"Người thấm nhuần Giáo Pháp sống hạnh phúc           với tâm an lạc. Người trí tuệ luôn luôn hoan hỷ thỏa           thích trong Giáo Pháp mà các bậc thánh nhân đã khám phá".            -- Kinh Pháp Cú Giáo Pháp Là ThầyCung thỉnh Đức Phật         truyền bá Giáo Pháp
Sau ngày Thành Đạo, lúc còn ngự tại gốc cây Ajapala, trên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thiền), Đức Phật ngồi hành thiền, và ý nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài:
 "Quả thật là đau khổ và không có ai để lễ bái và         tỏ lòng tôn kính. Hay là ta hãy tìm đến một vị sa môn         hay bà la môn nào để sùng bái!" Rồi Ngài suy niệm: "Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà         la môn để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao giới đức         (silakkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian         này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay         Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn,         Trời và người, có giới đức cao thượng hơn ta để thân         cận, tôn kính và sùng bái. "Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà         la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trạng thái          định tâm (samadhikkhanda) đến chỗ toàn thiện chăng? Nhưng         trên thế gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên,         Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn,         bà la môn, Trời và người, có giới đức cao thượng hơn         ta để thân cận, tôn kính và sùng bái. "Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà         la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trí tuệ          (pannakkahanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế          gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương         hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn,         Trời và người, có trí tuệ cao thượng hơn ta để thân         cận, tôn kính và sùng bái. "Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà         la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu đem sự giải thoát         (vimuttikkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế          gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương         hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn,         Trời và người, có sự giải thoát cao thượng hơn ta để          thân cận, tôn kính và sùng bái." Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài: "Hay là Ta hãy tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp mà         ta đã chứng ngộ?" Lúc ấy Vị Phạm Thiên Sahampati hiểu được ý Phật nên         từ cảnh giới Phạm Thiên, dễ dàng như một người khoẻ          mạnh duỗi cánh tay thẳng ra, hay co tay vào, xuất hiện trước         mặt Đức Phật. Và, đắp y ngoại lên vai mặt, để trống         vai trái [1] quỳ xuống chắp tay đảnh lễ Đức Phật và         bạch: "Quả thật vậy, Bạch Đức Thế Tôn, quả như vậy,         Bạch Đức Như Lai, Bạch Ngài, những bậc Ứng Cúng, những         bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đều tôn kính và         sùng bái chính Giáo Pháp này. "Những bậc Ứng Cúng, những bậc Chánh Đẳng Chánh         Giác trong tương lai sẽ tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp         này. "Bạch Đức Thế Tôn, cầu xin Ngài là bậc Ứng Cúng,         bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong thời hiện đại, cũng tôn         kính và