giác mãn. Ba giác viên mãn nên xưng là Phật. Sách Hợp Tán lại giảng rằng: ‘Phật là Giác. Ðã tự giác ngộ, lại còn giác ngộ người khác. Ví như có kẻ hiểu biết kẻ giặc, giặc chẳng làm gì nổi’. Phật còn nghĩa là Trí như Trí Ðộ Luận viết: ‘Phật Ðà, Hán dịch là Trí Giả. Biết được hết thảy các pháp: chúng sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v...  trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Dưới cội Bồ Ðề, ngài hiểu biết rành rẽ hết cả nên gọi là Phật Ðà’. Luận còn chép: ‘Phật thành tựu hết thảy trí huệ, đầy đủ trọn vẹn các đức nên đều hiểu rành rẽ quá khứ, vị lai, hiện tại, tận, bất tận, động, bất động, hết thảy thế gian nên hiệu là Phật Ðà’.

‘Thế Tôn’ tiếng Phạn là Bà Già Phạm, đầy đủ trọn vẹn các đức được thế gian khâm ngưỡng nên hiệu là Thế Tôn. Phẩm Thập Hiệu của Thành Thật Luận có câu sau: ‘Trọn vẹn chín danh hiệu như trên, là bậc cao quý trong tam thế thập phương thế giới nên gọi là Thế Tôn’ (Trí Ðộ Luận xem Phật là hiệu thứ mười vì cho rằng Thế Tôn là tiếng xưng tụng chung cả mười đức hiệu. Cách tách ra hay gộp lại này so với thuyết của Tịnh Ảnh Sớ hơi khác đôi chút, nhưng vẫn tương đồng).

‘Trụ thế giáo hóa trong bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, đức Phật vì chư thiên và người đời nói kinh giảng đạo’ (câu này trích từ bản Hán dịch): Ðức Phật ấy trụ thế hoằng pháp tất cả bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, ngài vì chư thiên và nhân dân trong thế gian diễn thuyết kinh văn, giảng luận đạo pháp và đạo yếu.

Ðạo là con đường giác ngộ. Luận Câu Xá giảng: ‘Ðạo nghĩa là gì? Là đường Niết Bàn vì đi theo con đường ấy đến được thành Niết Bàn’. Hoa Nghiêm Ðại Sớ cũng nói: ‘Thông đến quả Phật nên gọi là Ðạo’. Ðạo pháp là pháp dẫn đến chánh đạo Niết Bàn. ‘Ðạo yếu’ là điểm trọng yếu trong Phật đạo như Tán A Di Ðà Phật Kệ đã viết: ‘Thông suốt đạo yếu chẳng chướng ngại’.

Chánh kinh:

Có đại quốc chúa tên là Thế Nhiêu Vương nghe Phật thuyết pháp hoan hỷ, khai giải liền phát vô thượng chánh chơn đạo ý, bỏ nước bỏ ngôi vua trở thành sa môn, hiệu là Pháp Tạng.

Giải:

Danh hiệu Thế Nhiêu Vương được ghi trong bản Hán dịch, kinh chép: ‘Thế Nhiêu Vương nghe kinh tu đạo hoan hỷ, khai giải, liền bỏ ngôi vua, trở thành tỳ kheo’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Chuẩn theo kinh văn, Thế Nhiêu Vương chính là tục danh của ngài Pháp Tạng’. Ngài nói như vậy vì kinh văn bản Hán dịch khẳng định rõ ràng: lúc làm quốc vương, [Pháp Tạng] tên là Thế Nhiêu Vương, sau đó xuất gia trở thành tỳ kheo Pháp Tạng.

Vào thời ấy, có một đại quốc vương tên là Thế Nhiêu Vương nghe đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương thuyết pháp tâm chợt khai ngộ, thấu suốt Thật Nghĩa nên kinh chép là ‘khai giải’. Do khai giải nên tự nhiên ‘hoan hỷ’. Ðiểm này giống như cuối các bản kinh thường chép: ‘Nghe lời Phật dạy đều đại hoan hỷ’.

Trong câu ‘liền phát vô thượng chánh chơn đạo ý’, chữ ‘liền’ có nghĩa là ngay lập tức, ‘phát’ là phát tâm. ‘Vô thượng chánh chơn đạo’ tiếng Phạn là a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề, tức là đạo mà đức Phật đã chứng đắc. Do không gì hơn được đạo ấy nên bảo là ‘vô thượng’. ‘Chơn’ là chơn thật. ‘Chánh’ là thánh trí vì biết đúng như pháp tướng. ‘Ðạo’ là đạo vô ngại. ‘Ý’ là tâm năng cầu, tức là cái tâm cầu Bồ Ðề đạo được gọi là ‘ý’. Vì vậy, ‘vô thượng chánh chơn đạo ý’ chính là phát vô thượng đại Bồ Ðề tâm. Thế Nhiêu Vương nghe pháp khai giải, ngay lập tức phát vô thượng đại Bồ Ðề tâm, bỏ đất nước và ngôi vua, tránh đời, xuất gia, trở thành sa môn.

‘Sa môn’ nguyên là tiếng để gọi chung những người xuất gia, kể cả ngoại đạo, sau này mới trở thành danh từ dành riêng cho tăng lữ Phật giáo. Sa môn nghĩa là Cần Tức, sách Hội Sớ giảng: ‘Kẻ ấy siêng (cần) tu pháp lành, dứt (tức) các ác’. Kinh Tứ Thập Nhị Chương chép: ‘Từ biệt thân thuộc xuất gia, hiểu thấu cội rễ của tâm tánh, hiểu pháp vô vi, gọi là Sa Môn’. Ðấy chính là ý nghĩa sâu xa của chữ Sa Môn vậy.

‘Hiệu là Pháp Tạng’: Pháp Tạng chính là pháp danh của Thế Nhiêu Vương sau khi trở thành tỳ kheo. Bản Hán dịch chép là Pháp Bảo Tạng, bản Ngô dịch ghi là Ðàm Ma Ca, bản Ðường dịch viết là Pháp Xứ, bản Tống dịch ghi là Tác Pháp, Ðại Luận lại ghi là Pháp Tích, chỉ mỗi bản Ngụy dịch chép là Pháp Tạng; bản hội tập dùng danh xưng này. Các bản dịch tên ngài sai khác như vậy chỉ là do cách dùng từ sai khác. Theo Thám Huyền Ký, chữ Pháp có đến bốn nghĩa:

- chứa đựng, bao gồm

- tích chứa sâu sắc.

- sanh ra

- vô tận.

Do chứa đựng hết thảy pháp nên gọi là Pháp Tạng như Gia Tường Sớ nói: ‘Do có thể tích lũy Phật pháp một cách sâu xa nên gọi là Pháp Tạng’. Lại vì có thể mở bày pháp tạng của Phật nên gọi là Pháp Tạng. 

