Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (22)


Xem mục lục

Bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi trưởng giả Duy Ma Cật rằng: “Bồ tát nhìn chúng sanh như thế nào?”

Duy Ma Cật đáp: “Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do mình biến hóa ra, Bồ tát thấy chúng sanh cũng như vậy.

“Như người trí thấy trăng trong nước. Như trong gương thấy mặt mình. Như ảo ảnh nơi hơi nóng. Như vang của tiếng. Như mây trong không. Như đống bọt nước. Như bọt sóng trên mặt nước. Như sự bền chắc của cây chuối. Như sự dừng lâu của tia chớp. Như đại thứ năm. Như uẩn thứ sáu. Như căn thứ bảy. Như nhập thứ mười ba. Như giới thứ mười chín. Bồ tát quán thấy chúng sanh cũng như vậy.

Bồ tát là người sống với chúng sanh để giúp đỡ chúng sanh, không đi vào sự tịch diệt của riêng mình. Bỏ chúng sanh ở thế giới hiện tượng và chỉ đi vào tánh Không về mặt bản thể, đó là hạnh Thanh Văn. Còn vẫn sống với chúng sanh ở cõi đời với tri giác bình thường về chúng sanh thì đó là hạnh phàm phu trong sanh tử. Một đằng thuần chỉ là Không, một đằng thuần chỉ là Hữu.

Bồ tát thì đi con đường Trung Đạo, ở với tướng mà vẫn là vô tướng, vô tướng mà vẫn đối xử với thế giới hình tướng. Bởi thế, muốn không bỏ chúng sanh mà vẫn không bị sanh tử trói buộc, muốn không bỏ thế giới hình tướng đồng thời cũng không muốn bị thế giới hình tướng trói buộc thì phải thấy chúng sanh như thế nào?

Rút lại, đây là vấn đề tâm và cảnh. Hàng Thanh Văn chỉ có tâm, không có cảnh. Người sống trong sanh tử thì chỉ có cảnh không có tâm. Hàng Bồ tát là sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa tâm và cảnh. Đó là Trung Đạo.

Cụ thể, về tâm, thì tâm Bồ tát hằng ở trong tánh Không, gọi là Tâm Không, đây là phương diện Chỉ của tâm. Về cảnh, thì tâm Bồ tát ôm trùm tất cả cảnh, tất cả thế giới hiện tượng, đây là phương diện Quán của tâm. Quán là cái thấy về thực tại, nhưng mức độ thấy được sự thật ở mỗi người là khác nhau. Với người sơ học như chúng ta, quán là một sự dụng công mà trí tưởng tượng đóng phần rất lớn: sự thật như vậy nhưng chúng ta không thấy được như vậy, cho nên để thấy được sự thật chúng ta phải quán, phải tưởng tượng ra sự thật. Với Bồ tát đã vào địa, quán là thấy: cái thấy này là một sự việc tự nhiên.

Bồ tát quán thấy chúng sanh như mình là nhà huyễn thuật thấy những người huyễn do mình biến hóa ra trong trò làm huyễn thuật. Sự quán thấy này là một công phu của Chỉ và Quán, hay Định và Huệ trong một thời gian lâu – lâu mau tùy nghiệp, tức là thói quen nặng hay nhẹ, trong việc chấp thực các hình tướng sâu hay cạn. Muốn đi đến chỗ thật hành thực sự, người ta phải đạt đến một nền tảng an định nào đó của tâm thức, nơi đó mọi sự bắt đầu được thấy là trò huyễn thuật, như nhìn thấy bóng trong gương. Pháp quán này làm cho chúng ta dần dần tương ưng với một sự thật: tất cả mọi sự hiện hữu đều do tâm mình biến hóa ra, ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức. Khi tâm là tánh Không thì cảnh cũng là tánh Không. Khi cảnh là tánh Không thì tâm cũng là tánh Không. Và sự quán thấy này phải bao gồm cả thân tâm của chúng ta trong đó, nghĩa là không chỉ chúng sanh là huyễn hóa, mà chúng ta cũng là một bóng dáng huyễn hóa trong đó. Những câu kinh sau mỗi chúng ta tùy ý chọn lấy để thực hành cho đến khi pháp Quán trở thành hiện tiền, nghĩa là thấy thực, có thực với tâm thức chúng ta.

Phải nên nhớ rằng tuy Bồ tát không bao giờ bỏ chúng sanh, nhưng nếu thấy có chúng sanh thật, thì thấy có bao nhiêu chúng sanh chúng ta sẽ có bấy nhiêu phiền não về chúng sanh mà như vậy thì chưa tự cứu nổi mình, lấy đâu lo cho người khác?

“Như sắc của cõi Vô sắc. Như mầm của hạt giống cháy. Như thận kiến của Tu Đà Hoàn. Như sự nhập thai của A Na Hàm. Như ba độc của A La Hán. Như tham, giận, phá giới của Bồ tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Như tập khí phiền não của Phật. Như sự thấy sắc của người mù. Như hơi thở ra vào của người nhập diệt tận định. Như dấủ chim bay trong không. Như đứa con của người đàn bà vô sanh. Như phiền não của người do huyễn thuật hóa ra. Như cảnh mộng khi đã thức. Như sự thọ thân của người nhập Niết bàn. Như lửa không có khói. Bồ tát quán thấy chúng sanh cũng như vậy.”

Tất cả những pháp quán trên đều đưa chúng ta đến chỗ cái thấy thực, tức là “cái thấy” hay là sự soi chiếu, tánh quán của chính bản thân chúng ta: chúng sanh có người thế này, người thế nọ, có người quá tệ mà cũng có người rất cao cả, nhưng tất cả đều là những hình bóng khác nhau theo nghiệp trong mặt gương tâm. Tâm chân thật là mặt gương không phân biệt này. Sự không phân biệt các hình bóng và đồng nhất với các hình bóng trong mặt gương tâm này chính là vô duyên từ bi.

Tất cả những hình tướng mà chúng ta thấy trong mặt gương này đều do ‘bệnh phải ở trong sanh tử’ mà thấy. Bởi thế chúng là vô sở hữu, không hề có (thực): như sắc của cõi Vô sắc, như phiền não của người do huyễn thuật hóa ra, như cảnh mộng khi đã thức… Chánh quán như vậy sẽ đưa tâm vào chánh định.