sùng bái Giáo Pháp ấy!" Phạm Thiên Sahampati bạch với Đức Phật như vậy và thêm         rằng: "Những bậc Chánh Biến Tri trong quá khứ, vị lai và         hiện tại, những vị đã giúp cho nhiều vị được thoát         khổ - tất cả những vị ấy đã, sẽ, và đang tôn kính Giáo         Pháp cao Thượng. Đó là đặc tánh của chư Phật. "Vậy, ai muốn tìm trạng thái an lành cho mình và mong         chờ sự trưởng thành của mình, chắc chắn phải tôn kính         Giáo Pháp Cao Quý và ghi nhớ nằm lòng bức thông điệp         của chư Phật". Phạm Thiên Sahampati bạch như vậy và cung kính đảnh lễ         Đức Phật, đi vòng quanh Ngài từ trái sang mặt và biến         mất. Vì chư Tăng cũng có những đặc tánh vĩ đại cao thượng,         nên cũng xứng đáng thọ lãnh sự tôn kính của Đức Phật         [2]. Cung Thỉnh Truyền Bá Giáo Pháp Ngài đi từ gốc cây Rajayatana đến gốc cây Ajapala. Lúc         ngồi trầm tư, những tư tưởng sau đây phát sanh: "Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm         sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng         lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị,          chỉ còn bậc thiện trí mới thấu hiểu. Chúng sanh còn         luyến ái trong nhục dục ngũ trần. Lý nhân quả tương quan         "Tùy Thuộc Phát Sanh", là một đề mục rất khó lãnh         hội, và Niết Bàn -- trạng thái chấm dứt mọi hiện tượng         phát sanh có điều kiện, từ bỏ mọi khát vọng, tiêu         diệt mọi tham ái, không luyến ái và chấm dứt -- cũng là         một vấn đề không phải dễ lãnh hội. Nếu Như Lai         truyền dạy Giáo Pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu          được. Thật là phí công vô ích, thật là phí công vô ích." Rồi những câu kỳ diệu sau đây, chưa từng được nghe         trước kia, phát sanh đến Đức Phật: "Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được         "Giáo Pháp". Không cần phải phổ biến "Giáo Pháp"         ngay lúc này. Người còn mang nặng tham ái và sân hận không         dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm         tối, không thấy được Giáo Pháp, vì lòng tham ái bao phủ          như đám mây mờ đen nghịt, vì Giáo Pháp đi ngược dòng         với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức         và rất tế nhị". Nghĩ như vậy, Đức Phật chưa quyết định truyền bá Giáo         Pháp. Lúc ấy vị Phạm Thiên Sahampati sợ Ngài không truyền         bá Giáo Pháp và vì không được nghe Pháp thế gian phải         diệt vong, nên đến cung thỉnh Đức Phật như sau: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, cầu xin Đức Thế Tôn         truyền dạy Giáo Pháp! Cầu xin Đấng Trọn Lành truyền bá         Giáo Pháp! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng         trong mắt, nếu không nghe được Giáo Pháp sẽ phải trầm         luân sa đọa. Nhưng cũng có người sẽ chứng ngộ chân lý". Sau đó vị Phạm Thiên lưu ý Đức Phật: "Thuở xưa tại Magadha (Ma Kiệt Đà) có phát nguyên         một Giáo Pháp không tinh thuần, do người trần tục suy tìm         ra. Cầu xin Đức Thế Tôn hoan hỷ rộng mở cửa Vô Sanh         Bất Diệt. "Xin Đức Thế Tôn cho phép mọi người được nghe Giáo         Pháp mà bậc Vô Nhiễm, đấng Tuyệt Đối Thanh Tịnh đã         chứng ngộ. Cũng như người đứng trên ngọn núi đá cao nhìn         xuống, thấy rõ ràng từng người ở vòng quanh phía dưới,         bậc Toàn Giác, bậc Thiện Trí, đứng trên đỉnh tối cao         của lâu đài Pháp Bảo huy hoàng! Kính xin đấng Toàn Tri hãy         nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ và         triền miên lăn trôi trong vòng sanh tử luân hồi! "Xin cung thỉnh Ngài là bậc Anh Hùng, là người         Chiến Thắng, là Đấng Vô Thiện Điều Ngự Trượng Phu, Người          đã Tháo Gỡ mọi trói buộc. Xin Ngài hoan hỷ đứng lên và         châu du khắp thế gian! Xin Đức Thế Tôn truyền bá Giáo Pháp!         