Bây giờ hãy trở lại với Tâm Kinh.
Tôn giả Xá Lợi Phất, thế nên trong không, không sắc 
thọ tưởng hành thức [sắc tướng, cảm giác, ấn tượng, 
diễn biến tâm lý, chủ thức]; không nhãn nhĩ tỷ thiệt 
thân ý [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý]; không sắc thanh 
hương vị xúc pháp [hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị 
nếm, đối tượng của tiếp xúc, đối tượng của ý tưởng]; 
không nhãn giới, không thức giới, cho đến tận không ý 
thức giới [lãnh vực của mắt, của thức, của ý thức]; không 
vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão 
tử và sự diệt tận của lão tử [già chết]; không khổ tập 
diệt đạo [khổ, nguyên nhân tạo khổ, sự tận diệt của khổ, 
con đường diệt khổ]; không trí tuệ, không thủ đắc, và 
không cả sự không thủ đắc. 
Trong đoạn này, câu thứ nhất khẳng định năm uẩn là không, 
câu kế tiếp khai triển ra với tánh không của sáu giác quan – 
năm giác quan và ý thức. Câu tiếp theo lại mở rộng tánh không 
xa hơn nữa, ra đến thế giới bên ngoài, bao gồm những đối 
tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, 
đối tượng của tiếp xúc và đối tượng của ý thức [sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, gọi chung là sáu trần]. Câu cuối lại càng
mở rộng xa hơn, tới mười tám lãnh vực của tất cả mọi hiện 
tượng [mười tám giới], đến tận lãnh vực của ý thức” (26). Như 
vậy mọi sự, mọi vật, mọi việc, kể cả những hiện tượng không 
do yếu tố kết hợpi ví dụ như không gian, đều thuộc về một 
trong những thành phần phân loại nêu ra trong Tâm Kinh, tất 
cả đều được khẳng định là không có tự tánh. Tâm Kinh nói 
tiếp: 
không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không 
lão tử và sự diệt tận của lão tử; 
Câu này phủ nhận mười hai duyên khởi trong chu kỳ lưu 
chuyển của đời sống vô minh. Mặc dù chỉ nhắc đến vô minh 
và lão tử, chữ “cho đến” cho thấy toàn bộ mười hai duyên khởi 
bị phủ nhận: vô minh [mê muội], hành [hoạt động], thức 
[nghiệp thức], danh sắc [tập hợp tâm lý vật lý], lục nhập [sáu 
giác quan], xúc [giao tiếp], thọ [cảm giác], ái [lưu luyến], thủ 
[bám víu], hữu [hiện hữu], sinh [chào đời] và lão tử [già chết]ii
Quá trình phủ nhận mười hai duyên khởi chính là quá trình đạt 
niết bàn. Mặc dù sinh trong luân hồi và giải thoát luân hồi có 
thật trên lãnh vực qui ước, nhưng lại không có trên lãnh vực 
rốt ráo. Vì vậy ở đây mười hai duyên khởi bị Tâm Kinh phủ 
nhận. Tâm Kinh nói tiếp: 
không khổ tập diệt đạo; không trí tuệ, không thủ đắc, và
không cả sự không thủ đắc. 
Cũng vẫn đứng trong tầm nhìn của trí tuệ thâm nhập tánh 
không, đoạn kinh này bắt đầu bằng lời phủ nhận Tứ diệu đế 
thuộc thời kỳ chuyển bánh xe chánh pháp thứ nhất. Tứ diệu đế 
là bốn chân lý về khổ, nguyên nhân tạo khổ, sự tận diệt của 
khổ, và con đường diệt khổi. Như vậy ở đây Tâm Kinh phủ
nhận con đường tu. Tiếp theo, cả kết quả của đường tu Tâm 
Kinh cũng phủ nhận bằng câu khẳng định tánh không của kinh 
nghiệm chủ quan: “không trí tuệ, không thủ đắc”. Cuối cùng, 
ngay chính sự phủ nhận cũng được Tâm Kinh phủ nhận: 
“không cả sự không thủ đắc.” Cả trạng thái trong sáng có thể 
đạt đến nhờ thâm nhập Trí tuệ Bát nhã cũng không có tự tánh. 
Mọi tánh đức của tâm thức người đạt đến niết bàn, thành tựu 
thần lực của Phật, tất cả đều là không, đều được phủ nhận ở 
đây. 
i Còn gọi là pháp vô vi. 
ii Ý nghĩa của mười hai duyên khởi để trong ngoặc vuông là do 
người dịch thêm vào, dựa theo HT Thích Trí Quang, Tông Quan 
Pháp Cú Nam Tông.
 