Như vậy chúng ta thấy một pháp quán nếu đi cho đến nền tảng sẽ bao gồm đầy đủ tất cả những cái khác của Phật pháp: vô duyên từ bi, tính bình đẳng, nhẫn nhục (vì như huyễn), đại nguyên (khi chúng sanh không thực theo kiểu một hiện hữu kiên cố, nguyện chúng ta mới nhẹ nhàng và càng mở rộng được) khoan dung, an ổn… Bởi thế chúng ta chớ coi thường một pháp môn nào, bởi vì thành tựu một pháp môn nào cũng là sự thành tựu tất cả các pháp môn, và một pháp môn nào đạt tới đâu thì tất cả các pháp môn khác cũng xấp xỉ tới đó. Vấn đề là chúng ta có đạt đến nền tảng của một pháp môn nào đó hay không, bởi vì nền tảng của một pháp môn cũng là nền tảng của tất cả các pháp môn; sự thành tựu rốt ráo của một pháp môn cũng là sự thành tựu rốt ráo của tất cả các pháp môn.

Nền tảng của một pháp môn là Căn bản trí, cái chung của mọi pháp môn.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Nếu Bồ tát quán thấy như thế, làm sao hành lòng Từ với họ?”

Trưởng giả Duy Ma Cật nói: “Bồ tát quán thấy như thế rồi tự nghĩ ta phải vì chúng sanh nói cái pháp này. Do đó Bồ tát phát sanh lòng từ chân thật là chỗ nương dựa của tất cả chúng sanh. Hành Từ tịch diệt, vì không chỗ sanh. Hành Từ chẳng nóng, vì không có phiền não. Hành Từ bình đẳng, vì ba đời bình đẳng. Hành Từ không tranh, vì không có chỗ khởi. Hành Từ không hai, vì trong và ngoài không hiệp. Hành Từ không hoại, vì tánh rốt ráo.

Hành Từ kiên cố, vì tâm không thể hủy hoại. Hành Từ thanh tịnh, vì các pháp vốn tánh thanh tịnh. Hành Từ vô biên, vì như hư không. Hành Từ A La Hán, vì phá tan giặc kiết sử. Hành Từ Bồ tát, vì liên tục thành tựu cho chúng sanh. Hành Từ Như Lai, vì thấu đạt chân như. Hành Từ của Phật, vì giác ngộ cho chúng sanh. Hành Từ tự nhiên, vì không nhơn đâu mà đắc. Hành Từ Bồ đề, vì bình đẳng Một Vị. Hành Từ không gì sánh, vì đoạn hết thương ghét. Hành Từ đại bi, vì dẫn dạy cho Đại thừa. Hành Từ không nhàm mỏi, vì thấy Không, Vô ngã. Hành Từ bố  thí pháp, vì không tiếc mà để dành. Hành Từ trì giới, vì giáo hóa những người phá giới. Hành Từ nhẫn nhục, vì bảo hộ cho người và cho mình. Hành Từ tinh tấn, vì gánh vác chúng sanh. Hành Từ thiền định, vì không thọ vị gì. Hành Từ trí huệ, vì không có sự chẳng biết thời. Hành Từ phương tiện, vì biểu hiện pháp khắp chỗ. Hành Từ không che ấn, vì thanh tịnh trong trực tâm. Hành Từ thâm tâm, vì không có tạp hạnh. Hành Từ không lừa dối, vì không hư giả. Hành Từ an lạc, vì làm cho tất cả được sự an lạc của Phật. Lòng từ của Bồ tát là như vậy đó.”

Một khi đã quán sát được chúng sanh và chính mình – vì mình cũng là một chúng sanh – như đoạn kinh trên, tâm hành giả đã có khoảng trống, đã có sự rỗng rang mềm dẻo cần thiết dành cho các hình tướng chúng sanh không còn cứng đặc, ép chặt lên cuộc đời mình như trước. Đây là điều mà chúng ta gọi là sự đạt đến nền tảng của tâm thức, của đời sống. Chính từ nền tảng này, dù có thể còn mơ hồ, còn chưa vững chắc, lòng Từ phát lộ, bởi vì lòng Từ chính là một phẩm tính của nền tảng. Và cũng chính từ nền tảng dù chưa ổn định này, chúng ta có thể thực hành lòng Từ, khai mở nó, làm nó tuôn chảy ra với cuộc đời. Nó càng tuôn chảy, càng tràn ngập thì sự chấp chặt vào tướng chúng sanh càng bị xóa mờ và cái chủ thể nơi lòng Từ khởi phát càng biến mất. Như thế trong lòng Từ chân thật, ta và người đều được giải thoát. Trong lòng Từ chân thật, không còn sự khổ đau.

“Khi Bồ tát quán chúng sanh được như thế rồi”, khi bắt đầu thấy được sự thực về đời sống như vậy rồi, Bồ tát cảm thương chúng sanh điên đảo khổ đau vì chưa thấy được như thế, nên “tự nghĩ ta phải vì chúng sanh nói ra pháp ấy”. Muốn cho người khác thấy sự thật để chấm dứt khổ đau, đây là chỗ bắt đầu của lòng từ và lòng bi chân thật.

Phải biết rằng với một chúng sanh bình thường như chúng ta, việc quán thấy được thực tướng của chúng sanh, việc phát sanh được lòng từ, dù chỉ một ngày hay một giờ hoặc thậm chí vài phút thôi, chúng ta cũng sống một đời người không uổng phí, vì chúng ta đã biết được thực sự đời sống là gì, sự an vui của Phật pháp là gì và từ đó cho đến mãi mãi về sau chúng ta sẽ không ngần ngại đặt cuộc đời nhỏ hẹp của chúng ta vào trong Phật pháp. Cho nên, việc học kinh không phải là để có một kiến thức về một vài phương diện nào đó của kinh nói riêng và Phật Pháp nói chung, mà việc quan trọng nhất là phát sanh được, phát khởi được phương diện đó, từ đó sự phát sanh đó tuôn chảy liên tục để trở thành chính đời sống Phật pháp.

Qua những chỉ dạy sự phát khởi và làm hiện hành lòng Từ ở trên, chúng ta thấy lòng Từ không phải là một ý niệm mà là một thực tại, và thực tại đó bao gồm toàn bộ đời sống, nghĩa là bao gồm (hay phối hợp với) tất cả những pháp tu khác của Bồ tát.

