Tin Tức (680)


TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC - | Nguyễn Thế Đăng

15,737

Ba cõi duy tâm

“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.

Ở đây, tâm là gì? Kinh Hoa Nghiêm nói, “Tất cả ba cõi duy chỉ Nhất tâm” (phẩm Thập Địa)

Kinh lại nói: 

Như tâm, Phật cũng vậy

 
        Như Phật, chúng sanh đồng
 
        Tâm, Phật, và chúng sanh
 
Cả ba không sai khác…
 
Nếu người muốn rõ biết
 
Tất cả Phật ba đời
 
Phải quán tánh pháp giới
 
Tất cả duy tâm tạo.
 
                (Dạ-ma cung kệ tán)

Chúng sanh có thấp đến đâu cũng ở trong Tâm đó. Chư Phật có cao tới đâu cũng ở trong Tâm đó. Ba cõi có rộng đến đâu cũng ở trong Tâm đó. Đây là nghĩa “Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.

Ba cõi chỉ là Một Tâm. Tâm ấy tất cả chúng sanh đều có. Và Tâm ấy chính là Phật.

Tất cả những bậc chứng ngộ đều nói như thế, đều dạy như thế.

Thiền sư Mã Tổ nói:

“Các ngươi mỗi người phải tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền pháp thượng thừa Nhất Tâm, khiến các ngươi khai ngộ”.

Rinpoche Karma Chagmé (Tây Tạng, thế kỷ 17) nói:

“Không có vị Phật nào và không có chúng sanh nào Ở ngoài viên ngọc tâm”.

Kinh Quán Vô lượng thọ Phật nói:

“Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng phụ của Phật. Tâm tưởng niệm Phật, tâm quán tưởng Phật thì tâm ấy chính là Phật”.

Với người tin, thực hành thiền định và thiền quán cùng các hạnh để thấy được và sống được tâm này thì toàn thể vũ trụ đều nằm trong tâm này. Như bóng nào cũng nằm trong gương. Như sóng nào cũng ở trong đại dương. Sự vật nào, phàm thánh nào cũng đều ở trong Nhất Tâm này và chính là Nhất Tâm này.

Thượng sĩ Huệ Trung nói:

        Lặng! lặng! lặng!
 
        Chìm! chìm! chìm!
 
        Tâm của muôn pháp tức Phật tâm
 
        Phật tâm lại cùng tâm ta hiệp
 
        Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.

Thấy như vậy thì không gì không phải là Nó. Thấy gì cũng là Nó. Nghe gì cũng là Nó. Tràn đầy mắt tai mũi lưỡi thân ý và đối tượng của mắt tai mũi lưỡi thân ý là sắc thanh hương vị xúc pháp.

“Tất cả sắc tướng đều là sắc tướng Phật, tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật, tất cả chúng sanh đều là các bậc giải thoát trong Tịnh độ của Phật”, điều này được bao gồm trong một mạn-đà-la của Mật tông mà hành giả cần quán tưởng để đạt được tâm mình chính là mạn-đà-la đó. Mạn-đà-la chính là pháp giới Nhất Tâm  được thể hiện bằng hình vẽ.

Thiền sư Cảm Thành, đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông Việt Nam, nhắc lại lời của Thiền sư Mã Tổ: “Xưa có người hỏi Mã Tổ: ‘Tâm tức là Phật, cái gì là Phật?’ Mã Tổ dạy: ‘Ông nghĩ cái nào không phải là Phật hãy chỉ ra xem?’”

Một lần có vị Tăng đến hỏi: “Thế nào là Phật?”

Thiền sư Cảm Thành trả lời: “Khắp tất cả chỗ”.

Lại hỏi: “Thế nào là tâm Phật?”

Sư đáp: “Chẳng từng che dấu”.

Cái “khắp tất cả chỗ, chẳng từng che dấu” này là Nhất Tâm hay Nhất Chân pháp giới. Thật tướng và thật tánh của vũ trụ và chúng sanh chính là Nhất Tâm.

Ba cõi duy tâm là ba cõi duy chỉ là Nhất Tâm, trong đó “tất cả pháp đều là Phật pháp” (Kinh Kim Cương). Khi đạt đến tánh vàng của tất cả mọi sự (thật tướng của tất cả các pháp) thì tất cả sự vật, sinh thể của ba cõi này, đều là vàng.

Nhất Tâm hay Nhất Chân pháp giới này vốn như vậy (pháp nhĩ như thị), không vì có hay không có các bậc thánh ra đời khai thị, không vì chúng ta có thấy, có sống được Nó hay không, không vì chúng ta có thực hành hiệu quả hay không thực hành mà Nó có tăng có giảm, có nhiễm có tịnh, có sanh có diệt.

