Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (21)


Xem mục lục

2’ Sự rèn luyện từng bước

a’’ Rèn tâm để có được sự kiên quyết vì lợi ích của chúng sinh

1’’ Xác lập nền tảng để phát triển thái độ này

(a) Đạt được tâm bình đẳng hướng về chúng sinh

(b) Yêu mến tất cả chúng hữu tình

(i) Nuôi dưỡng nhận thức rằng mọi chúng sinh đều là mẹ của mình

(ii) Nuôi dưỡng ký ức về lòng tốt của họ

(iii) Nuôi dưỡng ước nguyện đền đáp lòng tốt của họ

2’’ Phát triển thái độ kiên quyết đến lợi ích của tha nhân

(a) Nuôi dưỡng tình yêu thương

(b) Nuôi dưỡng lòng từ bi

(c) Nuôi dưỡng sự quyết tâm tuyệt đối

b’’ Luyện tâm kiên quyết đạt giác ngộ

c’’Nhận ra tâm giác ngộ, thành quả của sự rèn luyện

–––––––––\–––––––––

2’ Sự rèn luyện từng bước

Sự rèn luyện từng bước gồm có ba phần:

1. Rèn luyện tâm để có được sự kiên quyết tâm vì lợi ích của chúng sinh

2. Rèn luyện tâm quyết đạt giác ngộ

3. Nhận ra tâm giác ngộ, kết quả của sự rèn luyện

a’’ Rèn luyện tâm để có được sự kiên quyết vì lợi ích của chúng sinh

Luyện tâm để có được sự kiên quyết vì hạnh phúc của chúng sinh gồm có hai phần:

1. Xác lập một nền tảng để phát triển thái độ này

2. Phát triển thái độ quyết tâm vì lợi ích của tha nhân

1’’ Xác lập một nền tảng để phát triển thái độ này

1. Đạt được tâm bình đẳng với chúng sinh

2. Yêu mến tất cả chúng hữu tình [299]

(a) Đạt được tâm bình đẳng hướng về chúng sinh

Như tôi đã giải thích về giai trình của các pháp tu tiên yếu và các pháp tu thuộc loại đó trong trường hợp của những người sơ căn và trung căn. Hãy thực hành các pháp tu tiên yếu đó và sau đó duy trì thiền.

Ngay từ đầu, hãy xác lập một tâm bình đẳng, loại trừ đi những thiên hướng[1] bắt nguồn từ những tham ái với một vài chúng sinh và thù địch với một số khác. Nếu không thì, bất cứ tình yêu thương hay lòng từ bi mà quý vị khởi lên đều sẽ là thiên vị; quý vị sẽ chẳng bao giờ cảm nhận được một tình yêu hay lòng từ bi bình đẳng. Bởi vậy, hãy vun trồng bình đẳng. Có ba loại bình đẳng: (1) tính bình thản {tịnh xả} đối với các dụng công[2] , (2) cảm giác bình đẳng và (3) sự bình đẳng vô lượng. Trong phần này, sự bình đẳng chỉ đến điều cuối cùng {bình đẳng vô lượng}. Người ta nói rằng, sự bình đẳng vô lượng có hai loại: (1) mong ước chúng sinh đều được giải thoát khỏi các phiền não như là tham ái và thù địch và (2) có được tâm bình đẳng sau khi đã thoát khỏi những tham ái hay thù địch hướng đến chúng sinh. Trong phần này thì sự bình đẳng vô lượng nói đến là loại bình đẳng thứ hai.

Sau đây là các bước để nuôi dưỡng tâm bình đẳng vô lượng. Bởi vì quý vị có thể dễ dàng công bằng với những người quý vị có cảm giác trung lập, đầu tiên hãy lấy những người đó làm đối tượng thiền, một người mà không giúp đỡ cũng không làm hại quý vị. Hãy thành tựu tâm bình đẳng với những người này, bỏ đi những tham ái và thù địch của quý vị.

Một khi quý vị đã đạt được điều này, hãy tiếp tục nuôi dưỡng tâm bình đẳng với một vị bằng hữu. Việc quý vị thiếu đi sự bình đẳng với người bạn này là bởi mức độ sự gắn bó của quý vị với người đó hay là do những thiên kiến bắt nguồn từ sự gắn bó và thù địch của mình.

Sau khi quý vị đã đạt được tâm bình đẳng với người bạn này, hãy nuôi dưỡng tâm đó với một kẻ thù. Việc quý vị thiếu tâm công bằng với người này là bởi sự thù địch của quý vị, thấy rằng ông ấy hay bà ấy là thật không thể vừa ý mình. Cuối cùng, sau khi quý vị đã có tâm bình đẳng với người này, hãy phát triển tâm đó ra với tất cả chúng sinh.

Vấn: Thế thì loại thiền nào có thể loại trừ được tham ái và thù địch với ba loại người này?

Đáp: Giai Trình Thiền, quyển hai của Liên Hoa Giới cống hiến[3] hai cách thức: (1) Quán chiếu như sau: “Từ quan điểm của chúng sinh, tất cả đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Bởi vậy, việc giữ lại một số người gần gũi và giúp đỡ họ trong khi xa lánh số khác và làm hại hay không giúp đỡ họ là không thích hợp”. [300] (2) Quán chiếu như sau: “Từ quan điểm của tôi, nếu tôi đã liên tục tái sinh từ vô thủy, mọi chúng sinh đều đã là bạn bè của tôi hàng trăm lần. Với ai tôi nên gắn bó? Với ai tôi nên thù địch?”

Hơn thế nữa, liên quan đến sự gắn bó với bạn bè, Nguyệt Thượng Nữ Kinh (Candrottama-dārikā-vyākaraṇa-sūtra) có nói rằng[4]:

Trước đây ta giết tất cả các ngươi,

Và các ngươi đã đánh đập rồi quên ta,

Tất cả chúng ta đều đã thù hận và giết hại nhau.

Làm sao các ngươi có thể tham ái?

Theo điều mà trước đây tôi giải thích trong phần về lỗi lầm của sự không chắc chắn[5], hãy suy nghĩ làm sao mà những bạn và thù lại có thể thay đổi nhanh thế. Bằng cách suy nghĩ như vậy, hãy dừng lại sự thù địch và tham chấp.

Trong bối cảnh này, sự quán chiếu đòi hỏi quý vị phải phân biệt đâu là bạn, đâu là thù. Quý vị không ngưng đi ý niệm về bạn hay thù mà là hãy gạt đi thành kiến bắt nguồn từ tham ái và thù địch vốn dựa trên lý do rằng, một số là bạn, số khác thì là kẻ thù của mình.

