"Chính ta làm cho ta ô nhiễm,Trách nhiệm tinh thần
Chính ta làm cho ta trong sạch." -- Kinh Pháp Cú
Có phải chính người hành động (tạo nghiệp) gặt quả trong kiếp tương lai? [1]
 Nói một cách tuyệt đối rằng chính người gieo nhân         sẽ gặt quả là một cực đoan, mà nói rằng người gieo nhân         và người gặt quả là hai người hoàn toàn khác biệt là rơi         vào một cực đoan khác. Tránh hai cực đoan trên, Đức         Phật truyền dạy một Giáo Pháp "Trung Đạo" căn         cứ trên lý Nhân Quả: "Không tuyệt đối là một người, cũng không phải là         hai người hoàn toàn khác biệt" (Naca so, naca anno), Đại          đức Budhhaghosa viết như vậy trong sách Thanh Tịnh Đạo         (Visuddhi Magga). Sự biến thể của loài tằm có thể là         một thí dụ. Khởi đầu là một cái trứng. Trứng nở ra         tằm. Tằm thành nhộng, nhộng thành bướm và bướm đẻ          trứng. Trong trường hợp nầy, sự biến thể diễn tiến trong         một kiếp sống. Và trong một kiếp sống, bướm không         tuyệt đối giống tằm, mà cũng không hoàn toàn khác. Chỉ          có một luồng sống, một diễn tiến của đời sống, hay         một sự liên tục. Để giải thích điểm nầy, Đại đức Nagasena dùng thí         dụ ngọn đèn dầu thấp trong đêm tối. Ánh sáng của         ngọn đèn lúc đầu không tuyệt đối giống hệt ánh sang         của nó lúc về khuya. Tuy nhiên, ánh sáng lúc đầu hôm và lúc         khuya vẫn tùy thuộc nơi cây đèn. Trường hợp nầy cũng         vậy, trong ánh sáng có một sự liên tục. Mỗi giai đoạn         trong sự liên tục ấy tùy thuộc nơi giai đoạn trước kế         đó. -- Nếu không có một linh hồn trường         cửu, có thể có trách nhiệm tinh thần không? Có thể có, bởi vì có sự liên tục, hay nói cách khác,         có sự giống nhau trong tiến trình biến đổi. Một em bé trở nên một người trưởng thành. Người kia         không hoàn toàn là em bé, bởi vì các tế bào trong thân         thể người ấy đã hoàn toàn đổi mới, tuy nhiên người         kia và em bé cũng không phải tuyệt đối là hai người,         bởi vì cả hai chỉ là hai giai đoạn khác nhau trong tiến trình         của một đời sống. Mặc dầu vậy, cá nhân người kia         phải chịu trách nhiệm về tất cả những hành động của         em bé. Dầu tiến trình của đời sống chấm dứt ở một nơi         và biểu hiện lại ở một nơi khác, hay tiến trình ấy         diễn tiếp trong một kiếp sống, yếu tố chánh vẫn là         sự liên tục. Thí dụ như người kia là ông A trong kiếp         sống trước và ông B trong kiếp nầy. Với cái chết của         ông A, hiện tượng vật chất và tinh thần do đó nghiệp         lực biểu hiện đã tiêu tan. Với cái sanh của ông B một môi         vật mới xuất khởi. Hình thể bề ngoài tuy có biến đổi,         nhưng luồng tâm trôi chảy liên tục (citta santati), không         bị cái chết làm gián đoạn, vẫn tiếp tục diễn tiến, và         mang theo tất cả cảm giác do ngũ quan đã thâu nhận. Một cách mặc ước, ta tự hỏi phải chăng ông B bị          bắt buộc phải chịu trách nhiệm về hành vi của ông A ở          kiếp trước? Vài người cũng có thể phản đối, cho rằng ông B không         nhớ gì về hành động của ông A hết, sao lại phải chịu         trách nhiệm củavề hành vi của ông A? Tuy nhiên, trạng thái giống hệt nhau cũng như trí nhớ có         phải là yếu tố chánh yếu trong vấn đề trách nhiệm tinh         thần không? Thí dụ như người kia cố ý giết chết một         người và sau đó mất trí, không còn nhớ gì đến chuyện          ấy hết. Người ấy có chịu trách nhiệm về hành động sát         nhân hay không? Sự mất trí nhớ không giúp cho người kia tránh         khỏi trách nhiệm của hành động cố ý sát nhân. Ta lại         hỏi: "Hình phạt một người đã mất trí nhớ thì có         ích gì? Người ấy không còn nhớ rằng mình chịu hình         phạt nầy vì đã phạm tội kia. Vậy đâu là công lý?" Người Phật tử tin tưởng nơi lý nhân quả, công bình và         hợp lý, báo ứng một cách tự nhiên, khách quan, tự động.         Lý nhân quả căn cứ trên Nhân và Quả. Ta không thể coi đó         là một hình thức thưởng hay phạt. Nếu người kia làm         một chuyện gì trong lúc ngủ, chẳng hạn như trong lúc đang         ngủ mà đứng dậy đi ra ngoài hành lang, rồi đi trên lan         can. Tức nhiên là ông ta sẽ té xuống đường và trong         những trường hợp tương tợ, có thể gãy tay hay gãy chân.         Khi nằm trên giường bệnh, ông không còn nhớ gì đến sự         đi trên lan can, vừa đi vừa ngủ, nhưng dĩ nhiên, ông phải         biết hậu quả của việc làm ấy. Sự kiện ông không còn nhớ gì đến hành động trước         không thay đổi một tí nào hậu quả của hành động ấy.         Cánh tay gãy, hay một cái chân què, làm cho ông đau đớn vô         cùng. Vì lẽ ấy người Phật tử cố gắng không đi trên         lan can hay một nơi nguy hiểm nào khác, trong lúc ngủ hay lúc         thức, để tránh việc làm tổn thương cho chính mình hay gây         thương tích cho người khác ở dưới đất nếu ta té vào         người. Sự quên mất dĩ vãng của mình không gây trở ngại nào         cho sự nhận định khôn ngoan về lối báo ứng của định         luật Nghiệp Báo. Chính nhờ sự hiểu biết lý nhân quả,          đã gieo nhân thì phải gặt quả, lúc nào cũng trong vòng luân         hồi, mà người Phật tử cố gắng tu dưỡng tâm tánh mình.
Chú thích:
[1] Xem "The Questions of Milinda", phần 1, trang 111; và Dr Dahike, "Budhism and Science", trang 64