2. Vạn pháp duy thức

Trong Nhất Tâm thuần nhất, không cách hở mảy may, không có một khe hở chia cắt dầu bằng sợi tóc như vậy, tại sao lại có sự cách lìa giữa các sự vật, giữa người với người, giữa trời với đất?

Sự chia cắt thế giới Nhất Chân này thành không gian chia cách, thời gian phân đoạn này là do thức. Vì thức cho nên có sự khác biệt, tách lìa của vạn pháp: vạn pháp duy thức. Thức là vô minh đã hiển lộ nên có thể thấy được. Thức là cái thứ ba sau vô minh và hành trong mười hai nhân duyên sanh ra thế giới sanh tử luân hồi khổ đau.

Hơn thế nữa, sự phân biệt chia cắt của thức còn được tăng thêm sức mạnh bằng những thứ độc trong tâm: tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ, tà kiến… Sự phân biệt chia cắt càng mạnh thêm theo dòng sống, đến độ thế giới thành tranh giành, xung đột, chiến tranh. Thế giới sanh tử là môi trường trong đó mọi cái xung đột với nhau, phần tử xung đột với phần tử, phần tử xung đột với toàn thể. Sự hài hòa nguyên thủy của Nhất Tâm đã mất.

Thức đã chuyển hóa thế giới Nhất Tâm thành thế giới sanh tử khổ đau. Kinh Lăng Già nói:

        Ví như sóng mặt biển
 
        Do gió thổi mà sanh
 
        Sóng to khởi biển rộng
 
        Không khi nào ngưng dứt.
 
        Biển tàng thức thường trụ
 
        Gió cảnh giới nổi dậy
 
        Lớp lớp các sóng thức
 
        Liên miên mà chuyển sanh.

Biển Như Lai tạng, biển Nhất Tâm vốn một vị, thường trụ. Chỉ do các sóng thức lớp lớp sanh ra, tuy là sóng mà vẫn là nước biển, bèn có thế giới sóng lên xuống dập dồn. Thế giới sóng này nếu đứng riêng một mình thì không thật, vì sóng nào cũng là biển. Sóng chỉ là một dạng khác của biển.

Không thấy biển mà cho sóng ấy là khác với biển, tách lìa ngoài biển, thì sóng ấy là không thật, như huyễn. Vì thật ra sóng là biển, sắc tức là Không.

Hiện giờ chúng ta đang sống trong thế giới sóng do nghiệp thức của chúng ta tạo ra, chúng ta chẳng thấy biển tịch diệt vô sanh ở đâu cả. Chúng ta sống nơi những cái bóng, chúng ta chẳng thấy gương đâu cả. Chúng ta thất lạc trong một thế giới hiện tượng, chúng ta chẳng thấy bản thể “Như Lai tạng thường trụ” đâu cả. Thế giới ấy không thật, như huyễn, vì không có cơ sở, nền tảng nào cả ngoài nghiệp thức của mình, ngoài giấc mộng của mình.

Thế nên, nói theo tông Duy thức, chúng ta phải “chuyển thức thành Trí” , chuyển thế giới sai biệt xung đột này trở lại Nhất Tâm. Đó là con đường giải cứu cho thân tâm và thế giới của chúng ta.

3. Chuyển thức thành trí

Chuyển thức tạo ra phân biệt hư vọng thành trí vô phân biệt, chuyển thức nhiễm ô thành trí thanh tịnh, tịnh hóa thức thành trí, là mục đích của tất cả mọi con đường, mọi tông phái Phật giáo.

Nói theo ngôn ngữ tông Duy thức thì chuyển thức thành trí là chuyển hóa tánh Biến kế sở chấp (bám chấp vào những thứ hư vọng như lông rùa, sừng thỏ) và tánh Y tha khởi (tính chất duyên sanh tạo ra sanh tử) thành tánh Viên thành thật (tính chất không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh của Niết-bàn).

Ở đây chúng ta chỉ nói đến một phần ý nghĩa của sự chuyển hóa ấy.

Có phải thức chuyển thành trí thì không còn gì cả, không có thân tâm và thế giới này nữa không? Thức vẫn có, vẫn biết, nhưng nó đã chuyển thành trí; thành thử, đó là cái biết của trí. Nghĩa là thân tâm và thế giới không còn là kết quả của thức phân biệt hư vọng, nhưng chúng là sự hiện hành của trí. Do đó mà nói, “toàn thức tức trí”.

Vì sóng vọng thức là từ biển trí sanh, không hai không khác, cho nên chuyển thức thành trí, tịnh hóa thức thành trí là thấy biết sóng là biển mà sóng vẫn là sóng. Thấy biết các bóng trong gương chính là gương mà không cần phá hoại bóng nào cả. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc” cho nên không phải phá hoại sắc để có Không. Không phải phá hoại thức để có trí. Đó là điều Kinh, Luận thường nói.