  Chánh kinh:

Tu Bồ Tát đạo, cao tài dũng triết, siêu dị hơn đời, tín, giải, nhớ dai đều là bậc nhất. Lại có hạnh nguyện và niệm huệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động, tu hành tinh tấn chẳng ai hơn nổi.

 

Giải:

Ðoạn kinh này khen ngợi nồng nhiệt đức hạnh tu hành của tỳ kheo Pháp Tạng sau khi xuất gia. Câu ‘tu Bồ Tát đạo’ trích từ bản Ngô dịch, hàm ý: Pháp Tạng hướng thẳng đến Nhất Thừa chẳng lạc trong Quyền, Tiểu. Bản Tống dịch ghi là ‘Ðại Thừa đệ nhất’. Như vậy, pháp của Bồ Tát tu chỉ là pháp Nhất Thừa Chơn Như viên mãn.

‘Cao tài dũng triết’: Tài là khả năng hay trí huệ, Triết là hiểu rõ. Gia Tường Sớ giảng: ‘Khen ngợi tài năng siêu quần nên bảo là Cao Tài. Tự thắng được mình, thắng được người nên khen là Dũng. Sáng suốt phá tan tà kiến nên bảo là Triết’. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Tài là tài khéo, tài đức hơn người nên bảo là Cao Tài. Ý chí mạnh mẽ là Dũng. Tâm sáng suốt là Triết’. Như vậy, câu ‘cao tài dũng triết’ hàm ý: Bồ Tát Pháp Tạng tài cao hơn người, dũng mãnh tinh tấn, tâm rạng trí sáng.

Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘siêu dị hơn đời’ như sau: ‘Riêng mình ngài đức hạnh vượt trỗi nên bảo là siêu dị hơn đời’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Thường nhân chẳng bằng nổi nên bảo là siêu dị hơn đời’. Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Nếu là ở bậc địa thượng phát tâm thì đời (Thế) có nghĩa là những người thuộc địa tiền’. Vì không dám đoan chắc lúc Bồ Tát Pháp Tạng phát tâm đã đạt đến địa vị nào nên sách Hợp Tán chỉ nói dè dặt rằng: ‘Nếu là ở bậc địa thượng phát tâm’ thì chữ Thế trong câu ‘siêu dị hơn đời’ (ư thế siêu dị) sẽ chỉ hết thảy những người chưa đạt đến Sơ Ðịa. Ðó là vì những người còn thuộc Ðịa Tiền được gọi chung là thế gian, chỉ bậc chứng Sơ Ðịa trở lên mới được gọi là xuất thế gian. Tôi trộm nghĩ tác giả sách Hợp Tán tin rằng ngài Pháp Tạng khi ấy đã là bậc địa thượng Bồ Tát phát tâm nhưng chưa dám quả quyết thôi.

Với vấn nạn: ‘Khi phát tâm Bồ Tát Pháp Tạng đã ở địa vị nào?’ các nhà chú giải kinh nêu lên nhiều thuyết khác nhau. Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Ở đây, ngài vừa mới phát tâm vô thượng nên còn thuộc địa tiền thế gian hạnh, đến đoạn sau có câu: ‘‘Ta phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’’, [lúc ấy] ngài mới thuộc địa thượng xuất thế gian hạnh’. Các vị: Nghĩa Tịch, Vọng Tây v.v... cũng nghĩ tương tự: trong đoạn kinh này, khi Pháp Tạng phát tâm là còn thuộc địa tiền; đến phẩm thứ năm khi phát tâm lần nữa, ngài mới là địa thượng Bồ Tát phát tâm.

Các vị Ðàm Loan, Gia Tường, Thiện Ðạo và tác giả sách Bình Giải đều bác thuyết ấy. Sách Bình Giải bác thuyết của ngài Tịnh Ảnh như sau: ‘Dẫu có nói phát tâm trước (đoạn kinh này), sau (phẩm thứ năm) nhưng chẳng có hai lượt phát tâm. Chỉ là một lần phát tâm mà thôi!’. Ý nói: Ðoạn này là đức Thích Ca thuyết pháp, thuật lại sự phát tâm của Bồ Tát Pháp Tạng; trong phẩm thứ năm ở phần sau, chính tỳ kheo Pháp Tạng tự thuật việc phát tâm của mình. Việc phát tâm thuật trong phần sau chỉ là nhắc lại việc phát tâm lần này. Tuy kinh có nói đến thứ tự phát tâm trước sau một cách sơ lược hay chi tiết sai khác, nhưng việc phát tâm của ngài Pháp Tạng chỉ là một, chẳng hề có đến hai lần!

Ý kiến của sách Bình Giải rất xác đáng. Sách còn viết tiếp: ‘Ðại sĩ Long Thọ phán định là thuộc Sơ Ðịa hoặc là Bát Ðịa, cũng là từ quả hướng đến nhân, thật khác với ý các sư lắm!’ Viết như vậy là căn cứ vào Ðại Luận. Trong Ðại Luận, Ðại Sĩ Long Thọ phán định Bồ Tát Pháp Tạng khi phát tâm đã ở bậc Sơ Ðịa hay là Bát Ðịa, nghĩa là đều thuộc bậc địa thượng mà phát tâm. Do đó, ý Ðại Luận thật khác xa thuyết của các sư! Thuyết của sách Bình Giải thật có chứng cứ đích xác.

Phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa chép: ‘Từ khi ta (Phật Thích Ca) thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp’. Kinh Pháp Hoa lại bảo đức Thích Ca cùng Phật Di Ðà trong vô lượng a tăng kỳ kiếp trước cùng làm vương tử của Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Như vậy, Di Ðà Như Lai cũng đã thành Phật từ rất lâu xa rồi, đúng là tỳ kheo Pháp Tạng chỉ từ quả hướng nhân mà thôi.

‘Tín, giải, nhớ dai đều là bậc nhất’: Tín là tin nhận (tín thọ). Quyển hai sách Ðại Thừa Nghĩa Chương chép: ‘Ðối với Tam Bảo tâm tịnh chẳng ngờ gọi là Tín’. Quyển sáu kinh Hoa Nghiêm (bản dịch đời Tấn) cũng bảo: ‘Tín là nguồn đạo của biển công đức... thị hiện khai phát vô thượng đạo’. ‘Giải’ là liễu giải, khai giải, hiểu thông suốt. Kinh Hoa Nghiêm lấy ‘tín giải hạnh chứng’ làm cương yếu là bởi có tín giải chơn thật thì mới có thể sanh khởi hạnh chứng chơn thật. ‘Nhớ dai’ (tạm dịch chữ minh ký) là ghi nhớ một cách phân minh, chẳng hề quên mất pháp đã nghe, nhớ rành mạch phân minh nên bảo là ‘minh ký’.

