Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

Chúng ta thường nghe về Bất Nhị, tức là Không Hai. Tuy nhiên, nên cẩn trọng, vì hai chữ này mang nhiều nghĩa, tùy người sử dụng.

Trong các đạo Cơ Đốc, thường dùng chữ Hiệp Nhất, nghĩa là khi kẻ thụ tạo hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. Trong Ấn Độ Giáo cũng tương tự, dùng chữ Bất Nhị là khi Tiểu Ngã hòa vào Đại Ngã. Do Thái Giáo cũng có khái niệm Bất Nhị.

Trong nhà Phật, hoàn toàn không có khái niệm hiệp nhất gì hết, vì tất cả pháp đều vô ngã, vì thực tướng là vô ngã, cho nên nói là bất nhị, nhưng không phải là bất nhị, cũng không phải là phi-bất-nhị. Chỉ muốn nói rằng hễ nó như thế, là nó như thế. Gọi là Như Thị, hay gọi tắt là Như cũng được. Không gọi là một, cũng không gọi là nhiều. Y hệt như Gương Tâm Rỗng Rang Chiếu Sáng, không phải một, không phải nhiều…

Đức Phật giải thích về Bất Nhị trong Kinh SN 12.15 -- Kaccayanagotta Sutta. Có thể tóm lược thế này: Tỳ Kheo Kaccanagotta hỏi thế nào là chánh kiến, Đức Phật nói rằng thế giới được nhìn như là nhị nguyên, đó là Hữu (Có) và Vô (Không). Người có mắt tuệ thấy tập khởi thế giới, sẽ biết thế giới không phải là không hiện hữu (nonexistence), khi thấy tịch diệt thế giới, sẽ biết thế giới không phải là có (existence).

Đức Phật nói, "Do vậy, Kaccana, nói 'Tất cả hiện hữu' là một cực đoan. Nói 'Tất cả không hiện hữu' là cực đoan thứ nhì." (“‘All exists’: Kaccana, this is one extreme. ‘All does not exist’: this is the second extreme.) (6)

Thiền Tông Việt Nam có bài kệ của Thiền sư Tông Diễn (1640-1711), trích: “Hữu vô câu bất lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên cao).

Như thế, Thiền Việt Nam đã dạy pháp Bất Nhị một cách tuyệt vời.

Trong nhóm Kinh Tiểu Bộ, Kinh Snp 3.6, kể rằng du sĩ Sabhiya hỏi Đức Phật rằng thành tựu gì thì được gọi là “bhikkhu” (nhà sư), Đức Phật trả lời bằng pháp Bất Nhị, qua bản dịch của Sư Sujato:

By the path they walked themselves,
Nirvāa is realized and doubt is left behind;
Existence and non-existence have been abandoned,
Complete, having ended rebirth: they are a “bhikkhu”.(6)

Dịch:

Bằng con đường [đạo] họ bước đi trên đó
Niết Bàn được chứng nhập, và nghi ngờ được bỏ lại phía sau
Hữu và Vô đã được buông bỏ
Hoàn toàn, kết thúc hẳn tái sinh: họ là một nhà sư..

Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308), người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, có bài thơ nhan đề “Hữu cú, vô cú” gồm 9 đoạn thơ, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 4 chữ. Và bắt đầu mỗi đoạn thơ là câu “Hữu cú vô cú”…

Đó là Bất Nhị, là Không Hai, là Sắc Không Bất Dị (Bát Nhã Tâm Kinh), là Trung Luận của Long Thọ, là lời Đức Phật dạy phải buông bỏ cả hai như kinh vừa dẫn, và sẽ kết thúc hẳn tái sinh.

Cũng có thể gọi là Một cũng được (nhà khoa học Albert Einstein ưa nói rằng vũ trụ thế giới này chỉ là Một). Trong nhóm Kinh Tương Ưng, bản Kinh SN 1.62 ghi lời Đức Phật dạy, qua bản dịch của Bhikkhu Bodhi, toàn văn kinh này rất ngắn, chỉ 8 câu, như sau:

Mind

“By what is the world led around?
By what is it dragged here and there?
What is the one thing that has
All under its control?”.

The world is led around by mind;
By mind it’s dragged here and there.
Mind is the one thing that has
All under its control.” (6)

Có thể dịch như sau: “Bởi cái gì, thế giới này bị xoay chuyển? Bởi cái gì, thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia? Cái gì là một pháp mà kiểm soát hết Tất Cả? Thế giới bị xoay chuyển bởi tâm. Thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia bởi tâm. Tâm là một pháp mà Tất Cả đều dưới sự kiểm soát của nó.”