Trên nền tảng của tâm đã bắt đầu hiển lộ vì những che chướng chấp ta chấp chúng sanh đã nhẹ bớt, chúng ta bắt đầu cảm nghiệm được lòng từ hay lòng thương yêu như một thực tại vốn đã có từ muôn đời nơi chúng ta. Từ hạt mầm bắt đầu nhú ra đó, chúng ta nuôi dưỡng, điều chỉnh, dẹp những chướng ngại đối với nó, để tình thương càng ngày càng rộng lớn, phá tan các hình tướng do tự chúng ta dựng lên và chấp chặt để tất cả chúng sanh, tất cả ta người, tất cả mọi hình tướng của đời sống được hòa lẫn trong đó, như tất cả mọi hình tướng sóng phải là Một trong đại dương lòng Từ.

Tóm lại, khi lòng Từ đã phát khởi, nghĩa là khi đã cảm nghiệm được lòng Từ, chúng ta phải hòa lẫn lòng Từ này với những gì chúng ta thấy, nghe, hay, biết, để tất cả đều thấm đẫm lòng Từ, đến độ tất cả phải được sinh ra, an trụ, biến đổi và diệt mất trong lòng Từ. Thậm chí khi vừa nghĩ đến ai, một khuôn mặt nào, lòng Từ phải đi trước, và mọi hành vi, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ của chúng ta đều có nguồn gốc là lòng Từ, sinh hoạt trong lòng Từ, và tiêu tan trong lòng Từ. Chúng ta đưa lòng Từ hòa lẫn với cuộc đời trong mọi mặt của nó, để cuối cùng lòng Từ chính là nền tảng của cuộc sống chân thật, mới mẻ, như thế, đời sống thật sự này chính là sự biểu lộ trong mọi mặt của lòng Từ.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: “Sao gọi là Bi?”

Đáp rằng: “Đó là sự cho tất cả chúng sanh tất cả cội gốc công đức đã được tích tập.”

Hỏi: “Sao gọi là Hỷ?”

Đáp rằng: “Đó là hoan hỷ nơi sự làm lợi lạc cho chúng sanh, không hối tiếc.”

Hỏi: “Sao gọi là Xả?”

Đáp rằng: “Không có chỗ hy vọng nơi sự ban phước.”

Cho đi những cái tốt đẹp chúng ta có làm cho cuộc đời chúng ta được mở rộng về mặt vật chất lẫn tâm thức. Đây gọi là sự hồi hướng cúng dường cho chúng sanh. Tâm càng nhiều hồi hướng cúng dường thì càng rộng mở và dần dần tâm đó ôm trọn tất cả đời sống. Khi nhìn một cội cây đẹp, chúng ta hồi hướng cúng dường vẻ đẹp, niềm vui cho chúng sanh và một cách sâu xa, cội cây đó chính là tâm chúng ta; đem tâm cho đi thì tâm càng rộng mở, cho đến khi tâm ta là toàn bộ đời sống, và toàn bộ đời sống là tâm ta. Đó là một phần ý nghĩa của sự cho.

Hỷ là sự vui vẻ khi thấy chúng sanh được lợi lạc, và vui vẻ trong sự làm lợi lạc cho chúng sanh. Xả là trong sự làm lợi lạc cho chúng sanh, trong sự ban phước cho chúng sanh không hy vọng được báo đáp, vì phần thưởng tối hậu từ xưa nay vẫn có sẵn rồi: chúng ta và tất cả chúng sanh là Một.

Ba đức Bi, Hỷ, Xả thật ra đã có sẵn trong bản tâm, nhưng chúng cần sự vận dụng ở mặt ngoài của con người của chúng ta để tháo gỡ bớt những che chướng trở ngại mà vì vô minh chúng ta đã tích tập để có thể phóng chiếu, tuôn trào ra ngoài, tràn ngập tất cả đời sống. Như thế ta đã thành tựu trong việc tu hành, nghĩa là trả lại con người thật sự cho chính mình, con người đó từ xa xưa đã bị che lấp trong tầng tầng lớp lớp vô minh ta-người, chủ-khách, tôi-thế giới…

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: “Thưa ngài Duy Ma Cật, sanh tử có những điều đáng sợ, Bồ tát phải nương dựa (y) vào đâu?”

Duy Ma Cật thưa: “Bồ tát nơi những điều đáng sợ của sanh tử, phải nương dựa vào lực công đức của Như Lai.”

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: “Bồ tát muốn nương dựa vào lực công đức của Như Lai, phải trụ chỗ nào?”

Đáp rằng: “Bồ tát muốn nương dựa vào lực công đức của Như Lai, phải trụ vào chỗ độ thoát tất cả chúng sanh.”

Đối với những sự đáng sợ trong sanh tử, Bồ tát nương dựa (y) vào lực công đức của Phật. “Y” vào ở đây cùng với “quy y” (nương dựa vào) là cùng một nghĩa. Nương dựa vào năng lực công đức và trí huệ của Phật, ngôi thứ nhất trong Tam Bảo, và rộng hơn, trọn cả Tam Bảo là chỗ nương dựa tối thượng và hiệu quả nhất cho người ở trong sanh tử với những điều đáng sợ của nó. Trong chốn thâm sâu của tâm thức, Tam Bảo hiện diện như bản tâm của Bồ tát, như cái gì thường trụ giữa mọi sự vô thường, như hòn đảo kiên cố giữa ba đào sóng vỗ, đó là chỗ quy y, là năng lực và ánh sáng cho cuộc đời Bồ tát. Nhưng vì năng lực và ánh sáng của Phật không phải là một trung tâm thu lại để tự tồn tại, mà là tỏa chiếu ra để độ thoát tất cả chúng sanh, do đó khi Bồ tát làm công hạnh tương tự, tỏa chiếu ra để độ thoát chúng sanh, Bồ tát bèn tương ưng được với năng lực công đức và trí huệ của Phật. Đó là sự “dựa vào lực công đức của Phật bằng cách độ thoát chúng sanh”.

Lại hỏi: “Muốn giải thoát chúng sanh phải làm gì?”

Đáp rằng: “Phải trừ phiền não cho họ.”