Câu ‘đều là đệ nhất’ có hai nghĩa:

- Một là cao cùng tột vô thượng không ai hơn được nổi.

- Hai là sự tín, giải, lãnh hội của ngài đều khế hợp Ðệ Nhất Nghĩa Ðế nên ‘đều là bậc nhất’.

‘Lại có hạnh nguyện và niệm huệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động’: “Thù thắng” là thuật ngữ riêng của Phật giáo, Thù là đặc biệt, Thắng là siêu việt. Việc gì siêu phàm tuyệt tục, thế gian hy hữu thì bảo là ‘thù thắng’.

‘Hạnh nguyện’ là thân hạnh và tâm nguyện hỗ trợ nhau. Sách Bồ Ðề Tâm Luận giảng: ‘Cầu Bồ Ðề là phát Bồ Ðề tâm, tu Bồ Ðề tâm’. ‘Phát’ là tín nguyện, ‘tu’ là hạnh. Ba thứ tư lương: tín, nguyện, hạnh như ba chân của cái đỉnh, chẳng thể thiếu một. Phật Di Ðà hiệu là Ðại Nguyện Vương, pháp môn Tịnh Ðộ hoàn toàn nương vào biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Ðà, lấy tín nguyện trì danh làm tông cho thấy chữ Nguyện thật đúng là cốt lõi của Tự Giác, Giác Tha vậy.

Ðại nguyện sanh ra đại lực nên đại nguyện và sức niệm huệ cùng làm tăng thượng duyên. Tịnh Ảnh Sớ nói: ‘Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực’. Sách Hội Sớ nói: ‘Nguyện lực là tứ hoằng thệ nguyện để thanh tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh vậy’. Nay Bồ Tát Pháp Tạng có đủ các nguyện lực thù thắng không chi bằng nổi nên ngài được gọi là Ðại Nguyện Vương. Chữ ‘niệm huệ lực’ còn chỉ niệm lực và huệ lực. Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực gọi chung là ngũ lực. Trí Ðộ Luận nói: ‘Tăng trưởng ngũ căn khiến chúng chẳng bị phiền não phá hoại nên gọi là Lực’. Luận còn nói: ‘Thiên ma ngoại đạo chẳng thể ngăn trở, phá hoại nên gọi là Lực’.

Niệm lực tăng trưởng niệm căn, phá được các tà niệm. Huệ lực tăng trưởng huệ căn, phá các hoặc trong tam giới. Ðại sư Linh Phong (tổ Ngẫu Ích) còn bảo: ‘Niệm căn tăng trưởng thành tựu hết thảy chánh niệm xuất thế công đức nên gọi là niệm lực. Huệ căn tăng trưởng ngăn che được hết thảy các Hoặc Chướng dù thông hay biệt, phát sanh chơn vô lậu nên gọi là huệ lực’. Kiến Tư Hoặc là thông hoặc vì cả ba thừa cùng phải đoạn trừ. Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc là biệt hoặc, chỉ riêng Bồ Tát phải đoạn. Huệ quang dứt được hoặc, hiển phát vô lậu chơn trí nên gọi là Huệ Lực. Các lực như vậy đều thù thắng cả.

‘Tăng thượng’ là có thế lực mạnh mẽ, có thể khiến cho các pháp khác được tăng trưởng, phát triển thêm nên gọi là ‘tăng thượng’. Cái được tăng thượng trong đoạn kinh này thật hết sức thù thắng vì nó chẳng phải là pháp nào khác mà chính là ‘tâm mình’. ‘Tâm mình’ chính là tự tâm của đương nhân. Kinh Kim Cang dạy: ‘Ðừng trụ vào đâu cả mà sanh tâm mình’. Cả hai kinh cùng nhắc đến ‘tâm mình’, đó chính là ‘nhất tâm’. Giống như khi mài kiếng, chất dơ hết thì gương hiện sáng; vô minh hoặc đã hết, tự tâm liền hiện sáng. Vì thế, kinh nói: ‘Tăng thượng tâm mình’.

‘Kiên cố chẳng động’: Tâm mình như kim cang phá được hết thảy, nhưng hết thảy chẳng phá được tâm nên bảo là ‘kiên cố’. Tâm ấy như như, giống như kinh Kim Cang nói: ‘Như như bất động’ nên bảo là ‘chẳng động’. Cái tâm bất động ấy chẳng hề bị chìm đắm, vướng mắc trong không tịch mà tâm tâm khế hợp với Chơn Như, niệm niệm nhập  trong Như Lai Giác Hải.

‘Tu hành tinh tấn không ai hơn được’: “Tu hành” xưa vốn là tiếng thông dụng, chỉ từ đời Tấn trở đi, tu hành mới trở thành thuật ngữ Phật giáo chuyên biệt. Ðúng như lý mà hành Giới, Ðịnh, Huệ thì gọi là ‘tu hành’. Tu hành chính là hành pháp trong bốn pháp: Giáo, Lý, Hành, Quả. ‘Tinh tấn’ là siêng năng. Trong bản sớ giải kinh Quán Di Lặc Thượng Sanh, ngài Từ Ân (Khuy Cơ) giảng chữ ‘tinh tấn’ như sau: ‘Tinh là tinh thuần, không ác tạp. Tấn là thăng tấn, chẳng biếng lười’. ‘Hơn’ (tạm dịch chữ du) nghĩa là: vượt hơn, hơn hẳn, vượt trội.

Hai câu này (tức là câu: ‘tu hành tinh tấn, không ai hơn nổi’) dùng để tổng kết đoạn kinh văn trên. Chữ ‘tu hành’ chỉ chung các diệu hạnh đã thuật trong các đoạn trên. Với các hạnh như vậy đều siêng năng tấn tới nên bảo là ‘tu hành tinh tấn’. Ðức hạnh của tỳ kheo Pháp Tạng không ai bằng được nổi nên bảo là ‘không ai hơn nổi’.

Chánh kinh:

Ði đến chỗ Phật, đảnh lễ, quỳ dài, hướng về Phật chắp tay, liền dùng già tha khen Phật, phát nguyện rộng lớn, tụng rằng:

Giải:

‘Ðảnh lễ’: tiếng Phạn là Na Mộ, Tàu dịch là Quy Mạng, Khể Thủ, Ðảnh Lễ hoặc chỉ dịch là Lễ, thường nói: ‘Ðảnh lễ Phật túc’ (đảnh lễ dưới chân Phật). Chỗ quý nhất trong thân ta là đảnh đầu, chỗ thấp hèn nhất là bàn chân. Dùng cái tôn quý nhất của ta để cung kính cái thấp hèn nhất của người để biểu lộ lòng cung kính đến cùng cực.

‘Già tha’ (gatha): xưa dịch là Kệ, nay dịch là Tụng. Tụng có nghĩa là khen ngợi, ca tụng. Dùng đến kệ tụng vì hai lý do:

a. Lời kệ ít chữ nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa, dễ hiểu, dễ nhớ.

b. Âm điệu bài kệ du dương nên thường được dùng để tán vịnh. 