Sẽ có người lãnh hội được!" Đức Phật trả lời: "Này hỡi Phạm Thiên, Như Lai thầm nghĩ: Người còn         vấn vương trong tham ái và sân hận không dễ gì lãnh hội          được Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Người tham ái         chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ,          sẽ không thấy được Giáo Pháp bởi Giáo Pháp đi ngược dòng         với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức         và tế nhị. Vì suy gẫm như thế Như Lai chưa quyết định         truyền bá Giáo Pháp". Vị Phạm Thiên cung thỉnh Đức Phật lần thứ nhì. Đức         Phật trả lời như trước. Khi vị Phạm Thiên cung thỉnh lần thứ ba, Đức Thế Tôn         dùng thiên nhãn quan sát thế gian. Ngài nhận thấy rằng chúng sanh kẻ ít người nhiều đều         có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu         muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia         xấu, có chúng sanh dễ dạy cũng có chúng sanh khó dạy, và         một số ít khác, với lòng biết lo sợ, nhận thấy mối         hiểm họa của một kiếp sống tương lai. Cũng như trong đầm sen. Sen xanh, đỏ, trắng lẫn lộn. Có         những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước,         sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có         những cây sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló         dạng trên mặt nước. Có những cây khác sanh trong nước,         trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi mặt nước, không         vướng chút bùn nhơ. Đức Phật tuyên bố: "Cửa Vô Sanh Bất Diệt đã rộng mở cho chúng sanh. Hãy          để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng. Vì         biết có sự mệt mỏi dã dượi trong thế gian nên trước         kia Như Lai phân vân, chưa quyết định truyền dạy Giáo Pháp         vinh quang và hoàn hảo". Phạm Thiên Sahampati lấy làm hoan hỷ, vui mừng rằng đã          được cơ hội thỉnh cầu Đức Thế Tôn hoằng dương Giáo         Pháp, tôn kính đảnh lễ Ngài, rồi đi một vòng quanh từ          trái sang phải, chỗ Đức Phật ngồi, rồi bái từ lui gót. Hai Thiện Tín Đầu Tiên Sau bốn mươi chín ngày không ăn uống, lúc Đức Phật         ngồi dưới cội cây Rajayatana, có hai thương gia tên Tapassu         và Bhallika từ Ukkala (Orissa), trên đường về quê nhà, đi         ngang qua chỗ Đức Phật ngự. Khi đến gần nơi ấy hai vị          lái buôn được một vị Trời [3], vốn là bà con họ hàng         trong một tiền kiếp, mách bảo như thế này: "Này hai ông, Đức Thế Tôn vừa chứng đắc Đạo         Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ngự dưới cội Rajayatana         phiá trước kia. Hai ông hãy nhanh chân đến đó dâng lên Ngài         bột khô và mật [4]. Phước báu này sẽ đem lại cho hai ông         an vui và hạnh phúc lâu dài." Hai vị thương gia vui mừng, tiếp nhận lấy cơ hội vàng         ngọc, sửa soạn bột và mật ong xong đến gần Đức         Phật, cung kính đảnh lễ và thỉnh cầu Ngài chấp nhận         hai lễ vật khiêm tốn ấy để hai người được an vui. Đức Phật nghĩ: "Các Đấng Như Lai không khi nào đưa tay thọ nhận         vật