Hỏi: “Muốn trừ phiền não phải làm gì?”

Đáp: “Phải thật hành chánh niệm.”

Hỏi: “Làm sao thật hành chánh niệm?”

Đáp: “Phải thật hành chẳng sanh chẳng diệt.”

Hỏi: “Pháp gì chẳng sanh, pháp gì chẳng diệt?”

Đáp: “Bất thiện chẳng sanh, pháp thiện chẳng diệt.”

Lại hỏi: “Thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?”

Đáp: “Thân tướng làm gốc.”

Hỏi: “Thân tướng lấy gì làm gốc.”

Đáp: “Tham dục làm gốc.”

Hỏi: “Tham dục lấy gì làm gốc?”

Đáp: “Phân biệt hư vọng làm gốc.”

Hỏi: “Phân biệt hư vọng lấy gì làm gốc?”

Đáp: “Tưởng điên đảo làm gốc.”

Hỏi: “Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc?”

Đáp: ‘‘Không trụ làm gốc.”

Hỏi: “Không trụ lấy gì làm gốc?”

Đáp: “Không trụ thì không gốc.

‘‘Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, từ gốc không trụ, lập tất cả pháp.”

Muốn giải thoát cho chúng sanh và cả cho mình, phải trừ phiền não. Giải thoát chính là giải thoát khỏi phiền não chứ không giải thoát khỏi cái gì cả, kể cả sanh tử, bởi vì sanh tử có ra là do phiền não của mình. Muốn trừ phiền não phải thật hành chánh niệm, tức là sự chuyên tâm vào gốc rễ của phiền não để trừ sạch phiền não.

Muốn diệt trừ phiền não thì trước hết không làm cho những phiền não thô tăng thêm, bằng cách làm cho “pháp bất thiện chẳng sanh, pháp thiện chẳng diệt”, nghĩa là làm điều thiện, bỏ điều bất thiện. Đây là giới (thuộc phần thô) của việc ngăn cấm phiền não tăng thêm. Đi sâu hơn, đi vào cội gốc của phiền não thì gốc phiền não là do thân tướng, nghĩa là sự chấp có thân có tướng, sự chấp vào tính vật chất, và lấy đó làm tất cả cuộc đời của mình, thế giới của mình. Sự chấp thân tướng vật chất này có gốc là tham dục. Nhưng sâu xa hơn, cái gốc tinh vi của tham dục là sự phân biệt hư vọng. Phân biệt hư vọng này lại y cứ trên tưởng điên đảo. Tất cả cái mà chúng ta gọi là sanh tử và hậu quả của nó là khổ đau, chỉ từ một gốc duy nhất là những tư tưởng điên đảo.

Tưởng điên đảo là cái gốc cuối cùng, cái gốc tạo thành chúng sanh, nhưng như vậy đâu là sự giải thoát cho chính những tư tưởng điên đảo này, đâu là sự giải thoát cho chúng sanh chúng ta? Sự giải thoát trực tiếp tức thời nằm trong sự thật là các tưởng điên đảo này không có căn cứ, không có nền tảng, không có chỗ trụ. Các tưởng điên đảo này vốn tự giải thoát bởi vì không có nền tảng, không có nguồn gốc, không có hiệu lực, không từ đâu đến và không đi về đâu.

Đây là một quá trình thiền định đi tìm nguồn gốc của tâm thức, cái sanh ra mọi điên đảo tạo thành sanh tử khổ đau. Và khi người ta bằng sự thiền định lâu ngày đi đến chỗ tận cùng của tâm thức thì thấy thực sự rằng tâm thức này không có gốc, tâm thức này không có ở đâu cả từ quá khứ trong hiện tại đến tương lai. Và người ta giải thoát.

Sự giải thoát như vậy là một sự kiện đã từng xảy ra cho nhiều người đi trên con đường. Lấy một thí dụ, khi ngài Huệ Khả tổ thứ hai Thiền tông Trung Hoa đến gặp Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma. Ngài đứng trong tuyết nhiều ngày mà Đạt Ma chẳng hề đoái hoài. Sau khi tự chặt cánh tay dâng lên, ngài nói: “Tâm con không an, xin thầy an tâm cho con.” Đạt Ma bảo: “Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho.” Suy nghĩ hồi lâu, ngài đáp: “Con tìm tâm mãi mà không thể được.” Đạt Ma bảo: “Ta đã an tâm cho con rồi đó.” Ngay dưới lời nói Huệ Khả đại ngộ, giải thoát.

Đây là một con đường khách quan, không có gì thần bí cả. Bất kỳ ai đi cho đến nguồn gốc của tâm thức mình, đến tận nguồn của phiền não của mình, đều thấy như vậy cả, đều giải thoát như vậy cả. Cho nên chỉ có vấn đề duy nhất với mỗi chúng ta là chúng ta có tận lực đi đến nguồn gốc hay không, chúng ta có muốn tìm cho tới cái nơi đã sanh ra cuộc đời mình, với tất cả khổ đau cũng hư vọng như hạnh phúc, với tất cả sự điên đảo không tưởng của nó?

Người nào đạt đến chỗ không trụ, không gốc của tâm thức mình và trụ trong đó để giải thoát cho chúng sanh, người đó được gọi là Bồ tát.

Bấy giờ trong nhà của trưởng giả Duy Ma Cật có một thiên nữ, nghe lời dạy này về Pháp của những Bồ tát đại anh hùng, vui thích, sung sướng, đại hoan hỷ bèn hiện thân ra, đem hoa trời rải trên những Bồ tát và các vị đại Đệ tử. Hoa đến các Bồ tát đều rơi xuống đất, đến các đại Đệ tử thì mắc vào chẳng rớt. Các vị đại Đệ tử này dùng thần lực để phủi bỏ mà không phủi bỏ được.

Bấy giờ, thiên nữ hỏi tôn giả Xá Lợi Phất: “Thưa ngài, tại sao phải phủi bỏ hoa?”

Đáp rằng: “Hoa này chẳng như pháp nên phải phủi bỏ.”

