Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

(Tiếp Theo)

LƯỢC GIẢI

Tác giả lấy phi hữu phi vô để bàn đi bàn lại, giải thích nghĩa "Bất Chân Không" để phá những người chấp "Vốn không". Bởi vì tức hữu để rõ nghĩa "không", gọi là "diệu không"; tức không để rõ nghĩa "hữu", gọi là "diệu hữu". Hai chữ "Bất Chân" tả hết nghĩa "không" của đại thừa, huyền diệu đến cực điểm của giáo lý, chân đế đều được hiển bày nơi đây.

CHÁNH VĂN

Nên kinh nói : "Tánh của sắc tự không", chẳng phải sắc hoại rồi thành không, nghĩa là sắc không bất nhị, để sáng tỏ bậc thánh đối với vạn vật, ngay chỗ vạn vật thấy tánh không, vì vạn vật bản tánh tự không, chẳng đợi mổ xẻ, phân tách rồi mới thành không, vậy kẻ chấp "vốn không" đã lọt vào đoạn diệt rồi.

Cho nên Duy Ma Cật nói: "Bệnh của Bồ Tát phi chân, phi hữu", là lời nói có nghĩa "Bất Chân".

Kinh Siêu Nhật Minh Tam Muội nói: "Chẳng có thọ, chẳng bảo mạng, vì tứ đại chẳng thật vậy" là lời có nghĩa "Tất Không".

Vậy thì, vạn vật của Tam Tạng khác nhau nhưng đều qui về một để hiển bày ý chỉ của sắc không bất nhị. Nên Kinh Phóng Quang Bát Nhã nói: "Đệ nhất chân đế là chẳng có thành, chẳng có đắc; thế tục đế thì có thành, có đắc". Vì chân đế lìa duyên nên không có thành và đắc, tục đế duyên sanh nên có thành và đắc. Có đắc tức là ngụy danh của vô đắc, vô đắc tức là chân danh của có đắc. Chân danh nên dù chân mà "phi hữu", ngụy danh nên dù ngụy mà "phi vô". Bởi vì sự có là y chân kiến lập nên "có" mà "phi hữu"; chân thì tùy duyên biến hiện nên "không" mà "phi vô"; cho nên nói chân chưa từng có, nói ngụy chưa từng không, hai lời chẳng phải một, hai lý chẳng phải khác. Nên trong Kinh nói: "chân đế, tục đế, có khác ư?" Đáp rằng: "không khác". Kinh nầy biện minh chân đế để rõ "phi hữu", biện minh tục đế để rõ "phi vô", đâu phải vì có hai đế mà vật cũng có hai đâu!

Vậy thì, vân vật quả thật có cái sở dĩ "chẳng có", có cái sở dĩ "chẳng không". Có cái sở dĩ "chẳng có" nên dù có mà "phi hữu", có cái sở dĩ "chẳng không" nên dù không mà "phi vô". Dù không mà phi vô, "vô" là không tuyệt hư, dù có mà phi hữu, "hữu" là chẳng thật có. Nếu hữu chẳng chân thật, thì vô cũng chẳng đoạn diệt, vậy thì hữu và vô tuy gọi có khác nhau nhưng ý là một vậy.

Nên Đồng Tử than rằng : "Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không, vì nhân duyên nên các pháp sanh". Kinh Anh Lạc nói : "Sự chuyển pháp luân cũng chẳng phải có chuyển, cũng chẳng phải không chuyển, nên nói chuyển vô sở chuyển". Đây là lời vi ẩn của các Kinh vậy. Nói vật quả thật "không" thì người đoạn kiến chẳng phải là kẻ mê hoặc; nói vật quả thật "có", thì người thường kiến cũng là đúng sao? Vì vật "phi vô" nên đoạn kiến là mê hoặc; vì vật "phi hữu" nên thường kiến là chẳng đúng. Như thế lời "phi hữu", "phi vô" đáng tin là chân đế vậy.

Nên Kinh Đạo Hạnh nói: "Tâm cũng chẳng có cũng chẳng không". Trung Quán Luận nói: "Vật do nhân duyên sanh, khi chưa sanh là không, nên chẳng có; có nhân duyên sanh khởi thì chẳng phải đoạn diệt, nên chẳng không". Tìm xét lý đạo là đúng như thế!

Sở dĩ như thế, sự "có" nếu thật có thì "có" phải thường có, đâu cần đợi duyên hợp rồi mới có! Ví như thật không thì sự "không" phải thường không, đâu cần đợi duyên tan rồi mới không ? Nếu "có" chẳng tự có, đợi duyên hợp rồi mới có thì biết sự có chẳng thật có, sự có chẳng thật có thì dù "có" chẳng thể cho là có vậy! Nói đến chỗ chẳng không, nếu "không" là thật không, thì trạm nhiên chẳng động mới được cho là không, vạn vật nếu "không" thì chẳng thể sanh khởi, có sanh khởi thì chẳng không, đây là để tỏ rõ duyên khởi nên chẳng không vậy.