Tỳ kheo Pháp Tạng đến trước đức Phật, lễ Phật, khen ngợi, lại còn phát ra lời nguyện rộng lớn (như sẽ thuật đủ trong phần kinh văn kế tiếp). Hết thảy chúng sanh trong hiện tại và tương lai đều nương theo Nhất Thừa nguyện hải ấy mà được độ thoát cả.

Chánh kinh:

Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm

Hết thảy thế gian không ai sánh

Quang minh vô lượng chiếu thập phương

Nhật, nguyệt, hỏa, châu đều ẩn sáng

Thế Tôn hay diễn một âm thanh

Hữu tình tùy loại đều hiểu được

Lại hiện ra một diệu sắc thân

Khiến khắp chúng sanh tùy loại thấy

  Giải:

Bài tụng này trong bản Hán dịch mỗi câu chỉ có năm chữ, bản Ngụy dịch mỗi câu bốn chữ, hai bản Ðường dịch và Tống dịch mỗi câu có bảy chữ (bản Ngô dịch thiếu hẳn bài kệ này). So ra, câu văn và ý nghĩa bài kệ trong hai bản Ðường dịch và Tống dịch hay hơn cả nên hội bản cũng dùng bài kệ bảy chữ.

Trong bài tụng trên, đoạn đầu tán thán Phật đức. ‘Vi’ là nhỏ nhiệm, tinh diệu; ‘diệu’ là tốt đẹp, tinh túy. Ðây là tiếng dùng để khen ngợi, ngụ ý: đủ các sự chẳng thể nghĩ bàn, không gì so sánh nổi. Báo độ, báo thân, sắc tướng của đức Phật chẳng thể nghĩ bàn nổi nên khen là ‘diệu sắc’. ‘Vi diệu’ là tinh diệu đến cùng cực. ‘Sắc đoan nghiêm’ là sắc tướng đoan chánh, trang nghiêm. Phẩm Tự của kinh Pháp Hoa có câu: ‘Sắc thân như hòn núi bằng vàng, đoan nghiêm thật vi diệu’.

‘Nặc’ (ẩn giấu) là giấu kín, ẩn đi, mất đi. ‘Diệu’ (trong lời kệ tạm dịch là sáng do số chữ hạn chế) có nghĩa là chiếu sáng. Nghĩa của bốn câu đầu bài tụng như sau: Sắc tướng Như Lai vi diệu, đoan chánh, trang nghiêm khó nghĩ lường nổi. Hết thảy tất cả các vật trong thế gian không vật nào sánh nổi sắc tướng của Như Lai. Ý nghĩa hai câu này cũng giống như lời kệ tán Phật: ‘Thập phương sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả’ (Con đã thấy hết tất cả hết thảy các vật trong mười phương. Trong hết thảy các vật, không có vật nào sánh bằng được Phật).

Phật phóng ra vô lượng quang minh chiếu khắp các cõi nước trong mười phương. Ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mặt trăng, lửa, châu trong các cõi ấy đều bị quang minh của Phật che lấp mất chẳng thấy được nữa. Chữ ‘hỏa’ ở đây chỉ chung hết thảy đèn, đuốc và hết thảy các thứ ánh lửa sáng. ‘Châu’ là ma ni, còn phiên là Mạt Ni, nói đầy đủ là chấn đá mạt ni (cintamani), dịch nghĩa là châu, bảo, ly cấu, như ý. Nếu dịch gộp chung các ý trên thì dịch là ‘như ý bảo châu’. Ma ni tỏa quang minh lớn, hơn hẳn các thứ trong đời. Sách Hội Sớ nói: ‘Vật sáng nhất trong thiên hạ không gì hơn mặt trời, mặt trăng. Vật sáng nhất trong muôn vật không gì hơn nổi ma ni. Nhưng Phật quang vừa tỏa, ánh sáng của chúng đều bị che lấp hết’.

Bốn câu tụng kế đó đều trích nguyên văn từ bản Ðường dịch. Bốn câu này xưng tán Thế Gian Tự Tại Vương Phật viên minh cụ đức, sự sự vô ngại (1), diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa của bốn câu ấy như sau: Thế Tôn diễn thuyết diệu pháp, trong một âm thanh có thể khiến cho các loài chúng sanh trong khắp cả cửu giới, lục đạo, tứ sanh đều tùy theo căn tánh của từng loài cùng nghe được, hiểu được lời Phật dạy. Ngôn ngữ trong thế gian thường bị trở ngại vì phương ngôn khác nhau cũng như do người nghe, kẻ nói không cùng một trình độ nên không hiểu được nhau. Ðức Thế Tôn diệu dụng vô cùng, ngài khiến cho khắp tất cả các loài chúng sanh loài nào cũng hiểu được tiếng nói của ngài. Tiếng nói của Phật càng chẳng thể nghĩ bàn hơn nữa vì trong một âm thanh đã đầy đủ trọn vẹn vô biên diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế.

Hai câu kệ này thật đã hiển thị cảnh giới sự sự vô ngại siêu tình ly kiến của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm có câu: ‘Lời nói của hết thảy Như Lai thanh tịnh, mỗi một tiếng có đủ các biển âm thanh. Theo ý thích của từng chúng sanh, mỗi một tiếng phát xuất biển biện tài của Phật’. Quả thật, bài kệ trên có cùng một ý chỉ với hai câu kệ trong kinh này: ‘Thế Tôn hay diễn một âm thanh, hữu tình tùy loại đều hiểu được’. Mỗi một âm thanh có vô lượng âm thanh, mỗi một âm trong vô lượng âm thanh ấy lại có vô biên diệu dụng, tùy theo ý thích của từng chúng sanh mà mỗi một âm thanh xuất hiện vô biên biện tài khiến cho mỗi chúng sanh đều được nghe hiểu, được độ thoát. Ðây chính là môn ‘chủ bạn viên minh cụ đức’ trong mười huyền môn: Một pháp viên mãn công đức của hết thảy pháp nên bảo là ‘viên minh cụ đức’. Trong một âm vang ra vô lượng âm, nói trọn vẹn hết thảy pháp, phổ độ vô biên chúng sanh, đấy chính là ‘viên minh cụ đức’. Hiển nhiên, kinh này và kinh Hoa Nghiêm có cùng một pháp vị.

