Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

7. Bộ loại sai biệt

 Ðể hiểu sâu kinh này, cần phải biết các kinh luận cùng bộ loại và kinh điển nói kèm pháp Tịnh Ðộ để tiện việc nghiên cứu, tham khảo.

7.1. Ðồng bộ

 Kinh này là kinh điển đồng bộ với kinh Tiểu Bổn Di Ðà. Bản dịch đời Ngô của kinh này cũng được đặt tên là A Di Ðà kinh, trùng tên với bản dịch kinh Tiểu Bổn của ngài La Thập đời Tần. Vì vậy, tục gọi kinh này là Ðại Bổn, kinh A Di Ðà bản dịch đời Tần là Tiểu Bổn. Sách Sớ Sao cho rằng hai bản Ðại, Tiểu ‘văn dầu chi tiết hay giản lược, nhưng nghĩa không ưu, liệt, cho nên phán định là đồng bộ’.

Hiện tại, Tiểu Bổn Di Ðà có ba thứ:

 * A Di Ðà kinh, do ngài tam tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.

 * Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ kinh của ngài Huyền Trang dịch đời Ðường.

 * A Di Ðà kinh Tần Ðường lưỡng dịch hội tập bản do Bồ Tát giới cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập thời hiện đại.

 Hai bản dịch đời Tần và Ðường đại thể tương đồng, chỉ sai biệt đôi chút. Bản dịch đời Tần tinh yếu, lưu loát, được mọi người coi trọng. Bản Ðường dịch thì chuẩn xác, tường tận, tận lực giữ trọn nguyên tác. Thầy tôi hội tập hai bản dịch này, gạn hết những điểm tinh yếu, lại dựa vào bản kinh khắc đá thời Lục Triều bổ túc hai mươi chữ bị sót mất trong bản dịch đời Tần.

Xét theo bản kinh đá ở Tương Dương và bản chép tay của người thời Lục Triều để khắc đá, sau chữ ‘nhất tâm bất loạn’ còn có dòng chữ chuyên trì danh hiệu, dĩ xưng danh cố chư tội tiêu diệt, tức thị đa thiện căn phước đức nhân duyên’ gồm hai mươi mốt chữ.

Sư Nguyên Chiếu đời Tống cũng chép như vậy trong tác phẩm Linh Chi Sớ. Ðại sư Cừ Am đời Minh cũng đề cao bản Thạch kinh. U Khê đại sư trong tác phẩm ViênTrung Sao còn lớn tiếng hô hào: ‘Bản được lưu truyền hiện tại (chỉ bản dịch đời Tần) bị sai sót, phàm đọc tụng, tu tập nên dựa theo cổ bản để bổ túc cho đúng’.

Hội bản nương theo ý các vị tiên đức, thu nhập thêm hai mươi mốt chữ đó. Trong hội bản này gồm đủ ưu điểm của hai bản dịch lại bổ khuyết chỗ thiếu sót của bản dịch đời Tần. Thánh ý được hiển lộ trọn vẹn, dễ được hiểu thấu đúng đắn. Như vậy, nguyên văn của bản dịch đời Tần phải là ‘nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu’ (tám chữ này phải nên đọc một hơi) thật tương đồng bản dịch đời Ðường ‘hệ niệm bất loạn’, cũng tương đồng ý chỉ ‘nhất hướng chuyên niệm’ của kinh này, chỉ bày tỉ mỉ diệu pháp Trì Danh từ quả khởi tu, quả giác nhân tâm, tha lực thầm gia hộ chẳng thể nghĩ bàn.

Sách Yếu Giải viết: ‘Nếu chấp trì danh hiệu chưa đoạn kiến, tư thì tùy theo là tán hay định, chia thành ba bậc, chín phẩm nơi cõi Ðồng Cư’,  đủ thấy chúng sanh chỉ cần tín, nguyện, trì danh, quyết được vãng sanh cõi Phàm Thánh Ðồng Cư của Cực Lạc. Thật chẳng đợi phải đạt đến sự nhất tâm bất loạn hoặc lý nhất tâm bất loạn. Diệu dụng của pháp môn Trì Danh được giãi bày hết ra, đủ chứng minh hội bản thật có công với thánh giáo vậy.