thực. Không có bát, làm thế nào Như Lai có thể nhận         lãnh hai lễ vật này?" Lúc ấy bốn vị Đại Thiên Vương [5] đoán biết ý nghĩ          của Đức Phật, từ bốn phương vội vã đem đến dâng lên         mỗi vị một cái bát bằng đá [6] và bạch rằng: "Bạch hoá Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ chấp         nhận bốn cái bát này và thọ thực trong ấy". Đức Phật ân cần dùng bát thọ lãnh món vật thực đạm         bạc được dâng đúng lúc ấy, sau thời gian nhịn ăn lâu         ngày. Sau khi Đức Phật độ thực xong, hai thương gia quỳ          xuống dưới chân Ngài và bạch rằng: "Bạch hoá Đức Thế Tôn, chúng con xin quy y Phật, quy         y Pháp. Xin Ngài thâu nhận chung con làm thiện tin kể từ nay          đến ngày cuối cùng của đời chúng con" [7]. Đó là hai thiện tín đầu tiên quy y Nhị Bảo [8]. Trên Đường Đến Banares Khi chấp nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên Sahampati,         tư tưởng đầu tiên của Đức Phật trước khi bước lên         con đường truyền giáo vĩ đại là: "Ai là người đầu tiên sẽ thọ hưởng Giáo Pháp?         Ai là người sẽ lãnh hội mau chóng Giáo Pháp? "Có Alara Kalama [9] là người có học thức, thông         minh, là bậc thiện trí, và đã lâu rồi không còn bao nhiêu         bụi cát trong mắt. Hay là Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho         vị đạo sĩ này trước nhất. Đạo Sĩ này sẽ lãnh hội         mau lẹ Giáo Pháp". Một vị Trời hiện ra trước Đức Phật, đảnh lễ Ngài         và bạch rằng: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Đạo Sĩ Alara         Kalama đã từ trần một tuần nay." Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận điều này. Ngài nghĩ         đến Uddaka Ramaputta [10]. Vị Trời lại xuất hiện và bạch         rằng Đạo Sĩ Uddaka Ramaputta cũng đã viên tịch đêm hôm trước.         Một lần nữa Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận. Sau cùng Đức Phật nghĩ đến năm vị Đạo Sĩ tinh tấn          đã phục vụ Ngài trong lúc tranh đấu để tìm chân lý.         Với nhãn quan siêu phàm, Ngài nhận thấy năm vị này đang          ở vườn Lộc Giả, tại Isipatana, xứ Benares. Ngài lưu lại         Uruvela, chờ lúc thấy thuận lợi sẽ lên đường sang         Benares. Trên đoạn đường đi từ Gaya đến cội Bồ Đề đã         che mưa đỡ nắng cho Ngài trong những ngày sau cùng, trước         khi thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, một Đạo Sĩ tên         Upaka gặp Đức Phật liền hỏi: "Này hỡi Đạo Hữu! Ngũ quan của Đạo Hữu thật vô         cùng sáng tỏ. Nước da của Đạo Hữu thật trong trẻo và         tươi tắn. Hỡi này Đạo Hữu, vì sao Đạo Hữu từ bỏ đời         sống gia đình? Thầy của Đạo Hữu là ai? Đạo Hữu         truyền bá giáo lý của ai?" Đức Phật trả lời: "Như Lai đã vượt qua tất cả. Như lai đã thông         suốt tất cả. Upaka hỏi vặn: "Này Đạo Hữu, vậy phải chăng Đạo Hữu đã tự          nhận là A La Hán, bậc siêu hùng, quyền lực vô biên?" Đức Phật trả lời: "Tất cả những bậc siêu hùng đã chinh phục mọi ô         nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã chinh phục,         tận diệt tất cả những gì bất thiện, xấu xa tội lỗi.         