(b) Yêu mến tất cả chúng hữu tình

Giai Trình Thiền của ngài Liên Hoa Giới có đề cập rằng[6]:

Được thấm đượm trong tình yêu thương, tâm thức của ngươi giống như đất xốp và phì nhiêu. Khi ngươi gieo trồng hạt giống của lòng từ bi, nó lớn lên dễ dàng và rất phát triển. Bởi vậy, sau khi ngươi đã truyền cho tâm mình lòng yêu thương, hãy nuôi dưỡng lòng từ bi.

Tình yêu đề cập ở đây là quan điểm yêu mến chúng sinh như thể đó là những đứa con thân yêu của quý vị. Bằng cách nuôi dưỡng tâm bình đẳng, quý vị sẽ xóa bỏ được thái độ không công bằng đến từ xu hướng tham ái và thù địch của mình, và tâm của quý vị sẽ giống như một cánh đồng tốt. Ngài Liên Hoa Giới nói rằng, nếu quý vị nhuộm thấm tâm mình bằng thứ nước của tình yêu thương tất cả chúng sinh, sau đó, quý vị gieo trồng hạt giống lành mạnh của lòng từ bi, thì quý vị sẽ dễ dàng khởi tạo ra một lòng đại từ bi. Hãy hiểu rằng điều này là một điểm cực kì quan trọng.

(i) Nuôi dưỡng nhận biết rằng mọi chúng sinh đều là mẹ của mình

Bởi vì luân hồi là không có điểm khởi đầu, những lần quý vị sinh ra vì thế cũng không có điểm khởi đầu. Do đó, quý vị cứ chết đi và tái sinh sau đó. Hoàn toàn không thể có một loại thân người nào mà quý vị chưa từng là trong luân hồi [301]. Cũng hoàn toàn chẳng có nơi nào mà quý vị chưa từng sinh ra, cũng chẳng có người nào mà quý vị không phải từng là họ hàng, chẳng hạn là mẹ của quý vị. Trong Du Già Sư Địa Luận (yogā-caryā-bhūmi) của ngài Vô Trước có một đoạn kinh như sau[7]:

Ta rất khó khăn để tìm ra nơi đâu mà ngươi chưa từng sinh ra, chưa từng đi đến, hay là chưa từng chết tại đó trong quá khứ xa xưa. Ta rất khó khăn để tìm thấy bất cứ người nào trong quá khứ lâu dài mà đã chưa từng là cha, mẹ, chú, dì, anh chị em, tu viện trưởng, đạo sư hay ai đó tương tự như đạo sư của ngươi.

Hơn thế nữa, mọi chúng sinh trước đây không chỉ là mẹ của quý vị mà cũng sẽ là mẹ của quý vị trong tương lai đến vô số lần. Hãy quán chiếu về điều này và tin tưởng rằng mọi chúng sinh đều đã từng là các bà mẹ của quý vị. Khi quý vị đã phát triển vững chắc lòng tin này thì quý vị có thể dễ dàng nhớ được lòng tốt và những điều họ đã làm. Nếu quý vị không thể phát triển nó, quý vị sẽ không thể có nền tảng cho việc hồi tưởng lại lòng tốt của họ.

(ii) Nuôi dưỡng hồi ức về lòng tốt của họ

Bo-do-wa (Po-to-ba) nói rằng, sau khi quý vị nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều từng là mình, quý vị sẽ nhanh chóng nhớ lại lòng tốt của họ, nếu ngay từ đầu quý vị đã nuôi dưỡng hồi ức về lòng tốt của mẹ mình trong đời này. Hãy làm như vậy ứng theo sự trình bày của ngài sau đây.

Hãy tưởng tượng một cách rõ ràng mẹ mình ở trước mặt. Hãy nghĩ vài lần như sau: “Bà không chỉ là mẹ mình trong đời này mà còn trong vô số đời trước từ thời vô thỉ”. Là mẹ, bà bảo vệ quý vị khỏi mọi hiểm nguy và cho quý vị tất cả lợi ích và hạnh phúc. Đặc biệt trong đời này bà cưu mang quý vị một thời gian dài trong bụng. Sau đó, khi quý vị là một đứa bé sơ sinh, không tự làm được bất cứ điều chi, bà giữ ấm cơ thể quý vị trong lòng và nâng niu quý vị trên tay. Bà cho quý vị bú và dùng miệng nhai thức ăn cho mềm để mớm cho quý vị, hút lấy nước mũi của quý vị và dùng tay mình dọn phân của quý vị. Như thế, theo nhiều cách khác nhau, mẹ nuôi dưỡng quý vị không mệt mỏi.

Hơn thế nữa, khi quý vị đói khát, bà cho quý vị ăn uống; khi quý vị lạnh, bà cho quần áo; khi quý vị nghèo khó, bà cho quý vị những thứ tài sản mà bà yêu thích. Thậm chí, hơn thế nữa, thứ bà cho quý vị không phải là những thứ bà giành được dễ dàng, mà là thứ bà đã dành giữ được với nhiều khốn khó to tát khi mà bà phải làm những hành động sai trái và mang lấy tiếng xấu và khổ đau [302].

Nếu quý vị bị ốm, bị đau hay trong nguy kịch, mẹ quý vị sẽ lựa chọn rằng thà bà bị ốm, thà bà bị đau còn hơn và bà có thể chết thay cho quý vị. Bằng cách đưa những cảm xúc này vào hành động, bà đã làm mọi thứ để xua tan các khó khăn. Nói tóm lại, hãy quán chiếu từng điểm một về việc bằng cách nào mẹ mình đã cung ứng sự giúp đỡ và hạnh phúc cũng như xua tan những hiểm nguy và đau khổ ở mức hiểu biết và khả năng tối đa của bà.

Bằng cách nuôi dưỡng ký ức về lòng tốt của mẹ mình, quý vị sẽ không chỉ nhớ bằng lời. Khi quý vị đã khởi lên những hồi tưởng như vậy, hãy nhận ra rằng, các bạn bè và họ hàng như cha quý vị chẳng hạn đều từng là mẹ của quý vị và hãy nuôi dưỡng sự ghi nhớ về lòng tốt của họ. Sau đó làm tương tự với những người mà quý vị có cảm xúc trung lập. Một khi quý vị đã có được một thái độ như vậy với họ, tương tự như với bạn bè của quý vị, hãy nhận ra rằng kẻ thù cũng đã từng là mẹ của mình và hãy nuôi dưỡng ký ức về lòng tốt của họ. Khi quý vị đã có thái độ này với kẻ thù, giống như là với mẹ mình, hãy nhận ra mọi chúng sinh trong mười phương đều là mẹ mình và sau đó dần dần với mức độ tăng lên, hãy nuôi dưỡng nỗi nhớ về lòng tốt của họ.