Giải thoát không phải là xóa bỏ, triệt tiêu thức, mà đưa thức về bản tánh của nó là trí. Cũng thế, không phải dẹp hết sóng để thấy biển lớn. Chính nhờ có sóng mới thấy bản tánh của sóng là nước biển, nhờ có thức sanh tử mới thấy ra được trí Niết-bàn. Giải thoát là thấy thức tức là trí, sắc thọ tưởng hành thức tức là tánh Không, bóng tức là gương, sóng tức là nước biển, tất cả tướng là Nhất Tâm.

Thấy được thật tướng của thức tức là trí, bèn giải thoát. Từ đây chỉ có trí, sống trong cảnh giới của trí. Sự phân biệt của thức chính là sự sáng tỏ của trí. Như một người đã vào đến mỏ vàng, từ đây cái gì người ấy làm ra đều là vàng.

Những đoạn kệ được trích dẫn ở sau đều từ phẩm Dạ-ma cung kệ tán, Kinh Hoa Nghiêm.

                Các pháp vô sai biệt
 
                Không ai biết điều đó
 
                Chỉ Phật cùng Phật biết
 
                Vì trí huệ rốt ráo.
 
                Như vàng và màu vàng
 
                Tánh chúng không sai biệt
 
                Pháp, phi pháp cũng vậy
 
                Thể tánh vốn chẳng khác.

Các pháp có phân biệt, có đến đi, có sanh diệt… đều là do thức. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh; tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”. Biết được bản chất của thức là không sanh, tuy sanh mà thật ra là không sanh, đây là sự chuyển hóa thức thành trí.

Nghiệp thức vốn là không tịch, cho nên các pháp vốn là giải thoát.

                Tánh nghiệp vốn không tịch
 
                Chúng sanh nương nơi thức
 
                Khắp làm các hình sắc
 
                Nhưng thật không chỗ đến.
 
                Những hình sắc như vậy
 
                Nghiệp lực khó nghĩ bàn
 
                Rõ đạt căn bản kia
 
                Trong ấy không thấy có.

Thấy được thật tướng của thức cũng như của tất cả các pháp là không tịch, vô sanh, thì thấy biết tất cả sanh tử là không tịch, vô sanh. Sanh tử vô sanh thì đó là Tịnh độ của chư Phật.

                Các pháp không chỗ đến
 
                Cũng không có tác giả
 
                Cũng không từ đâu sanh
 
                Chẳng thể phân biệt được.
 
                Tất cả pháp không đến
 
                Vì thế nên không sanh
 
                Vì đã không có sanh
 
                Nên cũng không có diệt.
 
                Tất cả pháp vô sanh
 
                Tất cả pháp vô diệt
 
                Nếu biết được như thế
 
                Người ấy thấy được Phật.

Cũng một ý với phẩm Dạ-ma cung kệ tán này, Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông nói lên bài kệ cuối cùng trước khi từ giã cõi đời:

                Tất cả pháp chẳng sanh
 
                Tất cả pháp chẳng diệt
 
                Nếu biết được như thế
 
                Chư Phật thường hiện tiền.

Khi một người đạt đến tâm Phật, cũng chính là bản tâm của mình, thì thấy cái gì cũng là Phật, nghe cái gì cũng là Phật. Người ấy đã ở trong Tịnh độ pháp giới của chư Phật.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 187

15,737

HẠNH GIÚP NGƯỜI

_Thưa thầy tất cả những phân biệt này đều xuất phác từ tâm bình đẳng vô phân biệt, như vậy trước sự không nhận thức được điều đó của những người này,

809
BỐ THÍ NHƯ NGỌN ĐÈN

_Xin thầy chỉ dạy về bố thí như thế nào là công bằng? Thí dụ người giàu thì bố thí một lượng rất nhiều, người nghèo thì bố thí một lượng rất

860
ÔNG CHỦ THƯỜNG HIỆN DIỆN

Chủ thì có sẵn nhưng mà tại sao mình không tin, cái khó là vậy đó, nó không thường ở với mình, trong một chớp nhoáng là mình trở thành khách liền

538
BẠO LỰC - KRISHNAMURTI

BẠO LỰC🤹 Khi bạn tự cho mình là một người Ấn, hay một người Hồi giáo hay một người Âu, hay cái gì khác, bạn đang bạo lực. Bạn có thấy tại

906
Danh ngôn của Aristote (384 - 322 trước TL) - Nhã Chân chuyễn ngữ

Kẻ nào không còn là bạn của ta nữa đã chẳng bao giờ là bạn ta cả.Sự giận dữ là cần thiết: ta không thắng được gì cả  khi không có nó

1,095
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,232
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,669
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,569
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,339
Chùa Việt
Sách Đọc