Vậy, này Đạo Sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng". Nghe xong, Đạo Sĩ Upaka lễ phép nói: "Có thể được vậy chăng, đạo hữu?" Và cúi đầu, quay lưng rẽ sang con đường nhỏ bên         cạnh, đi luôn. Đức Phật hoàn toàn thản nhiên. Trở ngại đầu tiên trên          đường hoằng Pháp không làm Ngài nản chí. Ngài tiếp tục         lần bước từ nơi này đến nơi khác, và một ngày kia đến         vườn Lộc Giả, xứ Benares. Gặp Lại Năm Đạo Sĩ Thấy Đức Phật từ xa đến, năm vị Đạo Sĩ, anh em         Kondanna (Kiều Trần Như), bàn thảo với nhau, quyết định         không đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Các vị         ấy hiểu lầm thái độ của Bồ Tát khi, trong cuộc chiến          đấu để thành đạt Đạo Quả, Ngài từ bỏ lối tu khổ          hạnh quá khắt khe và chứng tỏ là tuyệt đối vô ích: "Này các đạo hữu, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đang đi          đến ta. Đạo Sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố gắng và đã         trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo Sĩ ấy không          đáng cho ta niềm nở tiếp đón và cung kính phục vụ. Ta khác         nên rước bát và y. Nhưng dầu sao, cũng nên dọn một chỗ          ngồi để sẵn. Nếu vị đạo sĩ ấy muốn ngồi cứ          ngồi." Tuy nhiên, khi Đức Phật bước lần đến Ngài, vẻ oai         nghi cốt cách của Ngài tự nhiên cảm hoá năm đạo sĩ và,         không ai bảo ai, người đến rước y và bát, người dọn         chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa chân. Mặc         dầu vậy, năm đạo sĩ vẫn gọi Ngài là "avuso" (đạo         hữu), một hình thứ xưng hô thường dùng giữa những người         ngang nhau, hoặc để người bề trên xưng hô với kẻ dưới. Đức Phật mở lời khuyên dạy: "Này các Đạo Sĩ, không nên gọi Như Lai bằng tên         hay bằng danh từ "avuso" (đạo hữu). Như Lai là Đức         Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. nghe đây, các Đạo Sĩ, Như          Lai đã thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt (Amata) và         sẽ giảng dạy Giáo Pháp. Nếu hành đúng theo giáo huấn         của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ bằng trí         tuệ trực giác và sống cuộc sống thánh thiện cùng tột         ngay trong kiếp này. Nhằm mục tiêu cao thượng này, nhiều         người con trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ tài sản,         sự nghiệp và cuộc sống tại gia để trở thành người không         tiền của, không cửa nhà." Năm vị đạo sĩ liền trả lời: "Này Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm), trước kia với bao nhiêu         cố gắng để nghiêm trì giới luật mà Đạo Hữu không thành          đạt trí tuệ nào siêu phàm, cũng không chứng ngộ được         gì xứng đáng với chư Phật. Giờ đây, sống xa hoa và từ          bỏ mọi cố gắng, Đạo Hữu đã trở lại đời sống         lợi dưỡng, thì làm sao mà có thể thành đạt được trí         tuệ siêu phàm và chứng ngộ Đạo Quả ngang hàng với chư          Phật?" Đức Phật giải thích thêm: "Này các Đạo Sĩ, Như          Lai không hề xa hoa, không hề ngừng cố gắng và không quay         trở lại đời sống lợi dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn,         là Đấng Toàn Giác. Nghe đây các Đạo Sĩ! Như Lai đã thành          đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy Giáo         Pháp. Nếu hành đúng theo giáo huấn của Như Lai, các thầy         cũng sẽ sớm chứng ngộ, bằng trí tuệ trực giác và         sống cuộc đời thánh thiện cùng tột, ngay trong kiếp         sống này. Nhằm mục tiêu cao thượng này nhiều người con         trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ tài sản sự nghiệp         và cuộc sống tại gia để trở thành người không tiền         của, không cửa nhà". Lần thứ nhì năm đạo sĩ vẫn giữ nguyên thành kiến và         