Hai câu kệ trên đã diễn tả ngữ mật của Như Lai, hai câu kệ kế tiếp: ‘Lại hiện ra một diệu sắc thân, khiến khắp chúng sanh tùy loại thấy’ diễn tả thân mật của đức Như Lai. Phật có thể hiện ra một sắc thân vi diệu khiến cho khắp các loài chúng sanh tùy theo phẩm loại của chúng đều được thấy Phật. Xét ra, Phật thân có đến năm loại: Pháp Thân, báo thân, ứng thân, hóa thân, đẳng lưu thân.

 a. Pháp Thân: tức là Tự Tánh Thân, mang tên Tỳ Lô Giá Na, dịch là Biến Nhất Thiết Xứ. Thân này là lý thể của Trung Ðạo, lìa khỏi hết thảy tướng và các hí luận, đầy đủ vô biên công đức thanh tịnh, chơn thật. Ðây là cảnh giới chỉ có Phật với Phật mới chứng nhập được.

b. Báo thân: Thân này của đức Như Lai mang tên Lô Xá Na, dịch là Quang Minh Biến Chiếu, phải là bậc Bồ Tát từ Sơ Ðịa trở lên mới thấy nổi.

c. Ứng thân: Chẳng hạn như đức Thích Ca Văn. Ứng thân [nói chung] chỉ thân Phật dùng để hiện tám tướng thành đạo. Ðịa tiền Bồ Tát, Nhị Thừa, phàm phu đều thấy được thân này.

d. Hóa thân: Thân Phật hóa hiện trong một giai đoạn nào đó thì gọi là Hóa Thân. 

e. Ðẳng lưu thân: Là một trong bốn thân do Mật giáo lập ra. Ðẳng Lưu Thân là thân do Phật thị hiện có cùng hình dạng như các loài trời, người, quỷ, súc sanh v.v... cho các dị loại đều được thấy.

Câu kệ trong bài tụng trên có nghĩa là: từ một thân Phật hiện ra vô lượng các thân khiến cho mọi loài chúng sanh mỗi loài đều được trông thấy. Câu này cũng hiển thị cảnh giới viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Phần kệ tụng trên đây là lời khen ngợi Phật, phần tiếp theo là phát nguyện. Tỳ kheo Pháp Tạng sau khi tán thán công đức của Phật xong liền phát khởi thệ nguyện rộng lớn: nguyện tự làm Phật, nguyện nhiếp trì Phật độ, lợi khắp chúng sanh chóng thành Chánh Giác.

Phải phát đại nguyện vì đó là việc trọng yếu nhất. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có chép: ‘Giả sử mười phương hết thảy chư Phật liên tục diễn nói công đức của Như Lai trong số kiếp nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật cũng chẳng thể nói hết nổi. Nếu muốn thành tựu môn công đức ấy phải tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn’. Vì vậy, Tịnh tông dùng ba thứ tín, hạnh, nguyện làm tư lương.

Linh Phong đại sư dạy: ‘Không có tín chẳng đủ để phát khởi nguyện, không có nguyện chẳng đủ dẫn dắt hạnh’. Pháp sư Tỉnh Am đời Thanh cũng nói: ‘Tu hành thì việc cần kíp trước tiên là lập nguyện. Nguyện đã lập mới độ nổi chúng sanh, tâm đã phát mới kham thành được Phật đạo’. Ngài còn dạy: ‘Vì vậy, cần biết là nếu muốn học Như Lai thừa thì trước hết phải phát đủ Bồ Tát nguyện, chẳng được chần chừ’.

Ðoạn kệ tụng tiếp sau đây là lời Pháp Tạng nguyện cầu đức tự giác, giác tha.

Muốn giác tha thì trước hết mình phải tự giác đã. Cầu tự giác chính là để giác tha. 
Chánh Kinh:

Nguyện con được tiếng Phật thanh tịnh

Pháp âm phổ cập vô biên giới

Tuyên dương giới, định, tinh tấn môn

Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp

Trí huệ rộng lớn sâu như biển

Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao

Vượt khỏi vô biên ác thú môn

Mau đến bờ Bồ Ðề rốt ráo

Vô minh, tham, sân vĩnh viễn dứt

Hoặc tận, lỗi mất, tam muội lực

Giải:

Hai câu đầu là tỳ kheo Pháp Tạng nguyện được đầy đủ hạnh đức lợi tha như Phật: nguyện được tiếng thanh tịnh của Như Lai. ‘Thanh tịnh’ là không có lầm lỗi ác hạnh, lìa phiền não cấu nhiễm thì gọi là ‘thanh tịnh’. Nguyện tôi được như Phật có thể phát ra những pháp âm không lầm lỗi, không cấu nhiễm, phổ cập vô biên các giới.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘giới’ như sau: ‘Chia riêng biệt ra gọi là Giới. Tánh các pháp riêng biệt nên gọi là Giới’. Như vậy, Giới có nghĩa là “sai biệt”. Mỗi thứ sự vật tự duy trì tướng của nó, tướng sai biệt nhưng chẳng hỗn độn thì là Giới, chẳng hạn như ta thường nói: ‘Các giới nhân sĩ’. Do chữ Giới có nhiều nghĩa như vậy nên câu ‘phổ cập vô biên giới’ có nghĩa là phổ biến khắp hết thảy.

Câu kệ thứ ba: ‘Tuyên dương giới, định, tinh tấn môn’ trích từ bản Tống dịch. Câu kệ này trong bản Ðường dịch được ghi là: ‘Diễn thuyết các pháp môn: thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn và định huệ’. Bản Ðường dịch nói rõ lục độ: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, bát nhã. Bản Hán dịch cũng chép như vậy, bản Tống dịch ghi giản dị hơn là ba độ: giới, định, tinh tấn. Ba độ này là cốt lõi cùng bao hàm cả ba thứ kia.

Câu kế tiếp: ‘Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp’ nói đến pháp thậm thâm vô thượng được mười phương chư Phật khen ngợi, đó là trì danh niệm Phật. Tỳ kheo Pháp Tạng nguyện đạt được pháp âm như Phật, rộng tuyên các diệu hạnh như lục độ... là muốn cho chúng sanh thông đạt pháp thậm thâm vi diệu sau đây: ‘Tâm này là Phật, tâm này làm Phật’, hiểu rõ bổn tâm của chính mình, thấu hiểu bổn tánh của mình, đều sẽ thành Phật độ sanh cả.

Bốn câu đầu của phần kệ tụng này là lời mong cầu Giác Tha Ðức, sáu câu tiếp theo là ý mong cầu Tự Giác Ðức. Trước hết cầu pháp âm được tuyên lưu, sau cầu trí huệ rộng như biển, đạt thẳng đến bờ kia rốt ráo.

‘Trí huệ’ là Bát Nhã, Trí Ðộ Luận nói: ‘Bát Nhã: Hán dịch là Trí Huệ. Trong hết thảy các thứ trí huệ, Bát Nhã là bậc nhất, vô thượng, không gì sánh, không chi bằng, không có gì hơn được nổi’. Sách Vãng Sanh Luận Chú cũng viết: ‘Bát Nhã là tên gọi của cái trí huệ đã đạt Như’, nghĩa là: Trí huệ thông đạt được Chơn Như gọi là Bát Nhã. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Thể của Chơn Như sáng tỏ, tự tánh chẳng tối tăm nên gọi là Huệ’, nghĩa là: Bổn thể của Chơn Như sáng tỏ, tự tánh rạng ngời, sáng suốt không chút tối tăm nên ta gọi đó là Huệ.