(iii) Nuôi dưỡng tâm nguyện đền đáp lòng tốt của các bà mẹ mình

Những chúng sinh này, những người mẹ tốt bụng của quý vị (người mà quý vị không nhận ra do quá trình chết và đầu thai), đang chịu khổ đau và không có nơi nương tựa. Không có gì xấu hổ hơn là việc hết sức để tự giải thoát cho mình khỏi luân hồi trong khi xem những chúng sinh này, những người mẹ của quý vị, như là không quan trọng và bỏ rơi họ. Trong Học Sinh Thư của ngài Nguyệt Quan có viết[8]:

Khi ngươi thấy người thân đắm chìm trong bể luân hồi,

Và tựa như họ rơi vào biển lửa,

Không có gì thẹn hơn chỉ cố gắng giải thoát chính mình,

Và thờ ơ những ai mà ngươi không biết do tiến trình sinh tử.

Vì vậy, hãy quán chiếu rằng: “Nếu bỏ rơi những chúng sinh tốt bụng như vậy là không phù hợp, thậm chí là với những người bất hảo, vậy làm sao cho đúng trong trường hợp của tôi đây?” và nhận lấy trách nhiệm đền đáp lòng tốt của họ. Trong cùng một bản văn có đề cập rằng[9]:

Một trẻ sơ sinh trong tay mẹ không thể làm gì

Và chỉ bú dòng sữa bởi lòng đầy yêu thương,

Với cùng tình yêu ấy, mẹ gánh bao điều khó .

Ai, dẫu là kẻ rất tệ, lại muốn bỏ mẹ mình? [303]

Ai, dẫu là người xấu xa, lại nỡ rời đi

Và bỏ rơi người đã cho ngươi một mái ấm,

Đã chăm sóc chắt chiu con trẻ với lòng từ ái,

Là người chịu bao đắng cay và không chỗ tựa nương?

Trong Tán Dương Công Đức Vô Lượng (Guṇāparyanta-stotra) của ngài Triratnadāsa có đoạn[10]:

 “Đó không phải cách của tôi nhằm giải thoát cho mình trong khi bỏ rơi các chúng sinh này

Người mà vô minh mù quáng làm lu mờ toàn bộ trí thông minh

Và là bố mẹ, là con cái vốn phục vụ và yêu mến giúp đỡ mình”.

Nghĩ về điều ấy, tôi tha thiết nguyện sẽ giải thoát chúng sinh không người bảo vệ.

Có người băn khoăn nghi vấn: Làm sao ta có thể đền đáp sự giúp đỡ của họ?

Đáp: Bất kể bao nhiêu tài sản và hạnh phúc mà các bà mẹ quý vị có được trong luân hồi, tất cả đều đánh lừa mẹ quý vị. Vì vậy, quý vị cần đền đáp công ơn của họ, nghĩ rằng: “Trước kia, mẹ quý vị đã bị thương nặng vì sự điên rồ của những khổ đau ngự trị trong họ. Sau đó, tôi đã tạo ra thêm các khổ đau nữa cho những chúng sinh vốn đã bị đau khổ rồi, cứ như tôi bôi vôi sát muối vào vết thương vậy. Giờ đây, tôi sẽ đưa những chúng sinh khổ đau này vào con đường hạnh phúc của giải thoát, Niết-bàn”. Trong Trung Đạo Tâm Luận (Madhyamaka-hṛdaya) của ngài Thanh Biện có viết rằng[11]:

Hơn thế nữa, tựa như xát muối

Vào vết thương những người bị sở hữu

Bởi điên rồ của cảm xúc khổ đau,

Tôi tạo thêm phiền não cho những ai bệnh vì đau khổ.

Lúc hiện nay, có gì nữa khác hơn niết-bàn

Để đền đáp công ơn của họ

Những người mà trong nhiều đời kiếp trước

Đã giúp tôi bằng thương mến và chiêu hầu?

Người ta nói rằng, lòng tốt không được đền đáp còn hơn cả việc gánh vác nặng nề của đại dương cộng với núi Tu Di và rằng việc trả ơn người khác tạo ra sự tán thán của các các thiện tri thức. Trong Long Vương Cổ Kệ (Nāga-rāaja-bherī-gāthā) có nói rằng[12]:

Cả đại dương, Tu Di và Trái đất

Không phải là một gánh nặng với ta. [304]

Trong khi đó không đền ơn người khác

Sẽ lại là gánh nặng lớn của ta.

Thiện tri thức luôn xưng tán những ai

Tâm thức họ không kích động hăng say,

Nhận thấy ra và đáp đền hành động ấy

Và những ai chẳng phí hoài lòng tha nhân tử tế.

Một cách toát yếu, mẹ của quý vị đã thiếu tỉnh trí, không thể duy trì an nhiên. Bà như người mù, không có sự dẫn dắt, và trong từng bước đi như thể bà đang tiến gần đến vách đứng kinh khủng. Nếu bà không thể đặt hy vọng vào đứa con của mình, thì ai nên nhận lấy trách nhiệm này? Nếu đứa con của bà không nhận lấy trách nhiệm giải thoát bà khỏi nỗi sợ hãi này, thì ai sẽ làm thế? Đứa con phải giúp bà giải thoát. Giống như vậy, sự điên rồ của những phiền não quấy rối sự an bình trong tâm thức của chúng sinh, tức những bà mẹ của quý vị. Vì vậy, họ đang thiếu tỉnh trí vì họ không thể kiểm soát tâm mình. Họ thiếu đi đôi mắt để nhìn thấy các ngã đường đi đến các trạng thái cao hơn [tái sinh làm người hay trời] và sự tốt đẹp chắc chắn [giải thoát hay toàn giác]. Họ không đạo sư thật sự, người chỉ dẫn cho những kẻ mù. Họ sẩy chân vì các hành động sai lầm của họ làm què quặt họ trong mọi thời điểm. Khi các bà mẹ này nhìn thấy bờ vực của vách đứng luân hồi nói chung và các cõi khổ đau nói riêng, tự nhiên họ trông vọng ở những đứa con mình, và những đứa con này có một trách nhiệm giúp mẹ thoát khỏi tình trạng đó. Vì vậy, với điều này trong tâm, hãy đền đáp công ơn của những người mẹ mình bằng cách giúp họ thoát khỏi luân hồi. Trong Bồ-tát Học Luận của ngài Tịch Thiên có khẳng định[13]:

Bị bối rối với khổ đau, bị mù do vô minh

Bị ngã trượt trong mỗi bước

Trên con đường vách đứng chênh vênh,

Ngươi và kẻ khác luôn nếm trải những khổ đau –

Mọi chúng sinh cũng đều khổ đau tương tự.