Thiên nữ nói: “Xin ngài chớ nói hoa này là chẳng như pháp. Tại sao như vậy? Hoa này không có tư tưởng tạo tác cũng không phân biệt. Tạo tác tư tưởng và phân biệt là do ngài tự có. Nếu xuất gia trong Phật pháp, mà có tư tưởng tạo tác, có phân biệt thì chẳng như pháp; nếu không có tư tưởng tạo tác, không phân biệt là như pháp. Ngài hãy nhìn các Bồ tát, hoa chẳng dính mắc bởi vì đã đoạn tất cả tưởng phân biệt. Ví như người lúc sợ hãi, thì ma quỷ mới được dịp. Cũng như vậy các vị Đệ tử sợ hãi sanh tử, cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được dịp, còn người đã lìa sợ hãi thì tất cả năm dục không làm gì được. Tập khí kiết sử chưa hết, hoa bèn dính mắc vào thân vậy; tập khí kiết sử hết rồi hoa không dính mắc được vậy.”

Ở đây là cách giải quyết sanh tử của Đại thừa: sanh tử chỉ là cái méo mó, hư vọng của chúng ta, cho nên cách thanh toán, diệt trừ nó không phải là giải thoát khỏi nó, trốn tránh khỏi nó, mà là chữa trị cái thấy sai lầm của mình, cái thấy sai lầm hết thì sanh tử không còn ở đâu cả. Có rất nhiều thí dụ trong kinh điển nói về việc này. Một thí dụ là sợi dây mà thấy lầm thành con rắn (sanh tử). Khi đã thấy lầm ra con rắn, vấn đề không phải là trốn thoát khỏi nó, có trốn thoát khỏi con rắn-sợi dây thì sự sợ hãi vẫn còn, dầu đối tượng không còn trước mặt nữa. Cách giải quyết rốt ráo, trọn vẹn là thấy được sự thật: con rắn không hề có, đó chỉ là việc thấy lầm, từ xưa nay chỉ có sợi dây mà thôi.

Cái hoa trời hay sắc, thanh, hương, vị, xúc tự chúng không có tư tưởng tạo tác hay phân biệt. Chứng không có vấn đề gì về phía chúng cả. Chỉ có “tư tưởng tạo tác và phân biệt là do ngài tự có”. Thực tại thì chẳng phải Niết bàn hay sanh tử, nó vốn là tánh Không từ tánh lẫn tướng, bởi thế chỉ có “tư tưởng tạo tác và phân biệt” thấy ra là có sanh tử. Lỗi lầm không ở sanh tử, vì sanh tử không thực có, lỗi lầm ở “tư tưởng tạo tác và phân biệt” của chính mình. Lỗi lầm không ở hoa đốm giữa hư không vì hoa đốm giữa hư không không thể có, lỗi lầm ở nơi con mắt nhìn lâu sanh mỏi thấy ra hoa đốm của mình.

Khi nào tâm thức không có tư tưởng tạo tác và phân biệt, khi ấy thực tại bắt đầu lộ diện ngay trước mắt mình. Và thực tại càng lộ diện, cái thật càng hiện tiền bao nhiêu thì những tư tưởng tạo tác và phân biệt, cái hư vọng và điên đảo, càng mất chỗ đứng bấy nhiêu. Khi nào cái không trụ không gốc hiện tiền thì những thứ gốc rễ hư vọng đều bị nhổ sạch: “Vạn dặm mây quang vạn dặm trời…” (Vua Trần Thái Tông).

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Thiên nữ ở trong nhà này đã lâu chưa?”

Đáp rằng: “Con ở nhà này lâu như sự giải thoát của trưởng lão,”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ở đây lâu vậy ư?”

Thiên nữ nói: “Sự giải thoát của trưởng lão cũng có lâu sao?”

Ngài Xá Lợi Phất lặng thinh không đáp.

Trong cái nhìn của Đại thừa, mọi người dù ở cấp độ nào cũng cần xiển dương Pháp khi có cơ hội, và vì thế có thể đóng bất cứ vai nào để hiển bày Pháp: “Thích hợp dùng thân Thanh Văn để được độ, bèn hiện thân Thanh Văn mà thuyết pháp cho; thích hợp dùng thân chư thiên để được độ bèn hiện thân của chư thiên mà thuyết pháp cho…” (Phẩm Phổ Môn). Bởi thế, sự đối đáp giữa thiên nữ và ngài Xá Lợi Phất chỉ có ý nghĩa là triển khai cái thấy thực tại cho đại chúng, chứ không phải ngài Xá Lợi Phất không hiểu gì, hoàn toàn bất ngờ với cái thấy trong giải thoát như thế này. Chúng ta tuần tự theo dõi câu chuyện đối đáp này để sáng tỏ những vấn nạn của chúng ta.

– Thiên nữ ở trong nhà này đã lâu chưa?

Tất cả chúng ta ở đây, trong sanh tử này, đã lâu chưa?

– Con ở nhà này lâu như sự giải thoát của trưởng lão.

Với người đã giải thoát, đã sống trong cái không có thời gian thì cái sanh tử ngày nào “chỉ như một giấc mộng đêm qua”, không thể nói là tôi giải thoát từ năm nào kiếp nào. Tiến lên một mức độ nữa, sự giải thoát hiện giờ đây nó vốn đã giải thoát như thế từ vô thủy, trên nền tảng cái vốn đã giải thoát đó, tôi đã vọng lập lên một sanh tử hư vọng cho tôi, một trường hoa đốm cho tôi, và bây giờ khi mọi cái hư vọng hoa đốm đã tiêu tan, tôi không thể nói là tôi giải thoát từ lúc nào, lâu hay mau. Đồng đẳng với cái vốn đã giải thoát đó của trưởng lão là sự việc ở trong nhà này của thiên nữ và sự việc ở trong sanh tử của chúng ta. “Lâu như” nghĩa là sự việc giải thoát của một bậc A La Hán cùng đặt trên một nền tảng như sự việc ở trong sanh tử của chúng ta. Nền tảng đó là không có thời gian và vốn đã giải thoát. Đây là cái thấy triệt để, sự thiền định triệt để và sự hành xử triệt để cho chúng ta. (Nhưng nói như thế chỉ là một lối tiếp cận, mỗi người chúng ta phải tìm lấy cánh cửa mở cho mình. Đâu có thể nào nói cho hết về một câu đơn giản: “Con ở nhà này đã lâu như sự giải thoát của trưởng lão”.)

– Ở đây lâu vậy ư?

– Sự giải thoát của trưởng lão cũng có lâu sao?