Trong phần phát nguyện được tự giác của kệ tụng, trước tiên, nói ngay đến Trí Huệ vì Trí Huệ là tối thượng. Hơn nữa, chỉ dùng trí mới vượt nổi biển cả Phật pháp như bản Hán dịch chép: ‘Ðàn thí, điều phục ý. Giới, nhẫn và tinh tấn. Tam muội định như thế, trí huệ là tối thượng’. Ngài Gia Tường giảng: ‘Thấu hiểu năm độ mới là hạnh, chưa thể thoát khỏi sanh tử; cần phải do trí huệ thấu đạt cội nguồn mới có thể giải thoát. Do đó, trí huệ là tối thượng’. Theo như câu văn trong Ðại Thừa Nghĩa Chương vừa trích dẫn ở trên, ta thấy rằng Trí Huệ chính là bổn thể của chơn tâm sáng tỏ, tự tánh không tối tăm. Vì vậy, ngay khi Trí Huệ đã sâu rộng như biển thì nội tâm ắt cũng phải thanh tịnh, không ác, không lỗi, ly cấu, ly nhiễm, dứt sạch các trần lao nên mới bảo: ‘Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao’ như Tâm kinh đã dạy: ‘Lúc thực hành Bát Nhã ba la mật một cách sâu sa, soi thấy năm uẩn đều là không, vượt khỏi hết thảy khổ ách’.

‘Tuyệt’ có nghĩa là dứt, diệt, hoàn toàn không còn nữa. ‘Trần lao’ là phiền não. Do các phiền não: tham, sân, si… như bụi bặm (trần cấu) che lấp chơn tánh khiến thân tâm nhọc mệt, não loạn nên ta gọi phiền não là ‘trần lao’.

Do trí huệ sâu rộng, thanh tịnh tuyệt trần như vậy nên có thể vượt khỏi vô biên vô số các nẻo ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, chẳng đọa trong ba đường ác nên nói: ‘Vượt khỏi vô biên ác thú môn’ và nhanh chóng đạt đến bờ kia Bồ Ðề rốt ráo. Bồ Ðề là Giác. ‘Bờ kia Bồ Ðề rốt ráo’ chính là Cứu Cánh Giác. Sách Tam Tạng Pháp Số giảng: ‘Cứu Cánh nghĩa là quyết định, chung cực, nghĩa là: hiểu rõ ràng nguồn gốc của cái tâm cấu nhiễm đến mức cùng tột, rốt ráo thì tâm ấy chính là bổn giác nên ta gọi đó là Cứu Cánh Giác’. Ðấy chính là sự giác ngộ đến cùng tột, trọn vẹn nhất của bậc Bồ Tát đại hạnh viên mãn, tức là đã thành Phật vậy.

Vì muốn thoát khỏi sanh tử, trước hết tỳ kheo Pháp Tạng cầu trí huệ. Do trí huệ chiếu soi, nội tâm thanh tịnh sạch hết trần lao, ngay khi ấy, đóng lấp các nẻo ác, nhanh chóng chứng được quả giác cứu cánh. Do đó, ngài bảo: ‘Mau đến bờ Bồ Ðề rốt ráo’. Chữ ‘bờ’ ở đây là ‘bờ kia’ (bỉ ngạn). Sanh tử là bờ bên này (thử ngạn), Niết Bàn là bờ bên kia. ‘Bờ cứu cánh’ là địa vị Niết Bàn cứu cánh.

‘Vô minh’ là tên khác của Si. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương viết: ‘Thể của cái tâm bị si ám là vì không có trí huệ sáng suốt nên gọi là vô minh’. Vô minh, tham, và sân là tam độc. Do trí huệ đạt đến bờ kia, lại do sức tam muội nên vĩnh viễn không còn tam độc, tam hoặc (kiến tư, trần sa và vô minh) đều hết sạch, bao lỗi lầm đều chẳng còn.

‘Tam muội’ còn gọi là Chánh Ðịnh, Chánh Thọ, Ðẳng Trì. Sách Thám Huyền Ký, quyển ba giảng: ‘Tam Muội, Tàu dịch là Ðẳng Trì. Vì chẳng chìm nổi, vì trí huệ bình đẳng nên gọi là Ðẳng. Do tâm chẳng tán loạn, trụ vào một cảnh nên gọi là Trì’. Trong các tam muội chỉ có Niệm Phật tam muội là cao quý nhất như vị vua, quý nhất như của báu nên kinh Ðại Tập gọi Niệm Phật tam muội là Bảo Vương tam muội. ‘Tam muội’ được nói trong bài kệ tụng ở đây chính là Niệm Phật tam muội. Sau chữ ‘tam muội’ lại thêm chữ ‘lực’ để biểu thị các đức lớn lao như trên đều xuất phát từ sức Niệm Phật tam muội nên nói: ‘Vô minh, tham, sân vĩnh viễn dứt. Hoặc tận, lỗi mất, tam muội lực’.

Sáu câu phát nguyện này lấy trí huệ để mở đầu, lấy Bảo Vương tam  muội và Giới, Ðịnh, Huệ v.v… để kết thúc, thật là ý chỉ sâu xa vậy.

  Chánh kinh:

Cũng như vô lượng Phật quá khứ

Làm đại đạo sư cho quần sanh

Cứu độ hết thảy các thế gian:

Sanh, lão, bịnh, tử... các khổ não

Thường hành Bố Thí và Giới, Nhẫn,

Tinh Tấn, Ðịnh, Huệ, sáu ba la

Hữu tình chưa độ khiến được độ

Kẻ đã được độ khiến thành Phật

Giả sử cúng dường hằng sa thánh

Chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác.

Giải:

Ðoạn kệ phát nguyện trên đây diễn tả ý mong cầu đức Giác Tha của Phật.

Ý của bốn câu đầu là tỳ kheo Pháp Tạng nguyện được như hết thảy vô lượng chư Phật trong quá khứ: làm đại đạo sư cho hết thảy hữu tình, dẫn dắt chúng sanh lìa khổ được vui, từ mê được ngộ, thoát biển sanh tử, nhập Phật tri kiến, lại dùng các thứ phương tiện khiến hết thảy chúng sanh được sức vô úy. Vì thế, ngài nói: ‘Cứu độ hết thảy các thế gian, sanh, lão, bịnh, tử... các khổ não’.