Mặc dù người ta nói rằng việc tìm kiếm lỗi lầm của người khác là không thích hợp và nhận ra những phẩm hạnh của họ dù là đơn giản nhất cũng rất tuyệt vời, ở đây điều thích hợp nhất là việc xem xét những người khác có cần sự giúp đỡ như thế nào.

2’’ Phát triển thái độ quyết tâm vì lợi ích của tha nhân

Phát triển sự quyết tâm vì lợi ích của tha nhân gồm có ba phần:

1. Nuôi dưỡng tình yêu thương

2. Nuôi dưỡng lòng từ bi

3. Nuôi dưỡng sự kiên tâm nhất trí

(a) Nuôi dưỡng lòng yêu thương

Để hiểu về nuôi dưỡng lòng yêu thương, quý vị cần biết những chủ đề sau. Đối tượng của tình yêu thương là tất thảy chúng sinh, những người mà không có hạnh phúc. Các khía cạnh chủ quan là việc nghĩ rằng: “Sẽ tốt đẹp làm sao nếu chúng sinh được hạnh phúc”, “Cầu mong hạnh phúc đến với họ” và “Tôi sẽ giúp họ hạnh phúc”. [305]

Liên quan đến lợi ích của tình yêu thương, Định Vương Kinh (Samādhi-rāja-sūtra) có đề cập[14]:

Luôn cúng dường những chúng sinh cao cả

Những vật phẩm cúng dường nhiều khôn kể

Nhiều tỷ đất đai cũng không thể sánh bằng

Một phần lợi ích của thái độ yêu thương

Người ta nói rằng lợi ích của tình yêu thương thì lớn lao hơn nhiều so với cúng dường to tát đến các bậc cao cả nhất [chư Phật và Bồ-tát]. Cũng như vậy, Văn-thù-sư-lợi Phật Độ Trang Nghiêm Kinh (Mañjuśrī-buddha-kṣetra-guṇa-vyūha-sūtra) có đoạn[15]:

Ở vùng đông bắc là cõi đất của Đấng Chiến Thắng Buddhesvara {tên dịch nghĩa Tự Tại Vương Phật} gọi là “Cõi trang nghiêm bởi một ngàn vũ trụ”. Những chúng sinh ở đó có hạnh phúc giống như niềm hoan hỷ của một vị tăng trải nghiệm một sự tịch diệt. Nếu quý vị có thể khởi lên tình yêu thương ở đây trong cõi Diêm Phù Đề hướng về tất cả hữu tình chúng sinh chỉ đơn giản là trong một cái búng ngón tay, công đức có được sẽ vượt qua công đức giành được khi giữ đức hạnh trong sạch trong một tỷ tỷ năm. Vậy liệu có cần phải đề cập đến công đức duy trì thái độ yêu thương trong cả ngày lẫn đêm?

Hơn thế nữa, trong Bảo Hành Vương Chính Luận của ngài Long Thọ thuyết[16]:

Cúng dường ba trăm bát vật thực

Dù thực hiện ba lần mỗi ngày

Vẫn không bằng một phần công đức

Của yêu thương chỉ trong khoảnh khắc.

Dù ngươi chưa giải thoát bởi yêu thương

Ngươi sẽ được tám phẩm tánh tốt:

Chư thiên và người sẽ yêu mến ngươi,

Họ cũng sẽ luôn luôn bảo vệ ngươi

Ngươi sẽ có niềm vui và thoải mái về vật chất;

Chất độc và vũ khí không hại được ngươi.

Ngươi đạt mục đích không cần cố gắng,

Và tái sinh vào giới của Phạm Thiên.

Nếu quý vị có lòng yêu thương, thì chư thiên và con người sẽ yêu mến quý vị và tự nhiên bị thu hút về hướng quý vị. Hơn thế nữa, Đấng Chiến Thắng đã đánh bại đội quân của Ác ma nhờ sức mạnh của tình yêu thương, vì thế tình yêu thương là người bảo vệ tối thượng, và vv.... Vì vậy, mặc dù rất khó để phát triển tình yêu thương, quý vị cần phải nỗ lực làm như vậy. Bồ-tát Học Luận có nói rằng quý vị nên toàn tâm suy nghĩ về các câu kệ trong Kim Quang Minh Kinh (Suvarṇa-prabhāsa-sūtra)[17] trong đó thảo luận về việc nuôi dưỡng tình yêu thương và lòng từ bi. [306] Kinh đó cũng nói thêm rằng ít nhất quý vị nên tụng đọc và thiền về bài kệ sau đây của kinh này[18]:

Thông qua âm thanh tiếng trống vĩ đại của hào quang vàng thiêng liêng

Nguyện cho mọi khổ đau của những cõi thấp, những khổ đau mang đến bởi tử thần,

Những khổ đau của sự nghèo đói, và mọi khổ đau sẽ được xua tan

Trong cả tam thiên đại thiên thế giới.

Sau đây là các giai đoạn nuôi dưỡng lòng yêu thương. Đầu tiên, nuôi dưỡng tình yêu thương đến những người bạn. Sau đó, nuôi dưỡng tình yêu thương đến những người mà quý vị có cảm xúc trung lập. Kế đó, nuôi dưỡng tình yêu thương đến những kẻ thù của quý vị. Sau đó hãy nuôi dưỡng tình yêu thương dần dần đến tất thảy chúng sinh.