tỏ ý thất vọng. Đến lần thứ ba, sau khi Đức Phật         lặp lại lời xác nhận, năm đạo sĩ vẫn giữ vững lập         trường, tỏ ý hoài nghi. Đức Phật hỏi lại: "Này các Đạo Sĩ! Các thầy có biết một lần nào         trước đây Như Lai đã nói với các thầy như thế không?" - Quả thật không. Đức Phật lặp lại lần thứ ba rằng Ngài đã là Đấng         Toàn Giác và chính năm đạo sĩ cũng có thể chứng ngộ,          nếu hành đúng giáo huấn. Đó là những lời nói chân thật do chính Đức Phật         thốt ra. Năm vị đạo sĩ là bậc thiện trí, mặc dù đã có         thành kiến không tốt, khi nghe vậy nhận định chắc chắn         rằng Đức Phật đã thành tựu Đạo Quả Vô Thượng và có          đầy đủ khả năng để hướng dẫn mình. Năm thầy bấy         giờ tin lời Đức Phật và ngồi xuống, yên lặng lắng         nghe Giáo Pháp Cao Quý. Trong khi Đức Phật thuyết Pháp cho ba vị thì hai vị kia          đi trì bình, rồi tất cả sáu vị -- năm đạo sĩ và Đức         Phật -- cùng độ thực với những gì mà hai vị đem về.          Qua hôm sau, trong khi hai vị này nghe Pháp thì ba vị kia đi trì         bình. Tất cả năm vị đạo sĩ, vốn còn phải chịu sanh, lão,         bệnh, tử và ái dục, được Đức Phật khuyên nhắc và         giảng dạy, tất cả năm đều nhận thức thực tướng         của đời sống và nỗ lực gia công nhằm thoát ra khỏi vòng          đau khổ ấy để vượtn chỗ không sanh, không lão, không         bệnh, không tử, không phiền não, không ái dục, Thanh Bình         An Lạc cùng tột vô song, Niết Bàn, châu toàn tuyệt đối,         không còn sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ái dục. Trí         tuệ phát sanh, năm vị thấu hiểu rằng sự Giải Thoát         của các Ngài rất là vững chắc, không thể lay chuyển, và          đây là lần sanh cuối cùng. Các Ngài không bao giờ còn tái         sanh nữa. Kinh Chuyển Pháp Luân [12] đề cập đến Tứ Diệu Đế,          là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng cho năm vị. Khi         nghe xong Đức Kondanna (Kiều Trần Như), niên trưởng trong năm         vị, đắc Quả Tu Đà Huờn [13], tầng thánh đầu tiên trong         tứ thánh. Về sau bốn vị kia cũng chứng đắc tầng thánh          ấy. Đến khi nghe Đức Phật giảng kinh Anattalakhana Sutta         [14] (Kinh Vô Ngã Tướng), đề cập đến pháp Vô Ngã thì         tất cả năm vị đều đắc Quả A La Hán. Năm Đệ Tử Đầu Tiên Năm vị tỳ khưu minh mẫn vừa đắc Quả A La Hán cũng là         năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tên các vị         ấy là Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji. Kondanna (Kiều Trần Như) là vị trẻ tuổi nhất trong tám         vị bà la môn trước kia được Đức Vua Suddhodana (Tịnh         Phạn) thỉnh đến dự lễ quáng đính của thái tử sơ          sinh. Bốn người khác là con của bốn trong bảy vị bà la môn         lớn tuổi kia. Tất cả năm anh em đều cùng nhau vào rừng hành          đạo. Khi hay tin Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) rời bỏ          cung điện, cả năm cùng nhau đi tìm Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm)          để phục vụ. Nhưng đến khi Bồ Tát chấm dứt cuộc         sống khổ hạnh ép xác vô ích và bắt đầu độ thực để          bồi dưỡng lại sức khỏe đã hao mòn, thì cả năm vị         ấy lấy làm thất vọng, bỏ Ngài đi Isipatana. Sau đó không         bao lâu Bồ Tát đắc Quả Phật. Đức Kondanna (Kiều Trần Như) là vị đệ tử đầu tiên         của Đức Phật đắc Quả A La Hán và cũng là vị tỳ khưu         cao hạ nhất trong