Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (22)


Xem mục lục

28. 澤 風 Trạch Phong Đại Quá

Trạch Phong Đại QuáTên Quẻ: Đại Quá là Họa (hư hao, gian nan, lớn lao quá mức)

Thuộc tháng 2.

 

Lời tượng

Trạch diệt mộc: Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thế vô muộn.

Lược nghĩa

Nước đầm làm chết cây là quẻ Đại Quá. Người quân tử lấy đấy mà độc lập không sợ gì, ẩn cả đời không phiền muộn.

Hà Lạc giải đoán

Những tuổi Nạp Giáp: Tân: Sửu, Hợi, Dậu; Đinh: Hợi, Dậu, Mùi

Lại sanh tháng 2 là cách công danh phú quý.

THƠ RẰNG:

Tâm thừa, lực thiếu ngán không,

Gió xuân, chống gậy, khuây lòng câu ca.

HÀO 1 ÂM: Tạ dụng bạch mao vô cửu

Lược nghĩa

Lót dưới dùng cỏ mao trắng, không lỗi. (Tỏ ý rất cẩn thận).

Hà Lạc giải đoán

Ý hào: Kinh thận để khỏi lỗi lầm.

Mệnh hợp cách: Cao khiết thanh liêm, được tin dũng hưởng phúc lâu bền.

Mệnh không hợp: Tính tham hư, ẩn nơi sơn lâm, đủ dùng không tham, nên không thất thế gì.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức: cẩn thủ nên lộc vị bền. Giới sĩ: Cẩn mật, siêng đức nghiệp. Người thường: kiểm ước đủ dùng, phòng có tang.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Trước nhỏ sau mới phát

Đầu đuôi yếu hiển nhiên

Giọng ca Tây bắc nổi lên,

Suối reo cây cỏ Bắc liền xanh tươi.

HÀO 2 DƯƠNG: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ thê, vô bất lợi.

Lược nghĩa

Cây dương khô nẩy rễ, chồng già được vợ trẻ (hào 1 âm) không gì là chẳng lợi.

Hà Lạc giải đoán

Ý Hào: Dương được âm giúp

Mệnh hợp cách: Cứu nguy dẹp loạn, lập công lớn.

Mệnh không hợp: trước tân khổ, muộn tuổi mới vinh hoa, hoặc vợ trễ, con trễ.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức: nếu nghỉ việc, được phục chức. Giới sĩ: chờ lâu được vời đến. Người thường: hoặc lấy vợ đẻ con, hoặc có con nuôi, hoặc giới thiệu đồ đệ.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Cảnh tươi sáng, hoa lừng hương

Bàn đào ba trái, phi thường một, coi.

HÀO 3 DƯƠNG: Cột cong queo, xấu.

Hà Lạc giải đoán

Ý Hào: Quá cương mà chẳng ích gì cho việc cả.

Mệnh hợp cách: Hăng hái, lập công giúp đời, nhưng thường bạo mạnh quá, thành thương tổn có khi nguy hiểm nữa. Mệnh không hợp: hung bạo quá, nên họa hại luôn.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức và Giới sĩ: phòng thiệt hại; phòng nguy. Người thường: Phòng đổ vỡ, đau mắt, đau chân.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Có đàn bà, việc chẳng sao,

Tránh nguy, kệ khóc, đừng vào Dậu phương (Phương tây).

HÀO 4 DƯƠNG: Đống long, cát, hữu tha, lận.

Lược nghĩa

Cây cột lớn khỏe, nên tốt (nhưng nếu) có ý khác (đam mê) là sẽ hổ thẹn.

Hà Lạc giải đoán

Ý hào: cương nhu đủ cả, nên gánh được trọng trách, nhưng nếu thiên về phía mềm yếu thì sẽ hỏng.

Mệnh hợp cách: là giường cột của đất nước, công huân lớn.

Mệnh không hợp: Cũng có danh vọng, được việc lớn cho gia đình, phúc lộc dày bền.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức: Thường đứng đầu, giữ trọng trách. Giới sĩ: tiến thủ thành danh.

- Người thường: hay kiến thiết tu tạo, hay cố chấp, có khi rơi vào bọn gian nịnh để rồi hối thẹn.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Lòng khi muốn chậm, muốn mau

Gặp rồng đổi cảnh, trăng lầu sáng soi

HÀO 5 DƯƠNG: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cửu, vô dự.

Lược nghĩa

Cây dương khô nở hoa, đàn bà già (hào 6 âm) được chồng trai tráng, không lỗi gì, cũng không ai khen.

Hà Lạc giải đoán

Ý hào: cương nhu không đủ tài để giúp đời.

Mệnh hợp cách: Cương quá, gặp kẻ không ra người đủ tài lập công, chỉ đủ cơm áo, chẳng vinh chẳng nhục.

Mệnh không hợp: Hoặc vợ già, keo kiệt, thọ mỏng, tài xoàng.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức: Không bền. Giới sĩ: Khó tiến.

- Người thường: Khó kinh doanh, đang vui hóa buồn, đường đẹp hóa xấu, trước nghịch cảnh, sau mới thuận.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Một việc hay nghĩa,

Một người hai lòng,

Cây khô hoa mới,

Nên chờ qua đông.

HÀO 6 ÂM: Quá thiệp, diệt đinh, hung, vô cửu

Lược nghĩa

Lội xâu quá, ngập lút cả đỉnh đầu, xấu nhưng không lỗi gì.

Hà Lạc giải đoán

Ý Hào: Tử nạn vì nước.

Mệnh hợp cách: vì việc đất nước, lâm đại nạn, dám tuẫn quốc, lưu danh sử sách.

Mệnh không hợp: Chí lớn, mưu nhỏ, gặp họa khó còn.

XEM TUẾ VẬN:

- Quan chức: Thân nguy. Giới sĩ: Đỗ khôi khoa. Người thường: bị tai nạn đến đầu, đến trán.

THƠ CHO: NGUYÊN ĐƯỜNG, TUẾ VẬN VÀ NGUYỆT HẠN

Buồn sông lo núi cả hai,

Muốn yên, thôi chớ rông rài lang thang.

Xem mục lục