Và sau đây là cách thức để nuôi dưỡng tình yêu thương. Quý vị chỉ có thể phát triển lòng yêu thương khi quý vị đã liên tục suy nghĩ về những chúng sinh bị hành hạ vì những khổ đau ra sao, hãy phát triển tình yêu thương bằng cách liên tục suy nghĩ về những chúng sinh thiếu hạnh phúc thế nào, cả bị ô nhiễm lẫn thuần khiết. Khi quý vị đã quen với điều này, quý vị sẽ tự nhiên mong muốn các chúng sinh được hạnh phúc. Thêm vào đó, hãy gợi ra nhiều dạng hạnh phúc trong tâm và sau đó hiến dâng cho các chúng sinh khác

(b) Nuôi dưỡng lòng từ bi

Để hiểu được về việc nuôi dưỡng lòng từ bi, quý vị phải hiểu biết về những chủ đề sau. Đối tượng của lòng từ bi là mọi chúng sinh vốn trải qua bất hạnh dù là bất cứ loại nào trong ba loại khổ[19]. Khía cạnh chủ quan là nghĩ rằng: “Sẽ tốt đẹp làm sao nếu mọi chúng sinh được giải thoát khỏi khổ đau”, và “Tôi sẽ khiến họ giải thoát khỏi khổ đau”. Các bước của sự nuôi dưỡng lòng từ bi là, đầu tiên nuôi dưỡng lòng từ bi hướng về những người bạn, sau đó hướng về những chúng sinh quý vị có cảm xúc trung lập và sau đó là những kẻ thù. Khi quý vị đã có lòng từ bi bình đẳng với những kẻ thù và những người bạn, hãy dần dần nuôi dưỡng nó hướng về tất cả mọi chúng sinh trong mười phương.

Theo những bài giảng về tri kiến, Liên Hoa Giới đã vạch ra con đường để tuần tự nuôi dưỡng tâm bình đẳng, tình yêu thương và lòng từ bi trong khi phân biệt các đối tượng cụ thể của thiền[20]. Đây là một điểm cực kỳ quan trọng. Nếu quý vị rèn luyện những thái độ về sự bình đẳng, tình yêu thương và lòng từ bi thiếu hẳn việc phân biệt và chọn lấy các đối tượng cụ thể, mà chỉ dùng một đối tượng chung từ đầu, thì quý vị sẽ chỉ có vẻ tạo ra những thái độ này. Sau đó, khi quý vị cố gắng áp dụng chúng vào những cá nhân cụ thể, quý vị sẽ chẳng thể khởi tạo ra thái độ này hướng đến tất cả mọi người. Nhưng một khi quý vị đã có những kinh nghiệm chuyển đổi hướng về một cá nhân trong thực hành thiền của quý vị như giải thích trước đây, sau đó quý vị sẽ dần dần tăng lên số lượng cá nhân quý vị quán tưởng trong thiền. Cuối cùng, hãy lấy tất cả chúng sinh nói chung làm đối tượng thiền của mình. [307] Khi quý vị duy trì thực hành này trong thiền, quý vị sẽ tạo ra những thái độ đúng đắn, dù là với các cá nhân hay với một nhóm.

Sau đây là cách thức để nuôi dưỡng lòng từ bi. Hãy xem xét những chúng sinh này – những bà mẹ của quý vị – trải qua những đau khổ chung và riêng sau khi rơi vào luân hồi ra sao. Trước đây tôi đã giải thích điều này[21]. Hơn nữa, nếu quý vị đã phát triển một nhận thức về những đau khổ chung và riêng của chính mình bằng cách rèn luyện trên lộ trình của một người trung căn, thì quý vị sẽ đánh giá được tình trạng của mình và nuôi dưỡng lòng từ bi hướng đến những người khác. Qua việc làm theo phương pháp này, quý vị sẽ dễ dàng sinh ra lòng từ bi. Việc xem xét những đau khổ của chính mình tạo ra lòng quyết tâm giải thoát. Nghĩ về những đau khổ của người khác tạo ra lòng từ bi. Tuy nhiên, nếu trước tiên quý vị không xem xét những đau khổ của mình, quý vị sẽ không thể đạt đến điểm quan trọng của thực hành.

Đây là những minh họa đơn giản về cách thiền ra sao. Những thiện tri thức nên thực hành chi tiết về một trăm mười khổ đau được quan sát bởi lòng từ bi. Điều này được giải thích trong Bồ-tát Địa[22].

Hơn thế nữa, người ta nói rằng, ý tưởng của các vị Bồ-tát về khổ đau trong thời gian nuôi dưỡng lòng từ bi là nhiều hơn ý nghĩ của các vị Thanh Văn, người mà nhận thấy khổ đau với một thái độ tỉnh ngộ – kiến thức tối hậu và thực tế của sự thật về khổ đau của các Thanh Văn. Nếu quý vị quán chiếu từ những quan điểm vô lượng về cách mà chúng sinh thiếu vắng hạnh phúc và gặp khổ đau, quý vị sẽ phát triển rất nhiều tình yêu thương và lòng từ bi. Hơn thế nữa, nếu quý vị nghĩ về điều này trong một thời gian dài, tình yêu thương và lòng từ bi của quý vị sẽ mạnh mẽ và vững chắc. Vì thế, nếu quý vị hài lòng với chỉ một ít giáo huấn cá nhân và bỏ quên việc tự làm quen với những giải thích về các kinh luận cổ điển, lòng từ bi và tình yêu thương của quý vị sẽ rất yếu.

Hơn thế nữa, sau khi quý vị đã phân biệt xuyên suốt các đối tượng của thiền theo các giải thích trước đây – lòng từ bi là gốc rễ ra sao, phát triển Bồ-đề tâm là cánh cửa của Đại thừa thế nào, và vv... – sau đó quý vị cần phải phân tích những giải thích này bằng trí huệ phân biệt và gợi ra những trải nghiệm sau khi duy trì chúng trong thiền. Quý vị sẽ không thể đạt được điều gì với những kinh nghiệm không rõ ràng xảy đến khi quý vị tiến hành một nỗ lực tập trung ngắn ngủi mà thiếu việc làm sáng tỏ chủ đề một cách chuẩn xác với sự hiểu của mình. Nên biết rằng điều này cũng đúng với những loại thực hành khác. [308]

Giai Trình Thiền phần một của ngài Liên Hoa Giới đưa ra phương pháp cho sự phát triển lòng từ bi[23]:

Khi quý vị tự động cảm thấy lòng từ bi, vốn có mong ước chủ quan để hoàn toàn xóa tan những khổ đau của tất cả chúng sinh – giống như mong ước của bà mẹ được tẩy sạch những bất hạnh của đứa con yêu của bà – thì lòng từ bi sẽ hoàn thiện và vì thế được gọi là đại từ bi.

Ở đây, ngài Liên Hoa Giới nói rằng khi quý vị tự động cảm thấy lòng từ bi cho mọi chúng sinh giống như lòng từ bi của người mẹ đến với đứa con yêu dấu và bé bỏng của mình, thì quý vị sẽ có lòng đại từ bi toàn hảo tuyệt đối. Thông qua điều này, hãy hiểu phương pháp để phát triển lòng đại từ bi.