Giáo Hội Tăng Già. Chính Ngài Assaji là người         sẽ thâu phục và dẫn dắt Đức Sariputta (Xá Lợi Phất),         vị đệ tử của Đức Phật mà về sau đứng đầu trong Giáo         Hội. Chú thích: [1] Dấu hiệu tôn kính. [2] Đức Phật thuyết bài Pháp này khi Ngài ngự tại Kỳ          Viên Tịnh Xá (Jetavana Vihara), Savatthi, lâu sau khi thành lập         Giáo Hội Tăng Già. Ngài muốn chứng tỏ lòng tôn kính của         mình đối với Tăng Già để khuyên dạy bà Maha Pajapati         Gotami nên dâng đến chư Tăng một bộ y mà bà đã có ý định         ra công may để dâng đến Đức Phật. [3] Danh từ Pali là Devata, cũng là một hạng chúng sanh trên         quả địa cầu, hoặc trong những cảnh giới khác ngoài         quả địa cầu, mắt người không thể trông thấy. Vị          Trời này là quyến thuộc của hai thương gia trong một         tiền kiếp. [4] Sattu, bột rang khô và Madhu, mật ong, là lương thực mà         du khách Ấn Độ thời ấy giờ thường mang theo. [5] Catummaharajikas - Tứ Đại Thiên Vương, là Chư Thiên          ở bốn phương Trời. [6] Bản Chú Giải thêm rằng Đức Phật làm cho bốn cái         bát nhập lại thành một. [7] Buddham Saranam Gacchami (Con xin quy y Phật), Dhammam Saranam         Gacchami (Con xin quy y Pháp), là câu kin đọc xin quy y khi làm         lễ Nhị Bảo. Thuở bấy giờ Giáo Hội Tăng Già chưa được         thành lập, nên chỉ có Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp         Bảo. Vì Tăng Bảo chưa được thành lập nên hai vị không          đọc câu xin quy y thứ ba Sangham Saranam Gacchami (Con xin quy y Tăng.) [8] Bản Chú giải Túc Sanh Truyện ghi rằng khi hai thương         gia xin Đức Phật một món gì để đem về thờ thì Đức         Phật nhổ vài sợi tóc đưa cho hai người. Tục truyền         rằng hai bảo vật ấy đến nay vẫn còn, và được tôn trí         trong bảo tháp của chùa Swe Dagon tại Ngưỡng Quang (Miến Điện),         một hãnh diện, mà cũng là một vinh quang của người Phật         tử Miến Điện. Tháp to lớn này có hình một cái chuông úp         lại, ở xa nhìn giống như một hòn núi bằng vàng. [9] Vị đạo sư đầu tiên dạy Bồ Tát hành thiền tầng         Vô Sở Hữu Xứ. [10] Vị đạo sư thứ nhì, người đã dẫn dắt Ngài đến         tầng thiền Vô Sắc cao nhất: Phi Tưởng Phi Phi Tưởng [11] Đức Phật nói như vậy vì Ngài tự lực gắng, tự          mình chứng ngộ Đạo Quả Tối Thượng, không có sự hỗ          trợ của một vị thầy. Trước đó Ngài có thầy dạy         những pháp thế gian, nhưng chính Ngài tự vạch ra con đường         dẫn đến Đạo Quả Phật. Như vậy nói rằng Phật Giáo là         sự trưởng thành tự nhiên của Ấn Độ Giáo là sai lầm. [12] Xem Chương 6. [13] Sotapatti. Tu Đà Huờn hay Nhập Lưu, là người lần đầu         tiên bước chân vào dòng suối chảy đến Niết Bàn. [14] Xem Chương 6
Như Lai đã buông xả, gỡ bỏ mọi trói buộc, đã thoát ly         tất cả.
Như Lai đã chăm chú cố gắng tập trung tâm lực, diệt         trừ tham dục tận gốc rễ (Đạo Quả A La Hán).
Đã thấu triệt tất cả. Như Lai còn gọi ai là thầy?
Không ai là thầy của Như Lai. [11]
Không ai đứng ngang hàng với Như Lai.
Trên thế gian này, kể cả chư Thiên và chư Phạm Thiên, không         ai có thể sánh với Như Lai.
Quả thật Như Lai là một vị A La Hán trên thế gian này,
Như Lai là tôn sư vô thượng:
Chỉ một mình Như Lai là bậc Toàn Giác,
Vắng lặng và thanh tịnh.
Như Lai đang đi đến thành Kasi để vận chuyển bánh xe Pháp         Bảo giữa thế gian mù quáng. Như Lai sẽ gióng lên hồi         trống Vô Sanh Bất Diệt."
