Từ đầu đến ngang đây, Tâm Kinh giảng tánh không thuận theo
căn cơ người bình thường. Trong phần tiếp theo, Tâm Kinh sẽ 
vì những người căn cơ phi thường mà trình bày ngắn gọn về 
tánh không qua dạng mật chú. Tâm Kinh nói như sau: 
“Do đó nên biết chú Bát nhã ba la mật đa –chú của đại trí 
tuệ, tối thượng, đồng bậc với tuyệt bậc, trừ được hết thảy 
khổ não – là thần chú chân thật vì không hư ngụy.” 
Ở đây, chính bản thân của Bát nhã ba la mật đa, 
prajnaparamita, được gọi là “thần chú”. Nguyên văn chữ 
thần chú có nghĩa là “hộ trì tâm thức.” Chứng đắc Bát nhã ba 
la mật đa sẽ che chở tâm thức thoát khỏi mê lầm, thoát khỏi 
phiền não đến từ mê lầm và thoát khỏi cái khổ đến từ phiền 
não. 
Gọi Bát nhã ba la mật đa là “thần chú của đại trí tuệ”, vì thâm 
nhập ý nghĩa rốt ráo của Bát nhã ba la mật đa sẽ đoạn trừ được 
ba chất độc tham sân si. Gọi “tối thượng”, vì không có phương 
tiện nào vĩ đại hơn Bát nhã ba la mật đa để cứu vớt chúng sinh 
ra khỏi hai bờ cực đoan, là khổ đau luân hồi và an lạc riêng lẽ 
của niết bàn cá nhân. Gọi “đồng bậc với tuyệt bậc”, vì địa vị 
giác ngộ của Phật không gì có thể sánh bằng, đồng thời hành 
giả có thể chứng ngộ sâu xa chú này và đạt đến địa vị không gì 
sánh bằng đó. Cuối cùng, gọi “trừ được hết thảy khổ não”, vì 
Bát nhã ba la mật đa trừ được khổ đau trong hiện tại, đồng thời 
xóa sạch tất cả mọi tiềm năng tạo khổ trong tương lai. 
Bát nhã ba la mật đa là Chân đế, là chân lý rốt ráo, nên gọi là 
“chắc thật.” Khác với Tục đế, cảnh giới của Chân đế hoàn
toàn không có sự sai biệt giữa tướng và tánh. Vì vậy mà nói
tướng Chân đế là “không hư ngụy”. Ngoài ra, tính chất không 
hư ngụy này cho thấy khi chứng được thần chú Bát nhã, có thể 
nhờ Bát nhã ba la mật đa mà giải thoát toàn diện khỏi khổ đau 
và nguyên nhân của khổ đau. Nhìn từ khía cạnh này, cũng có 
thể nói Bát nhã ba la mật đa là chân thật. 
Nay tôi xin tuyên thuyết thần chú Bát nhã ba la mật đa: 
TADYATHA GATE GATE PARAGATE 
PARASAMGATE BODHI SVAHA. Xá Lợi Phất, các vị 
Đại bồ tát hãy nên hành trì Bát nhã ba la mật đa theo 
đúng như vậy. 
Chữ tadyatha tiếng Phạn có nghĩa là “như sau”, dùng làm từ 
chuyển tiếp sang câu tiếp theo; gaté gaté là “đi, đi”; paragaté 
là “vượt qua”; parasamgaté là “vượt qua hoàn toàn”; và bodhi 
svaha có thể hiểu là “an trụ vững vàng trong giác ngộ.” Vậy 
nguyên câu chú này có thể được dịch nghĩa như sau: “Vượt 
qua, vượt qua, vượt qua bên kia, vượt qua hoàn toàn, an trú 
trong giác ngộ.” Hình ảnh “vượt qua bờ bên kia” có thể dùng 
làm cảnh ngữ của câu chú này, nói cách khác, bỏ bờ bên này 
với căn nhà chúng ta có từ vô thủy là luân hồi và nếp sống vô 
minh, để vượt qua đến bờ bên kia, bờ cứu cánh niết bàn, của 
giải thoát toàn diện.