Nên Đại Thừa Luận nói: "Tất cả các pháp, do tất cả nhân duyên sanh nên phải có; tất cả các pháp, do tất cả nhân duyên sanh nên chẳng phải có. Tất cả các pháp "không", do tất cả nhân duyên sanh nên phải có, tất cả các pháp "có" do tất cả nhân duyên sanh nên chẳng phải có". Cứu xét lời "có" và "không" nơi đây, đâu phải là lời Luận phản nghịch nhau mà thôi đâu!

Nếu "phải có" tức là có, chớ nên nói "không"; nếu " phải không" tức là không, chớ nên nói có. Nói có chỉ là giả có, để tỏ "phi vô", mượn chữ "vô" để biện biệt "phi hữu". Ở đây, việc tuy một mà gọi thành hai, xem văn hình như chẳng đồng, nếu lãnh hội được chỗ đồng thì không có sự khác biệt nào mà chẳng đồng vậy. Thế thì, vạn pháp quả thật có cái sở dĩ chẳng có, không được cho là "có"; có cái sở dĩ chẳng không, chẳng được cho là "không".

Tại sao? Muốn nói nó có thì cái "có" ấy chẳng phải thật sanh; muốn nói nó không thì sự tướng đã hình thành, có hình tướng thì chẳng phải thật không, cả hai đều chẳng chân thật, thế thì nghĩa "Bất Chân Không" hiển bày ở đây rồi. Nên Kinh Phóng Quang nói: "Các pháp giả danh chẳng thật, ví như người huyễn hóa, chẳng phải không có người huyễn hóa, người huyễn hóa chẳng phải người thật vậy". Về việc lấy tên để tìm vật thì vật chẳng có chỗ thật để gán tên, lấy vật để tìm tên, thì tên ấy chẳng có công dụng để đắc được vật. Vật chẳng có chỗ thật để gán tên thì chẳng phải vật; tên không có công dụng để đắc vật thì chẳng phải tên, cho nên tên chẳng đúng thật, thật chẳng đúng tên. Tên và thật đều chẳng đúng thì vạn vật ở đâu?

Nên Trung Quán Luận nói: "Vật không bỉ thử mà người này (thử) lấy thử làm thử, lấy bỉ làm bỉ, người kia (bỉ) thì lấy thử làm bỉ, lấy bỉ làm thử. Bỉ, thử chẳng định vào một tên mà kẻ mê hoặc ôm lấy cái thành kiến nhất định. Cũng như hai người đông, tây đối lập, cùng xem một vật ỡ giữa, người bên đông cho vật ở hướng tây, người bên tây thì cho vật ở hướng đông; sự thật vật chẳng có đông tây, vì kẻ mê có thành kiến chấp sự nhất định. Cho nên bỉ, thử vốn chẳng có, kẻ mê vốn chẳng không.

Đã ngộ bỉ thử là chẳng có thì đâu có vật gì có thể chấp thật! Nên biết "vạn vật chẳng chân, giả danh đã lâu rồi". Cho nên Kinh Thành Cụ nói: "Các pháp chẳng có thật mà cưỡng lập danh để gọi".

Tề Vật Luận của Trang Tử nói :

Lấy "ngón tay" dụ cho ngón tay chẳng phải ngón tay, không bằng lấy "phi ngón tay" dụ cho ngón tay chẳng phải ngón tay; lấy "ngựa" dụ cho ngựa chẳng phải ngựa, không bằng lấy "phi ngựa" dụ cho ngựa chẳng phải ngựa. Trời đất là một ngón tay, vạn vật là một con ngựa.

Ý Luận nói rằng : vạn vật chẳng tề (không bằng nhau) bởi do mọi người kiến chấp thị phi. Ngón tay và ngựa vốn không có thị phi, mà người vọng chấp nhất định cho là có bỉ thử, đâu chẳng phải là mê hoặc ư? Việc trên để thí dụ thật tướng của các pháp đâu có tự, có tha, mà người mê chấp lầm có lầm không, là cũng như vậy. Nếu được ý quên lời, khế lý, thì sự tình chấp bỉ-thử đều quên sạch, lời thị-phi cũng tiêu luôn cả, thì đâu còn có pháp nào để dính dáng đến tình cảm. Như thế thì lời thâm sâu của kinh Luận ở nơi nào mà chẳng có!

Cho nên bậc thánh độ chúng sanh, thiên bá ức hóa thân mà chẳng biến đổi; vào thế giới ác trược, sống chung với chúng sanh mà chẳng bị phiền não chướng ngại là vì vạn vật ngay đó tự không, chẳng cần nhờ sự "không" để không giùm cho vật.

Nên Kinh nói : "Lạ quá Thế Tôn! Ngay chỗ bất động chân tâm mà kiến lập vạn pháp, chẳng phải lìa chân tâm mà có chỗ để kiến lập, ngay chỗ kiến lập tức là chân tâm vậy".

Như thế, đạo có xa xôi đâu! Sự tiếp xúc nào cũng là chân đạo. Thánh có xa xôi đâu! Thể hội ngay việc trước mắt tức là bậc Thánh vậy!

Xem mục lục