Nói một cách thô thiển, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới là ‘các thế gian’. Tam giới chẳng an ví như nhà lửa, đều thuộc trong biển sanh tử nên nguyện cứu độ. Nói ở mức độ cao hơn, ngay cả những vị ở bậc Ðịa Tiền vẫn còn thuộc thế gian, vô minh chưa dứt nên cũng cần phải độ thoát họ. Bốn câu từ chữ ‘thường hành Bố Thí’ trở đi nói đến bổn nguyện đại bi vô tận của Pháp Tạng Bồ Tát: nguyện thường hành Lục Ðộ phổ độ chúng sanh.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Chư Phật Như Lai lấy đại bi làm thể nên đối với chúng sanh khởi đại bi, do đại bi nên sanh Bồ Ðề tâm, do Bồ Ðề tâm thành Ðẳng Chánh Giác. Ví như trong chốn sa mạc có đại thọ vương, nếu rễ của nó hút được nước thì cành, lá, hoa, quả thảy đều sum xuê. Cây thọ vương Bồ Ðề trong chốn sa mạc sanh tử cũng giống như vậy: hết thảy chúng sanh là rễ cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa quả. Lấy nước đại bi làm lợi chúng sanh thì thành tựu được hoa quả trí huệ của chư Phật, Bồ Tát’. Kinh Ðại Nhật cũng dạy: ‘Ðại bi làm rễ’. Ở đây, ngài Pháp Tạng cũng thế: do đại bi nên rộng hành Lục Ðộ, phổ độ quần sanh.

‘Sáu ba la’ tức là Lục Ðộ, là chánh nhân để chứng Niết Bàn. Nguyện hành Lục Ðộ chính là: ‘Pháp môn vô biên thệ nguyện học’ và ‘Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành’. Hơn nữa, Bố Thí trị được keo tham, Trì Giới trị phá giới, Nhẫn Nhục trị nóng giận, Tinh Tấn trị biếng trễ, Thiền Ðịnh trị tán loạn, Trí Huệ trị ngu si. Thường hành Lục Ðộ thì chính là ‘phiền não vô biên thệ nguyện đoạn’. Tự giác, giác tha là dùng sự giác ngộ của chính mình để giác ngộ khắp các chúng sanh, dùng hạnh của chính mình để dẫn dắt chúng sanh, đem đức của chính mình hồi hướng đến chúng sanh. Ðấy chính là ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’. Do vậy, trong kệ tụng có câu: ‘Hữu tình chưa độ khiến được độ, kẻ đã được độ khiến thành Phật’. Cứu vớt, gánh vác cho họ đều đạt tới bỉ ngạn. Bốn câu kệ này đã chứa trọn ý nghĩa tứ hoằng thệ nguyện.

Trong hai câu ‘Giả sử cúng dường hằng sa Phật, chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác’, chữ ‘hằng sa’ chỉ cát trong con sông Hằng của Ấn Ðộ.  Do sông Hằng lắm cát, đại chúng ai cũng thấy rõ như vậy nên Phật thường dùng cát sông Hằng làm thí dụ. Ý nghĩa của hai câu kệ trên là: Giả sử cúng dường chư Phật nhiều như số cát của sông Hằng ‘chẳng bằng cầu Chánh Giác một cách kiên cố, dũng mãnh chẳng khiếp nhược’. Ðoạn kinh này giống hệt như ý nghĩa của đoạn kinh sau đây trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm:

Này thiện nam tử! Trong các loại cúng dường, pháp cúng dường là bậc nhất. Pháp cúng dường là: cúng dường bằng cách tu hành đúng như lời dạy, cúng dường bằng cách lợi ích chúng sanh, cúng dường bằng cách nhiếp thọ chúng sanh, cúng dường bằng cách chịu khổ thay cho chúng sanh, cúng dường bằng cách siêng tu các căn lành, cúng dường bằng cách chẳng bỏ Bồ Tát nghiệp, cúng dường bằng cách chẳng rời Bồ Ðề tâm.

Này thiện nam tử! Công đức của vô lượng các thứ cúng dường trước đó (ý nói cúng dường bằng tài vật) đem so với công đức của pháp cúng dường dẫu trong một niệm thì chẳng bằng được  một phần trăm, một phần ngàn [cho đến] cũng chẳng bằng nổi một phần trăm ngàn câu chi na do tha, ca la phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu bà ni sa đà phần. Vì sao vậy? Vì các đức Như Lai tôn trọng pháp, do tu hành đúng như lời dạy sẽ sanh ra chư Phật. Nếu các Bồ Tát thực hành pháp cúng dường thì chính là thành tựu việc cúng dường Như Lai. Tu hành như thế mới là cúng dường chơn chánh’.

‘kiên cố, dũng mãnh cầu Chánh Giác’ chính là pháp cúng dường, là cúng dường chơn chánh, là bậc nhất trong các cách cúng dường nên cầu Chánh Giác vượt xa cúng dường hằng sa chư thánh bằng các tài vật khác.

Trong đoạn kinh Hoa Nghiêm trên đây, ‘câu chi’ là một ngàn vạn, ‘na do tha’ là vạn vạn, những con số nói kế tiếp đó càng lớn hơn nữa. Dẫu đem cả đại địa nghiền nát thành vi trần thì con số ‘ưu bà ni sa đà’ vẫn còn lớn hơn số vi trần ấy nữa. Công đức của pháp cúng dường ví như số vi trần trong toàn bộ quả địa cầu còn công đức của tài cúng dường chưa bằng một hạt bụi nhỏ, làm sao sánh nổi với tất cả số vi trần của địa cầu. Ðấy chính là lời khen chi tiết về công đức chẳng thể nghĩ bàn của pháp cúng dường vậy.

Câu kệ ‘chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác’ chỉ rõ công đức ‘kiên cố, dũng mãnh cầu Chánh Giác’ của Bồ Tát Pháp Tạng vượt xa công đức cúng dường hằng sa chư thánh.

  Chánh kinh:

Nguyện sẽ an trụ tam ma địa

Luôn phóng quang minh chiếu hết thảy

Cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn

Trang nghiêm thù thắng không chi sánh

Các chúng sanh luân hồi các nẻo

Chóng sanh cõi tôi hưởng an lạc

Thường vận từ tâm cứu hữu tình

Ðộ hết vô biên chúng sanh khổ

Giải:

Tám câu trên đây chính là lời nguyện cầu thành Phật, nhiếp thủ Tịnh Ðộ. Tám câu này thật đúng là chỗ quy kết của toàn bộ các nguyện trên, cũng chính là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện sẽ được thuật trong phần sau của chánh kinh.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Nếu các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh thì có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì vậy, Bồ Ðề thuộc về chúng sanh’. Ðể làm phương tiện rốt ráo hầu thành tựu sự nghiệp độ sanh nên ngài phát đại nguyện nhiếp thủ cõi Tịnh Ðộ.