7.2 Ðồng loại

 Hễ kinh điển nào xướng xuất: nghĩ, niệm Di Ðà, nguyện sanh Cực Lạc đều được coi là đồng loại. Trong các kinh ấy cũng có thân, sơ. Kinh nào trì danh niệm Phật là thân, đề cao pháp khác là sơ.

 * Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ kinh: kinh này cùng với hai kinh Ðại Bổn, Tiểu Bổn ở trên được gọi chung là Tịnh Ðộ Tam Kinh, là kinh điển cơ bản của Tịnh tông. Kinh này giảng đầy đủ về mười sáu diệu môn, khuyên dạy quán tưởng niệm Phật và trì danh niệm Phật.

 * A Di Ðà Phật Cổ Âm Thanh Vương Ðà Ra Ni kinh: khuyên dạy trì danh và kiêm trì chú.

 * Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm: mười đại nguyện vương dẫn dắt quy về Cực Lạc.

 * Hậu xuất A Di Ðà Phật kệ kinh: Từ đầu đến cuối chỉ là kệ, gồm năm mươi sáu câu. Trong ấy có câu: ‘Phát nguyện giống như chư Phật, thề hai mươi bốn chương’ tương đồng với hai mươi bốn điều nguyện trong hai bản dịch đời Ngô và Hán.

 * Chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Thủ Lăng Nghiêm: khuyên dạy chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật. Dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn.

 * Bát Châu Tam Muội kinh: do tam tạng pháp sư Chi Lâu Ca Sấm người xứ Nhục Chi dịch vào đời Hậu Hán. Ngoài ra, Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập Hiền Hộ kinh là bản dịch khác của kinh này. Kinh chú trọng dùng chín mươi ngày làm kỳ hạn, chẳng ngồi, chẳng nằm, tu Phật lập tam muội, Thiên Thai tông gọi là Thường Hành Tam Muội, xướng danh, quán niệm A Di Ðà Phật.

 * Vãng Sanh Luận: do Bồ Tát Thiên Thân soạn, đề xướng ngũ môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ (Nhất luận trong ‘Tịnh tông tam kinh nhất luận’ là chỉ cho luận này).

 * Vãng Sanh Luận Chú của đại sư Ðàm Loan đời Bắc Ngụy soạn, là một bộ sách cổ của Tịnh tông.

 * Du Tâm An Lạc Ðạo: do đại sư Ðạo Xước đời Ðường soạn là một trong những bộ sách cổ.

7.3 Kinh, luận nói kèm về Tịnh Ðộ

 Lại có các kinh, luận tuy chẳng chuyên luận về Tịnh Ðộ, nhưng cũng kiêm xưng tán Cực Lạc, khuyên lơn vãng sanh.

Các kinh ấy như: kinh Pháp Hoa, kinh Bi Hoa, kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, kinh Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhã, kinh Mục Liên Sở Vấn, kinh Thập Vãng Sanh, kinh Quán Phật Tam Muội (Phật thọ ký cho ngài Văn Thù sẽ sanh về Cực Lạc), kinh Văn Thù Phát Nguyện (Văn Thù nguyện cầu sanh Cực Lạc), kinh Nhập Lăng Già (Phật thọ ký cho Long Thọ sanh cõi Cực Lạc), Tỳ Bà Sa luận (do Long Thọ Ðại Sĩ soạn), Ðại Trí Ðộ luận (cùng tác giả), Ðại Thừa Khởi Tín Luận (Bồ Tát Mã Minh soạn) v.v...

Kinh, luận Tịnh Ðộ có đến trăm mấy mươi bộ. Trên đây chỉ lược nêu các kinh sách thuộc cùng bộ loại và kinh, luận đề cập đến Tịnh Ðộ. Còn như số lượng các kinh điển trong Mật bộ có liên quan đến Tịnh Ðộ còn nhiều hơn nữa nhưng chẳng kể ra

Xem mục lục