Chúng ta hãy tự hỏi, sự việc sanh tử của chúng ta cũng có lâu sao? Ngay đó chỉ có sự lặng thinh không hý luận vô thủy vô chung của cái bổn nhiên.

Thiên nữ nói: “Như sao mà bậc kỳ cựu đại trí lại lặng thinh?”

Đáp rằng: “Giải thoát, không có chỗ cho lời nói. Thế nên trong đấy tôi chẳng biết nói sao.”

Thiên nữ nói: “Lời nói, văn tự đều là tướng giải thoát. Tại vì sao thế? Giải thoát chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng ở chặng giữa. Thế nên, thưa ngài Xá Lợi Phất, chớ lìa văn tự mà nói giải thoát. Tại sao như vậy? Tất cả các pháp đều chính là tướng giải thoát.”

Giải thoát là giải thoát của cả bản thể và hiện tượng, của tánh lẫn tướng. Trong tánh giải thoát, tất cả hình tướng đều giải thoát, vì tất cả tướng đều là tánh Không. Tánh Không này được thể nghiệm khi quán xét “văn tự, lời nói chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa”, và tất cả các pháp đều chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở chặng giữa, nên tất cả các pháp là tánh Không, là giải thoát.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Chứ chẳng phải lìa tham, sân, si là giải thoát sao?”

Thiên nữ đáp: “Phật vì người tăng thượng mạn mà nói lìa tham sân si là giải thoát, còn người không có tăng thượng mạn, Phật nói tánh của tham sân si là giải thoát.”

Tăng thượng mạn đây là sự kiêu mạn tinh vi, sự khinh thị một cái khác với mình. Mình đây là sự trong sạch của một cái giải thoát đứng riêng, cái khác với mình đây là sanh tử mà cụ thể là tham sân si. Với một người có quan niệm như vậy, thì lìa tham sân si là giải thoát. Nhưng với một giải thoát rộng lớn và tận nguồn hơn, tánh của tham sân si là giải thoát. Tham sân si hay từ bi hỷ xả là biểu hiện của bản tánh của tâm, của cội nguồn vô trụ, và vì thế chúng cũng vô trụ, nghĩa là tự thân chúng là giải thoát. Và trong một sự giải thoát rộng lớn hơn, sự giúp đỡ người khác phải rộng lớn hơn. Nhưng vấn đề không phải là nói, vấn đề là chứng cho được tánh của các sóng là nước, tánh của các hình bóng là gương, để ở nơi tánh bình đẳng đó mà giải thoát cho người khác.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Hay thay! Hay thay! Thiên nữ! Cô đắc cái gì, chứng cái gì mà biện tài như vậy?”

Thiên nữ đáp: “Con không đắc, không chứng, mới biện tài như vậy. Tại vì sao thế? Nếu có đắc, có chứng thời trong Phật Pháp là tăng thượng mạn.”

Còn một cái gì khác với ta, khác với sự giải thoát của ta, thì đó là tăng thượng mạn. Trong Phật Pháp là: “Trong đại dương không chứa xác chết”.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ: “Trong ba thừa, thiên nữ cầu thừa nào?”

Thiên nữ thưa: “Dùng pháp Thanh Văn để giáo hóa chúng sanh, con làm Thanh Văn. Dùng pháp duyên khởi để giáo hóa chúng sanh, thì con làm Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi để giáo hóa chúng sanh, thì con làm Đại thừa.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Như người vào rừng chiêm bặc thì chỉ ngửi thấy hương chiêm bặc, chẳng ngửi thấy hương khác. Cũng vậy, nếu vào nhà này, chỉ ngửi thấy hương công đức Phật, chẳng ngửi thấy hương công đức Thanh Văn và Bích Chi Phật.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có những vị Đế thích, Phạm vương, Tứ thiên vương và các thiên long quỷ thần vào nhà này nghe thượng nhân đây giảng thuyết chánh pháp, đều mến thích hương công đức Phật, phát tâm Bồ đề mà đi ra.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Con ở nhà này đã mười hai năm, chưa hề nghe nói về pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ nghe nói về pháp đại từ bi của Bồ tát và những sự bất khả tư nghi của Phật.

Vì không là gì tất cả, nên có thể vì lòng bi mà “làm” tất cả. Vì không có giới hạn nào trong tâm, nên có thể tùy duyên mà ứng hiện ra những hình tướng hữu hạn. Đó là sự phong phú giàu có của cái Không hợp nhất với lòng đại từ bi.

Sự sống của Đại thừa chỉ có một mùi hương duy nhất, đó là lợi mình lợi người, và sự lợi mình lợi người đó càng mạnh mẽ, hiệu quả thì càng tiến lên gần quả vị Phật, bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ tát không bỏ một pháp nào trong việc tu hành, nhưng có tu hành gì cũng quy về, cũng ở trong một mùi hương duy nhất: hương công đức Phật. Người thực hành con đường Bồ tát phải đem mọi sự vào mùi hương duy nhất này, để bao giờ mình cảm nghiệm được cái mùi hương vô hình đó trong cuộc sống thường nhật của mình thì lúc đó cuộc đời của mình bất đầu hiện hữu trong Phật tánh.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường có tám sự chưa từng có, khó được tự biểu hiện ra. Đó là tám sự gì?

“Nhà này thường có ánh sáng sắc vàng ngày đêm soi chiếu, chẳng cần ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Đó là sự chưa từng có khó được thứ nhất.

“Nhà này hễ ai vào thì không bị các dơ nhiễm làm phiền não. Đó là sự chưa từng có khó được thứ hai.

“Nhà này thường có Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, các vị Bồ tát từ các phương khác tụ hội không ngớt. Đó là sự chưa từng có khó được thứ ba.

“Nhà này thường nói sáu ba la mật và pháp bất thối chuyển. Đó là sự chưa từng có khó được thứ tư.

“Nhà này thường tấu nhạc bậc nhất của trời người, vang ra vô lượng âm thanh giáo hóa của Pháp. Đó là sự chưa từng có khó được thứ năm.

“Nhà này có bốn kho tàng lớn, chứa đầy báu vật cung cấp cho người nghèo thiếu, cầu được vô tận. Đó là sự chưa từng có khó được thứ sáu.