Lấy đoạn văn như điểm khởi đầu, ngài Liên Hoa Giới nói rằng[24]:

Khi quý vị hứa nguyện sẽ hướng dẫn tất cả chúng sinh bằng việc tự tạo duyên với lòng đại từ bi, quý vị khởi tạo được tâm giác ngộ một cách không tốn sức, vốn có được bản tánh của sự ước nguyện đạt đến giác ngộ hoàn hảo vô thượng.

Ở đây ngài nói rằng đại từ bi, điều mà ngài đã giải thích bên trên, là nguyên nhân cần thiết cho sự phát triển Bồ-đề tâm nguyện. Cũng hãy hiểu điều này là một phương pháp cho sự phát triển Bồ-đề tâm. Hơn thế nữa, khẳng định này liên quan không chỉ đến việc phát triển tâm giác ngộ cho một người đã đạt đến lộ trình cao, mà cả liên quan đến việc phát Bồ-đề tâm cho những người mới bắt đầu. Trong Đại thừa Tổng Luận (Mahāyāna-saṃgraha) của ngài Vô Trước có đoạn[25]:

Thứ mà có những thuộc tính của lòng tốt,

Năng lực của khao khát mong muốn vững bền

Luôn khởi thủy ba vô lượng kiếp

Của một vị Bồ-tát.

Vì thế thậm chí một vị Bồ-tát bắt đầu ba vô lượng kiếp của sự thực hành cũng phải phát triển Bồ-đề tâm như thế.

Bởi vậy, giả sử quý vị ở chỗ không gần gũi với những đối tượng này và quý vị chỉ đơn thuần là khởi tâm: “Nguyện cho con đạt đến Phật quả vì lợi ích tất cả chúng sinh, và để làm điều đó, con sẽ nuôi dưỡng phẩm hạnh này”. Quý vị có thể mắc một lỗi lớn khi giải trí bằng sự tự phụ sai lầm: “Tôi đã đạt được nó” với những thứ mà quý vị chưa hề đạt được. Sau đó nếu quý vị cho rằng tâm giác ngộ là giáo huấn cá nhân cốt lõi, tuy nhiên, thay vì rèn luyện trong nó, quý vị tìm kiếm một thứ gì khác và tu tập thứ đó, thì quý vị chỉ đang cho rằng đã vượt qua rất nhiều mức chứng ngộ khác nhau. [309] Nếu những ai biết về các điểm mấu chốt của Đại thừa nhìn thấy quý vị làm điều này, họ sẽ cười quý vị. Rất nhiều sách nói rằng những đứa con của các đấng Chiến Thắng vô thượng cũng rèn luyện Bồ-đề tâm như vậy trong nhiều kiếp lượng, coi đó là thực hành chính yếu quan trọng nhất. Cho nên có cần thiết để đề cập đến việc Bồ-đề tâm đó có thể ầm ĩ đạt đến bởi những người không có gì hơn là một hiểu biết thiển cận. Điều đó không có nghĩa là nó {Bồ-đề tâm} thật không thích hợp để thiền trên các đạo pháp khác, nhưng điều đó nói lên rằng quý vị phải trì giữ sự rèn luyện tâm giác ngộ như là giáo huấn cốt lõi và duy trì nó trong thiền.

Có những người mà thậm chí không có bất cứ kinh nghiệm nào kể trên,[26] nhưng vẫn biết về các tu tập Đại thừa và có niềm tin vững chắc vào Đại thừa. Đầu tiên họ phát triển Bồ-đề tâm, nhận các giới thông qua các nghi lễ, và sau đó rèn luyện tâm Bồ-đề. Ví dụ, trong Nhập Bồ-đề Hành Luận[27] đầu tiên mô tả về việc tiếp thụ tâm giác ngộ và nhận các giới rồi sau đó tiếp nhận các giải thích chi tiết làm sao để thực hành Bồ-đề tâm trong bối cảnh ổn định thiền (một trong sáu Ba-la-mật-đa, vốn là các tu tập tiếp theo để phát khởi tâm giác ngộ). Tuy nhiên, để xác lập quý vị trở thành người tiếp nhận thích hợp cho các thực hành này, trước tiên quý vị phải rèn luyện nhiều loại thái độ trước đó. Sau khi quý vị đã rèn luyện tâm mình bằng cách nghĩ về các lợi ích, bằng cách thực hành bảy chi cúng dường[28], bằng cách quy y, và sau khi quý vị đã hiểu những cách rèn luyện này, thì quý vị phát triển niềm mong mỏi duy trì Bồ-đề tâm.

Một vài người nói đúng, dù chỉ thông qua việc thốt ra những ngôn từ rằng để tiến bộ trên con đường tu tập, quý vị cần phải tăng trưởng kiến thức về tánh Không. Để tiến bộ trên đường tu, tương tự vậy quý vị cần duy trì tâm giác ngộ trong thiền và sau đó tăng cường nó lên hơn nữa trong những cách đặc biệt hơn khi quý vị ở mức cao hơn, nhưng những người này không chỉ đơn thuần nói suông. Đây là độc đạo đã được đi qua của tất cả các đấng Chiến Thắng, tức là hai mươi hai loại Bồ-đề tâm[29] được dạy trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận[30]. Hãy hiểu những điều này từ sự giải thích của các nhà tiên phong vĩ đại liên quan đến cách làm sao tiến bộ trên con đường tu tập bằng hai phương tiện: tâm giác ngộ và trí tuệ về tánh không. [310]

(c) Nuôi dưỡng sự quyết tâm tuyệt đối

Ở điểm kết thúc của thiền về tình yêu thương và lòng từ bi hãy nghĩ, “Chao ôi, những chúng sinh mà tôi hằng yêu quý này bị mất đi hạnh phúc và bị dày vò bởi những đau khổ; làm sao tôi có thể cho họ hạnh phúc và giải phóng họ khỏi khổ đau?” Nghĩ theo cách này, rèn luyện tâm quý vị ít nhất trong suy nghĩ như vậy để nhận lấy trách nhiệm giải phóng chúng sinh. Dù suy nghĩ này được miêu tả trong các hoàn cảnh của thực hành về đền đáp công ơn mẹ của quý vị; ở đây nó biểu thị rằng thật là chưa đủ để có lòng từ bi và tình yêu thương vốn chỉ nghĩ: “Sẽ tốt làm sao nếu họ có được hạnh phúc và được giải phóng khỏi khổ đau”. Vì, suy nghĩ này cho thấy trách nhiệm quý vị phải phát triển lòng từ bi và tình yêu thương để có khả năng tạo ra sự quyết tâm: “Tôi sẽ mang hạnh phúc và lợi lạc đến cho mọi chúng sinh”. Nó sẽ rất hiệu quả nếu quý vị thực hành điều này liên tục, luôn giữ chánh niệm về nó trong mọi hoạt động thế tục trong suốt giai đoạn hậu thời thiền và vv..., chứ không chỉ trong buổi thiền tập. Giai Trình Thiền phần hai của ngài Liên Hoa Giới có viết[31]:

Hãy nuôi dưỡng lòng từ bi này hướng về tất cả chúng sinh trong mọi thời, dù quý vị trong thiền định hay trong các hoạt động khác.