Trong hai câu: ‘Nguyện sẽ an trụ tam ma địa, luôn phóng quang minh chiếu hết thảy’, ‘tam ma địa’ chính là tam muội hay chánh định. Nguyện an trụ trong Chánh Ðịnh, thường phóng quang minh chiếu trọn hết thảy. Nói cách khác, câu trên là nói về Tịch, về Thể; câu dưới nói về Chiếu, về Dụng. Hai câu kệ ngụ ý diệu đức: định huệ đẳng trì, tịch chiếu đồng thời, thể dụng bất nhị.

Phóng quang là tu đức, thể của nó là tánh đức: tịch mà thường chiếu, chiếu nhưng luôn tịch. Cõi nước là Thường Tịch Quang, thân là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Như Lai cho nên an trụ tịch định, luôn phóng quang minh chiếu khắp hết thảy. Do vậy, cảm được cõi Phật rộng lớn, thanh tịnh.

Chữ ‘cư’ (tạm dịch là chốn)  trong câu ‘cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn’ chỉ quốc độ. Chữ ‘rộng lớn’ chỉ cõi nước ‘rộng rãi, bằng phẳng, chẳng có hạn lượng’ được nói trong kinh. ‘Thanh tịnh’‘thanh tịnh trang nghiêm, vượt trội mười phương’. Do vậy, bảo là ‘quảng đại thanh tịnh cư’ (chốn thanh tịnh rộng lớn).

Luận Vãng Sanh bảo ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú mà một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Vô vi Pháp Thân là thể, từ thể hiện ra y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc, nên nói: ‘Cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn, trang nghiêm thù thắng không chi sánh’. ‘Không chi sánh’ (vô đẳng luân) nghĩa là không gì bằng được nổi, không gì so sánh nổi. Bản Ngụy dịch lại chép rằng: ‘Ðạo tràng siêu tuyệt’. ‘Siêu tuyệt’ là thù thắng, ý nghĩa cũng tương tự.

Gia Tường Sớ ghi: ‘Tu đạo nhanh chóng thành Phật nên bảo là siêu tuyệt’. Một lời của đại sư Gia Tường đã mở toang chỗ thù thắng siêu việt của Tịnh tông: nhanh chóng thành Phật, phàm phu vãng sanh chứng ngay bất thối; có bất thối mới mau chóng thành Phật nổi. Do phương tiện thù thắng nên phổ nguyện: ‘Các chúng sanh luân hồi các nẻo, mau sanh cõi tôi hưởng an lạc’. Sự an lạc ấy mới là an lạc chơn thật. Nhanh chóng thoát khỏi sanh tử, chóng thành Chánh Giác nên bảo là an lạc.

Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ lại dạy: ‘Vì các hữu tình tuyên thuyết pháp thậm thâm vi diệu để họ được lợi ích an vui thù thắng’. Kinh còn chép: ‘Chẳng có hết thảy khổ não nơi thân tâm, chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh. Vì vậy, gọi là Cực Lạc thế giới’. Do những điều trên, kệ nói: ‘Hưởng an lạc’ vậy. Những điều vừa trình bày trên chính là ý nghĩa thật sự của câu kinh: ‘Ban cho cái lợi chơn thật’.

‘Thường vận từ tâm cứu hữu tình, độ tận vô biên chúng sanh khổ’: Từ là ban vui, Bi là dẹp khổ. Hai câu trên thể hiện hoằng thệ đại từ đại bi của ngài Pháp Tạng: nguyện thường vì hết thảy chúng sanh dẹp khổ, ban vui đến tột cùng đời vị lai; cứu vớt, gánh vác độ hết sạch chúng sanh xong mới thành Chánh Giác.

‘Thường’ là nói về thời gian. Quá khứ, vị lai, hiện tại được gọi là ‘tam tế’ (“Tế” là bờ mé, giai đoạn). Thường là tính theo chiều dọc, tột cùng cả tam tế, bao quát hết thảy thời gian quá khứ, hiện tại lẫn vị lai.

‘Vô biên’ là nói về không gian, trọn khắp cả mười phương hư không, tức là theo chiều ngang bao trọn hết thảy mười phương, bao quát hết thảy không gian nên vô biên, mười phương tam thế vô lượng vô biên.

Pháp Tạng Bồ Tát trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, đại từ đại bi độ thoát chúng sanh mãi cho đến khi độ xong tất cả mới ngưng nghỉ, nhưng thời gian vô cùng tận, không gian vô cùng tận, chúng sanh cũng vô cùng tận nên đại từ, đại bi, đại nguyện, đại hạnh cũng vô cùng tận.

Chánh kinh:

Hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố

Chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi

Dẫu thân tôi trụ trong các khổ

Nguyện tâm như thế mãi chẳng thối

  Giải:

Bổn nguyện được chia thành ba đoạn lớn: đoạn đầu là tán thán Phật, đoạn kế phát nguyện, bốn câu sau cùng này thỉnh Phật chứng minh. Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện xong, liền thỉnh đức Thế Tự Tại Vương Như Lai chứng minh.

‘Tôi’ là tiếng Pháp Tạng tự xưng. Hạnh nguyện của tôi vốn sẵn đủ sức kiên cố quyết định, chỉ có đức Phật Thế Tôn là đấng đã viên mãn ba giác, ngũ nhãn rạng ngời, trí huệ vô ngại mới có thể chơn thật chứng cho tôi, nên nói: ‘Chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi’.

Hơn nữa, khi ngài Pháp Tạng phát nguyện thì đã thuộc về cảnh giới rất sâu của bậc địa thượng Bồ Tát nên những người khác chẳng thấu hiểu nổi, chỉ có thánh trí của Phật mới có thể chứng biết nổi. Ðiểm này chứng tỏ  Ðại Sĩ Pháp Tạng diệu đức khó lường nổi.

Hai câu kệ cuối cùng chính là kết thệ để lập tâm. Bản Ðường dịch ghi: ‘Ví chìm trong địa ngục thế gian, nguyện tâm như vậy trọn chẳng thối’. Vô Gián địa ngục khổ sở vô hạn, bản Ðường dịch lấy cái khổ nặng nề nhất trong Vô Gián để chỉ chung tất cả các nỗi khổ khác. Trong bản hội tập, ngài Pháp Tạng thề rằng: ‘Dẫu cho thân trụ trong các khổ’ vì chữ ‘khổ’ dĩ nhiên đã gồm cả cái khổ địa ngục. Thề rằng dẫu đọa vào địa ngục thì hạnh nguyện trên đây của tôi cũng chẳng bị thoái chuyển, minh thị rõ điều được nói trong câu kệ ngay trước đó: ‘Hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố’. Sách Hội Sớ cũng giảng: ‘Nếu chỉ có nguyện thì nguyện ấy là hư dối; nếu chỉ có hạnh, hạnh ấy cũng luống uổng. Vì vậy, nguyện hạnh phải hỗ trợ nhau thì việc làm (tu hành) mới thành tựu’

Xem mục lục