“Nhà này có Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hưởng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành, vô lượng chư Phật mười phương như vậy, khi thượng nhân đây nghĩ tới liền đến rộng nói pháp tạng bí yếu của chư Phật; nói xong thì trở về. Đó là sự chưa từng có khó được thứ bảy.

“Nhà này tất cả cung điện rực rỡ và các cõi Tịnh độ trang nghiêm của chư Phật đều hiện trong đây. Đó là sự chưa từng có khó được thứ tám.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường hiện tám sự chưa từng có khó được như vậy. Có ai thấy những sự bất tư nghị như thế mà còn ham thích pháp Thanh Văn ư?”

Đây là do tâm thanh tịnh rốt ráo mà thường hiện tám sự chưa từng có khó được này vậy. Hễ tâm càng thanh tịnh thì các sự việc này càng biểu hiện đầy đủ. Tâm càng thanh tịnh thì quang cảnh chung quanh (phòng, nhà) càng sáng, một ánh sáng không phải của mặt trời mặt trăng; người ta có thể “nghe” được vô tình “nói” pháp; ngôi nhà càng biểu hiện những rực rỡ của cõi trời và sự nghiêm tính của các cõi Tịnh độ đồng thời cùng tuôn trào những phước đức vật chất và những công đức của tâm thức; và với sự thanh tịnh như thế, sẽ có sự lai vãng của chư thiên và chư đại Bồ tát, chư Phật. Vì tâm vô ngại nên nó vô ngại với chư Phật và các cõi Phật.

Tóm lại, đây không phải là những “phép lạ”, mà nếu nói chữ phép lạ, thì đó là những phép lạ của tâm vô ngại. Những sự chưa từng có khó được này chính là những sự chưa từng có khó được của bản tâm thanh tịnh. Hễ chánh báo tới mức nào thì y báo thể hiện ra ở mức tương đương. Cho nên những người tu hành như chúng ta có thể dùng những sự việc đó như những tiêu chuẩn để đo lường mức độ thanh tịnh của tâm hầu càng tiến, tiến mãi…

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sao cô không chuyển thân nữ đi?”

Thiên nữ nói: “Mười hai năm nay con tìm mãi tướng nữ nhân mà chẳng thể được, thì lấy gì mà chuyển? Như nhà huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn, nếu có người hỏi, sao không chuyển thân nữ đi, người ấy hỏi có đúng không?”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Không đúng. Huyễn hóa không có tướng thực thì lấy gì mà chuyển?”

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp đều cũng như vậy; không có tướng thực. Sao có thể hỏi người huyễn, sao không chuyển thân nữ kia đi?”

Tức thời thiên nữ dùng thần thông lực biến ngài Xá Lợi Phất thành như thân thiên nữ, còn thiên nữ tự hóa thân thành như ngài Xá Lợi Phất mà hỏi rằng: “Sao ngài không chuyển thân nữ?”

Ngài Xá Lợi Phất trong hình tướng thiên nữ đáp rằng: “Tôi nay chẳng biết vì sao lại chuyển biến thành thân nữ.”

Thiên nữ nói: “Thưa ngài Xá Lợi Phất, nếu ngài chuyển được thân nữ này thì tất cả người nữ cũng có thể chuyển. Như ngài Xá Lợi Phất, chẳng phải nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng lại như vậy: tuy hiện thân nữ mà chẳng phải nữ. Thế nên Phật nói: Tất cả các pháp chẳng phải nam chẳng phải nữ.”

Tức thời thiên nữ thu lại thần lực, thân ngài Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Thưa ngài sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu?”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sắc tướng thân nữ chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở.”

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp cũng lại như vậy: chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở. Chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở, đó là lời Phật dạy.”

Trong một tâm thức bình thường, nghĩa là sự hoạt động của nó chỉ ở trong ý thức và năm thức giác quan, mọi sự đều là hình tướng có thực, cứng đặc, cố định, và do đó mà đời sống là một vấn nạn, đời sống là sanh tử. Với một tâm thức đã đạt đến nguồn cội của nó, nền tảng của nó, bản tánh của tâm thức đó, thì tất cả đều chỉ là bóng dáng, đều như huyễn. Không chỉ sắc tướng thân nữ hay thân nam là một vấn nạn không thể giải quyết và do đó tạo ra vô số khổ đau, mà tất cả công việc, hành động trong một tâm thức không đạt đến bản tánh của nó đều gây vấn đề: tôi thực hành Phật pháp, tôi giúp đỡ chúng sanh, tôi bố thí, tôi hơn, tôi thua… Tất cả mọi sự khi không được nhìn thấy thật tướng của chúng đều là những cái ngăn ngại, gây xung đột, chia rẽ, phân biệt và tạo ra thế giới sanh tử khổ đau.

Phải ở nơi bản tánh của tâm thức để nhìn thấy tất cả đều là những hóa hiện: thân nam, thân nữ, công việc của tôi, Phật sự của tôi… Phải ở nơi bản tánh của tâm thức để thấy dầu tôi có làm những công việc tốt đẹp đến đâu, giá trị đến đâu, thì những công việc ấy chỉ là những hành động của “người huyễn có làm, nhưng vốn không làm”, “người huyễn làm việc huyễn”. Đó là những việc làm của người “từ gốc không trụ, lập tất cả pháp”. Phải ở nơi bản tánh Pháp thân, để có thể nhìn thấy mọi sự là Hóa thân, tức là sự hóa hiện của cái vĩnh viễn không có hình tướng, vĩnh viễn bất động đó. Có như vậy mới bắt đầu sự giải thoát mà không lìa hành động của Đại thừa: giải thoát bằng cách giúp đỡ, cứu thoát chúng sanh.

Thân nữ không thể chuyển thành thân nam ngay bây giờ, nghiệp này không thể chuyển thành nghiệp khác ngay bây giờ, nước không thể chuyển thành lửa ngay bây giờ. Chỉ có ở nơi bản tánh, mọi sự đều tức thời chuyển hóa thành như huyễn, đó là sự “chuyển thân” toàn triệt nhất.

Chỉ ở trong bản tánh, vấn đề mới được giải quyết: sắc tướng thân nữ chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở; công việc của tôi chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở (và do đó mà không đụng chạm, cạnh tranh với công việc của ai cả); cuộc đời của tôi chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở (và do đó mà cuộc đời ấy là sự giải thoát tự thân nó).