Lòng từ bi ở đây chỉ là một ví dụ; quý vị cần phải làm y hệt vậy khi duy trì bất cứ loại thiền nào. Đạo sư vĩ đại Nguyệt Quan có nói rằng [trong Tuyên Nhập Tụng (Deśanā-stava)]:[32]

Từ vô thủy, cây tâm thức

Đã thấm đượm mật đắng các khổ đau

Và ngươi chẳng thể làm dịu ngọt vị nếm của nó

Thì làm sao một giọt nước của phẩm tánh tốt có thể làm ảnh hưởng?

Vì vậy ngài nói, chẳng hạn quý vị không thể làm cho thân cây Tig-ta to lớn và đắng trở nên ngọt hơn bằng cách đổ chỉ một giọt nước đường vào nó. Tương tự vậy, dòng tâm thức đã thấm sâu những cảm xúc đau khổ cay đắng từ thời vô thủy không thể thay đổi hoàn toàn chỉ với một sự nuôi dưỡng các phẩm tánh tốt của tình yêu thương, lòng từ bi và vv.... Bởi vậy, quý vị cần duy trì thiền của mình một cách liên tục.

b’’ Rèn luyện lòng quyết tâm giác ngộ

Khi quý vị đã được truyền cảm hứng bởi những quá trình nêu ra trước đây và đã nhận thấy rằng quý vị cần giác ngộ vì lợi ích tất thảy chúng sinh, quý vị sẽ phát triển ước muốn thành tựu nó. [311] Tuy nhiên, đó chưa phải là đủ. Đầu tiên, hãy tăng trưởng tín tâm càng nhiều càng tốt bằng cách quán chiếu những phẩm tánh tốt của thân, khẩu và ý của đức Phật và các hoạt động giác ngộ của ngài như đã được giải thích trong chương về quy y.[33] Sau đó, như đã được dạy rằng niềm tin là nền tảng cơ bản của ước nguyện, hãy phát triển niềm mong muốn đạt được những phẩm tánh tốt này từ sâu thẳm trái tim của quý vị và hãy mang lại một sự chắc chắn rằng đạt đến toàn trí ngay cả vì lợi ích của chính mình cũng là hoàn toàn cần thiết.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân cho sự phát triển tâm giác ngộ, Như Lai Trí Ấn Định Kinh được trích trong Giai Trình Thiền, có nói rằng thật là đặc biệt nhất để phát triển nó cho chính quý vị, vượt qua bởi lòng từ bi.

c’’ Nhận diện Bồ-đề tâm, kết quả của sự rèn luyện

Định nghĩa tổng quát về tâm giác ngộ theo sau ý nghĩa được đưa ra trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận: [“Sự phát triển Bồ-đề tâm là mong muốn cho một sự giác ngộ toàn hảo vì phúc lợi của tha nhân”] được trích dẫn trước đó.[34] Liên quan đến các chương nhỏ, Nhập Bồ-đề Hành Luận theo cùng với phẩm Hoa Nghiêm và viết rằng đó là Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm hành:[35]

Chỉ như người ta phân biệt

Giữa mong muốn đi và đang đi

Tương tự thiện tri thức nên biết phân chia

Của hai thứ này theo thứ tự.

Mặc dù có rất nhiều bất đồng về hai loại đó là gì, hãy biết rằng nguyện ước là hoặc: “Xin cho con trở thành một vị Phật” hay: “Con sẽ thành Phật” vì lợi ích của tất cả chúng sinh và rằng chừng nào quý vị chưa nhận các giới [Bồ-tát], thì đó là {Bồ-đề} tâm nguyện vốn hiện diện, bất kể quý vị có tu tập trong hành động về Bố thí {trì giới, …} và vv.... Một khi quý vị thọ giới, tâm hiện diện là Bồ-đề tâm hành. Giai Trình Thiền phần một có đoạn:[36]

Bồ-đề tâm nguyện là ý định ban đầu: “Nguyện cho con thành Phật vì lợi ích của chúng sinh”. Bồ-đề tâm hành hiện diện một khi ngươi nhận các giới và dấn thân vào việc tích lũy các công đức và trí tuệ tối thượng.

Có rất nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề này, nhưng tôi không thảo luận chi tiết chúng ở đây. [312]

 


[1]Trong chương này chúng tôi dùng thuật ngữ thiên hướng, thiên kiến hay thành kiến để chỉ các trạng thái tâm không bình đẳng hay các cảm xúc, phán đoán mà không có các dữ kiện hay lý lẽ hợp lý để chứng minh cho chúng, chỉ thuần dựa theo cảm xúc hay cảm tình.

[2]BA30 Trong bối cảnh dụng công (chủ đề về Định từ thiền) btang snyoms được dịch là “tính bình thản”, nhưng trong hoàn cảnh của các cảm xúc và tứ vô lượng tâm, nó được dịch là sự không thiên vị hay bình đẳng, Xem Đại Luận quyển 3, chú thích 149.

[3]BA31 Bk2, D3916: Ki 42b7-43a4.

[4]BA32 Ārya-candrottama-dārikā-vyākaraṇa-nāma-mahāyānā-sūtra, D191: Tsa 231b4-5

[5]BA33 Lỗi lầm của sự không chắc chắn là điều đầu tiên trong sáu khổ đau. Xem LRCM: 221; Đại luận quyển 3: 281 – 282.

[6]BA34 Bk2; D3916: Ki 43a2-3.

[7]BA35 yogā-caryā-bhūmi (Sa’i dngos gzhi), D4034: Tshi 100b6-7. Về việc sử dụng thuật ngữ Sa’i dngos gzhi, xem Đại luận quyển 3, chú thích 45.

[8]BA36 Śiṣya-lekha: 95; D4183: Nge 52a1.

[9]BA37 Ibid: 96-97; D4183: Nge 52a1-3.

[10]BA38 Guṇāparyanta-stotra, D1155: Ka 196b3-4.

[11]BA39 Madhyamaka-hṛdaya D3855: Dza2b2-3.

[12]BA40 Nāga-rāaja-bherī-gāthā, {nghĩa là Các bài kệ về trống của Long Vương} D235: Sa 205b3-4.