Nghĩa là, như Kinh Lăng Nghiêm nói: Toàn tướng tức tánh, toàn tánh tức tướng.

Thiền Tông giải thích tất cả pháp đều là Không. Có khi nói toàn sóng là nước, toàn ảnh là gương.

Tuyệt vời. Hiển nhiên, đây là ngôn ngữ Thiền Tông. Thử suy đoán: Nghi vấn rằng, sự thật Đức Phật đã cầm lên bông hoa và truyền pháp “bất lập văn tự” cho ngài Ca Diếp, nhưng rồi sự kiện này vì không dùng ngôn ngữ nên không ai biết cách đọc tụng để nhớ… và rồi bị lãng quên?.

Nơi này nên nhắc tới Thiền Sư Đạo Hạnh (? - 1115) ghi trong sách Thiền Sư Việt Nam của Hoà Thượng Thích Thanh Từ cũng nói y hệt Kinh SN 1.62.

Trích như sau:

“...tìm đến pháp hội của Thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân. Đến đây, Sư cũng lặp lại câu hỏi:

- Thế nào là chân tâm?

Sùng Phạm đáp: - Cái gì chẳng phải chân tâm?

Sư hoát nhiên nhận được. Lại hỏi: - Làm sao gìn giữ? (Ghi chú của NG: “gìn giữ”nghĩa là “bảo nhậm.”)

Sùng Phạm bảo: - Đói ăn, khát uống.

Sư liền lễ bái rồi lui.

Sau, Sư trụ trì chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích, (Chùa Thiên Phúc cũng gọi là chùa Thầy ở núi Phật Tích, nay là núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây… tăng chúng tìm đến tham vấn. Có vị tăng hỏi:

- Đi đứng nằm ngồi thảy đều Phật tâm, thế nào là Phật tâm?

Sư nói kệ đáp:

 Có thì muôn sự có,

 Không thì tất cả không.

 Có, không trăng đáy nước,

 Đừng mắc có cùng không.”(6).

Bởi xa lìa cả Hữu và Vô như thế, thái độ người tu tất nhiên là NHƯ THỊ.

Kinh Bahiya ghi lời Đức Phật dạy ngài Bahiya là:

Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri. Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (6)

Lời dạy hãy nhìn các pháp Như Thị là Như Thị còn viết theo chi tiết khác trong Kinh AN 4.24. Trong kinh này, Đức Phật tự gọi là Như Lai. Chữ “Như Lai” trong kinh này, Bhikkhu Bodhi ghi là “the Stable One” trong khi Thanissaro Bhikkhu ghi là “Tathagata.”

Kinh AN 4.24 còn gọi là Kinh Kalaka Sutta, dựa vào bản Thanissaro Bhikkhu, sẽ tóm tắt như sau: Này các sư, khi thấy cái được nhìn thấy, Như Lai không diễn giải  suy lường một vật như cái được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường cái không được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường một vật như cái sẽ được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường có ai đang thấy… Tương tự với nghe… với thức tri… Các sư, do vậy, Như Lai – hệt như thế với tất cả hiện tượng có thể được thấy nghe hay biết – là Như Thị, là Như Thế. Và ta nói với các sư rằng, không có pháp NHƯ nào khác cao hơn hay vi diệu hơn… Bất cứ những gì được thấy nghe hay biết và được người khác gọi là sự thật, một bậc giữ tâm Như Thị -- giữa những người tự phiền não – sẽ không bận tâm bàn thêm gì về đúng hay sai.

(Thus, monks, the Tathagata, when seeing what is to be seen, doesn't construe an [object as] seen. He doesn't construe an unseen. He doesn't construe an [object] to-be-seen. He doesn't construe a seer…When hearing... Thus, monks, the Tathagata — being the same with regard to all phenomena that can be seen, heard, sensed, & cognized — is 'Such.' And I tell you: There's no other 'Such' higher or more sublime… Whatever is seen or heard or sensed and fastened onto as true by others, One who is Such — among the self-fettered — wouldn't further claim to be true or even false.) (6).