Cho nên sự thực hành là đi vào bản tánh của tâm thức, nơi không có niệm tưởng nên không có ‘ở đâu’ hay ‘chẳng ở đâu’, để từ đó mà thấy mọi sự đều như huyễn và đó chính là sự chuyển thân của toàn bộ sanh tử thành giải thoát.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi thiên nữ: “Cô chết ở đây rồi sẽ sanh nơi đâu?”

Thiên nữ đáp: “Những thân mà Phật biến hóa ra sanh ở đâu, con sẽ sanh như những hóa thân đó.”

Tôn giả nói: “Nhưng những thân mà Phật biến hóa ra thì không có chết cũng không có sanh.”

Thiên nữ nói: “Chúng sanh cũng như thế, không có chết cũng không có sanh.”

Đức Phật vì đã đạt đến pháp tánh trọn vẹn nên có thể biến hiện ra nhiều thân ở khắp các chỗ. Người tu hành cũng phải quán chiếu thân mình (và thân chúng sanh) y như vậy: tuy là một bên do nghiệp thanh tịnh biến hóa ra, một bên do nghiệp bất tịnh biến hóa ra, nhưng cả hai đều cùng một tính cách biến hóa. Và càng thấu đạt tính cách biến hóa này, nghiệp của người ta càng trở nên thanh tịnh.

Quán thấy như vậy, người ta sẽ đi đến cái thấy rốt ráo, sự giải thoát rốt ráo khỏi sanh tử (mà vẫn ở trong sanh tử): Những thân mà Phật biến hóa ra thì không có chết cũng không có sanh, chúng sanh cũng như thế – cũng là cái được biến hóa ra – không có chết cũng không có sanh. Sanh tử ở đâu nữa?

Chữ “chết” ở đây là dịch chữ “một” của ngài Cưu Ma La Thập. Trong bản tiếng Anh của Thurman dịch từ tiếng Tây Tạng thì chữ đó được dịch là “chuyển di” (transmigrate). Đây là sự chuyển di tâm thức (chết). Với một cái thấy rốt ráo, “chúng sanh (và dĩ nhiên có chúng ta trong đó) cũng như thế, không có chuyển di cũng không có tái sanh”. Sống được với cái thấy ấy, chắc chắn chúng ta vượt khỏi được sự chuyển di, trung ấm và tái sanh. Người tu hành phải có định lực để duy trì, sống với cái thấy này hầu vượt qua trung ấm và tái sanh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi thiên nữ: “Bao lâu nữa thiên nữ sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”

Thiên nữ đáp: “Bao giờ ngài trở lại làm phàm phu bấy giờ con sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Tôi trở lại làm phàm phu, không làm gì có chuyện đó.”

Thiên nữ nói: “Con đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không làm gì có chuyện đó. Tại vì sao thế? Bồ đề không có chỗ trụ cho nên không có chỗ đắc.”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Vậy thì việc nay chư Phật đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đã đắc, sẽ đắc, số lượng hằng hà sa, thì gọi là gì?”

Thiên nữ nói: “Ấy đều là theo văn tự quy ước thế tục tính toán mà nói có ba đời, chứ chẳng phải Bồ đề có quá khứ, vị lai, hiện tại.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất, ngài có đắc quả A La Hán không?’’

Đáp rằng: “Vì không chỗ đắc cho nên đắc.”

Thiên nữ nói: “Chư Phật, Bồ tát cũng như thế: vì không chỗ đắc cho nên đắc.”

Bấy giờ ngài Duy Ma Cật nói với ngài Xá Lợi Phất: “Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật, đã có thể du hý (vui chơi) thần thông Bồ tát, những nguyện đã thành, trụ nơi bất thối chuyển; do theo bổn nguyện mà tùy ý biểu hiện để giáo hóa chúng sanh.”

Thực tại là cái vốn hiện hữu ở đó, không từ đâu, không do đâu. Nó không phải là một vật, một cái gì giới hạn để có thể dùng thân mà đắc, dùng tâm trí tư tưởng mà đắc. Chúng ta vẫn ở trong nó tư vô thủy đến nay, nhưng chúng ta luôn luôn tự mình ngăn cách với nó, ngăn che giữa chúng ta với nó bằng đủ loại phiền não, đủ loại tư tưởng: tôi và “thực tại”, tôi và người khác, tôi và thiên nhiên, tôi muốn có cái đó, tôi muốn, trở thành thế kia, tôi đã mất cái nọ… Tất cả những tưởng và tướng đã được tạo ra và sẽ được tạo ra đã ngăn che giữa chúng ta và thực tại.

Chưa từng có ai rời lìa khỏi Bồ đề, cho nên cũng không có ai đắc Bồ đề. Đắc Bồ đề là ý nghĩ của một tâm thức nhỏ hẹp hình dung ra Bồ đề là một đối tượng nhỏ hẹp có thể nắm lấy bằng thân tâm nhỏ hẹp của mình. Khi nào cái thân tâm đó bị thua cuộc, bị hàng phục, chịu đầu hàng, thì thực tại tràn ngay vào trong đó. Điều này là một sự thật đơn giản: thực tại thì vốn tự hiện hữu, mà thân tâm thì vốn không hiện hữu; cái vô hạn thì vốn tự hiện hữu, còn cái hữu hạn thì vốn không hiện hữu.

Cho nên sự tu hành đích thực là phải ý thức rõ ràng mình đang ở trong thực tại và những gì mình làm không phải là thêm thắt trang hoàng gì cho thực tại, mà những gì mình làm là tự gỡ bỏ những ngăn cản, những che chướng mình đã tự tạo ra từ đời lâu xa khiến ngay cả sự tu hành của mình cũng được thiết lập trên một nền tảng nhiễm ô và lầm lạc. Càng gỡ bỏ những ngăn che, thực tại càng hiển lộ. Càng ít cái “đắc” bao nhiêu cái “không chỗ đắc, không chỗ trụ” càng hiện tiền bấy nhiêu.

“Trở lại làm phàm phu ư? Không làm gì có chuyện đó.” “Đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư? Không làm gì có chuyện đó.”

Hãy tham thiền về “chuyện đó” đi.

Xem mục lục