Trong Kinh SN 12.23, cũng dạy pháp BIẾT NHƯ THỊ & THẤY NHƯ THỊ. Kinh này có nhiều bản Anh dịch. Riêng Ngài Bhikkhu Bodhi có 2 bản Anh dịch, một bản năm 1995 và một bản năm 2000 (bản năm 2000 vừa để ở mạng SuttaCentral, vừa in trên sách giấy, “The Connected Discourses of the Buddha,” trang 553-556). Trong đó, một khác biệt ở 2 bản này là, chữ "duyên để phá hủy phiền não". Cả 2 bản sẽ có links ở ghi chú (6).

Bản 1995 của ngài Bodhi viết: ...with respect to destruction has a supporting condition... (duyên hỗ trợ phá hủy).

Bản 2000 của ngài Bodhi viết: ...in regard to destruction has a proximate cause... (duyên trực tiếp, duyên tức khắc phá hủy).

Thế nào là tức khắc, là trực tiếp phá hủy phiền não? Đức Phật nói tới 15 pháp Như Thị. Có thể gọi là Năm Pháp Như Thị (Sắc như thị, Thọ như thị, Tưởng như thị, Hành như thị, Thức như thị). Cũng có thể gọi là Mười Pháp Như Thị (Thấy sắc khởi như thị, thấy sắc diệt như thị… tương tự với thọ, tưởng, hành, thức). Nếu cộng lại, là 15. Nhưng Thập Như Thị của Kinh 12.23 khác với Thập Như Thị của Kinh Pháp Hoa, nhưng cả hai kinh đều là tuyệt vời. Tức khắc, có nghĩa là không trải qua thời gian.

Kinh SN 12.23 viết: “Như thị sắc, như thị sắc khởi, như thị sắc diệt; như thị thọ… như thị tưởng… như thị hành… như thị thức, như thị thức khởi, như thị thức diệt: với người biết như thế, với người thấy như thế, phiền não sẽ tận diệt.”

Trong khi đó, Thiền Tông Việt Nam cũng tuyệt vời với bài kệ của Ngài Thích Phước Hậu (1862 – 1949) ở tỉnh Thái Bình, như sau:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.

Trước mắt, bên tai là các pháp hữu vi, đang tập khởi và biến diệt, đang chảy xiết. Nhưng ngay khi chúng ta thấy “như thế là như thế” và thoát khỏi các tâm suy diễn tư lường, lập tức cõi hữu vi trở thành vô vi, tức Niết Bàn. Và ngôn ngữ vắng bặt. Đó là quan điểm Thiền Tông.

Ai dám nói Thiền Việt Nam không phải nguyên gốc. Với chữ Như, đó là tận cội nguồn. Và với pháp này, không cần niệm gì nữa hết. Vì đó cũng là VÔ NIỆM. Tu theo pháp Như Thị, nhìn các pháp thường trực ngày đêm như thế, sẽ một cách tự nhiên, không cần ngồi thiền, sẽ vẫn có định huệ đầy đủ. Nhưng, thường là huệ tới trước; trường hợp này, Kinh gọi là Tuệ Giải Thoát đối với những vị A La Hán chưa đắc định, và cũng không có thần thông..

Về quý ngài A La Hán, Đức Phật phân loại, trong Kinh SN 8.7, bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu có đoạn vấn đáp:

"—Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói, vậy bạch Thế Tôn, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về thân hay về lời nói?

—Này Sāriputta, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời nói. Này Sāriputta, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ—kheo là bậc chứng được sáu Thắng trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu giải thoát, và các vị còn lại là bậc Tuệ giải thoát." (6)

Chữ “Câu giải thoát” là giải thoát bằng định và cùng lúc giải thoát bằng huệ. Còn Tuệ giải thoát là chỉ duy đắc Huệ..

Tương tự, trong Kinh SN 12.70, tôn giả Susima thắc mắc khi chứng kiến nhiều vị tăng tới trước Đức Phật, thưa rằng "Chúng con biết rõ rằng: 'Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa'” nhưng khi hỏi trực tiếp, quý ngài A La Hán này trả lời tôn giả Susima rằng quý ngài chưa hề có thần thông, không hề nhớ đời quá khứ hay thấy tương lai, chưa hề đắc định nào... nhưng biết chắc rằng đã có Tuệ Giải Thoát. Ngài Susima mới nêu thắc mắc với Đức Phật, và được trả lời rằng đúng như thế, là có các A La Hán Tuệ giải thoát, không thần thông và chưa đắc định. (6)

Xem mục lục