[13]BA41 śikṣā-samuccaya, Vaidya 1961b: 195; D3940: Khi 194a5-6.

[14]BA42 trích dẫn từ śikṣā-samuccaya, D3940: Khi 171b2-3. Cf Samādhi-rāja-sūtra, Vaidya 1961a: 169; D127: Da115b6.

[15]BA43 Ārya-Mañjuśrī-buddha-kṣetra-guṇa-vyūha- mahāyānā-sūtra, {Văn-thù-sư-lợi Phật Độ Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh} D59: Ga 262b4-263a1.

[16]BA44 Rā: 5.283-285; Hahn 1982: 88.

[17]Một số nơi dịch thành Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, trong khi tên thật sự nên đặt theo lối chữ thuần Việt là Kinh Ánh Sáng Vàng. Ở đây, chúng ta dùng lối đặt tên Hán-Việt cho thống nhất với hầu hết tên kinh điển Việt ngữ hiện tại đều dùng từ Hán-Việt.

[18]BA45 Ārya-suvarṇa-prabhāsottama-sῡtrendra-rāja-nāma-mahāyānā-sūtra, D556: Pa 172a1.

[19]Nhắc lại ba loại khổ bao gồm: (1) khổ vì đau đớn (khổ khổ), (2) khổ vì sự thay đổi (hành khổ) và (3) khổ vì duyên sinh (hoại khổ). Xem thêm chi tiết trong Tứ Diệu Đế. Chương hai. Ba Loại Khổ. Dalai Lama. Truy cập: 24/12/2011.

 <http://www.quangduc.com/coban-2/374tudieude2.html>.

[20]BA46 Bk1, Tucci 1958: 500; D3915: Ki 23b4-7.

[21]BA47 LRCM: 209-232; Đại luận quyển 1: 268-295.

[22]BA48 Bbh, P5538: 190.5.1-192.1.1.

[23]BA49 Bk1, Tucci 1958: 500; D3915: Ki 23b7-24a1.

[24]BA50 Ibid. D3915: Ki 24a2.

[25]BA51 Mahāyāna-saṃgraha, D4048: Ri 31b1.

[26]BA52 Ba-so-chos-kyi-rgyal-mtshan (mChan: 587.6) nói rằng điều này chỉ đến LRCM: 308.08, một cách không dụng công phát sinh Bồ-đề tâm. 

[27]BA53 BCA: 3.22-26.

[28]Bảy chi cúng dường có nguồn gốc từ các hạnh nguyện Phổ Hiền. Phần giảng giải nhắc đến ở đây là một số đoạn kệ có trong Nhập Bồ-đề Hành Luận của Ngài Tịch Thiên. Đức Dalai Lama đã có một buổi thuyết giảng riêng về Phát Bồ-đề Tâm Nguyện và có chỉ dạy chi tiết về bảy chi cúng dường này. Trong đó bao gồm: (1) Đảnh lễ và (2) cúng dường chư Phật, chư Bồ-tát, (3) Xin sám hối sai phạm của mình từ vô thủy, (4) Chia sẻ vui mừng về mọi hành vi công đức nhằm đem lại hạnh phúc cho chúng sinh, (5) Cầu xin chư Phật mười phương dùng giáo pháp để hóa độ chúng sinh, (6) Cầu xin chư Phật không nhập vô dư niết-bàn để cứu độ chúng sinh, (7) Xin hồi hướng tất cả công đức để tẩy trừ đau khổ của tất cả chúng sinh. The Teaching on Aspirational Bodhicitta. Dalai Lama. Tibetan Cultural Center. Bloomington, Indiana July 27, 1996. Truy cập: 24/12/2011.

 <http://www.bodhicitta.net/The%20Teaching%20on%20Aspirational%20Bodhicitta.htm>.

[29] Các trạng thái Bồ-đề tâm được phân loại theo cách so sánh hình ảnh. Theo như bản luận Bát-nhã Ba-la-mật-đa Thích Hiện Quán Trang Nghiêm Phẩm của ngài Sư-tử Hiền (skt. Haribhadrā) thì 22 dạng Bồ-đề tâm, so sánh tương ứng và đặc tính là:

 (1) nguyện ước – đất – đặc tính nền tảng của tất cả các pháp thiện đức

 (2) ý tưởng – vàng ròng – không đổi cho đến khi giác ngộ

 (3) ý tưởng đặc biệt – trăng non – tăng trưởng hoàn toàn tất cả các phẩm hạnh

 (4) dụng công – lửa – đốt tan nhiên liệu của ngăn che bằng tam minh bao gồm túc mạng minh (thấy biết được các tiền kiếp), thiên nhãn minh (biết cái chết và tái sanh của các loài hữu tình) và lậu tận minh (đoạn trừ tất cả các tham dục lậu hoặc)

 (5) bố thí – kho châu báu lớn – thỏa mãn cho tất cả chúng sinh

 (6) trì giới – đá quý – hỗ trợ đúng đắn các phẩm chất quý giá

 (7) nhẫn nhục – đại dương – không bị quấy nhiễu bởi các sự kiện không mong muốn

 (8) tinh tấn – kim cương – không thay đổi thông qua sự thuyết phục mạnh mẽ

 (9) định lực từ thiền – vua của các ngọn núi – không chao động bởi những xao lãng

 (10) trí huệ – dược thảo – làm bình lặng hoàn toàn các căn bệnh của ảo tưởng và che chướng

 (11) phương tiện thiện xảo – hướng dẫn tinh thần – không bỏ rơi quyền lợi của chúng sinh trong mọi trường hợp

 (12) cầu nguyện – viên ngọc ước – đạt được các thành quả mong muốn tương ứng

 (13) năng lực – mặt trời – hoàn toàn chín muồi công đức trong tâm thức các đệ tử

 (14) trí huệ cao thượng – nhạc thiên cung – chỉ ra giáo pháp làm cho đệ tử cảm hứng

 (15) trí thấu suốt – đại vương – hoàn tất các lợi ích cho tha nhân thông qua năng lực vô ngại

 (16) công đức và trí huệ – kho báu – như các kho báu của hai bồ tư lương

 (17) các Pháp tương ứng với lớp giác ngộ – đại lộ – sẽ đi trên con đường mà các thánh nhân đi

 (18) từ bi và tuệ giác siêu việt – ngọn núi – không rơi vào cả luân hồi lẫn niết-bàn, đi lại dễ dàng

 (19) trì giữ và can đảm – dòng suối – bám trụ vào các pháp đã nghe và chưa nghe không mệt mỏi

 (20) Pháp hội – âm thanh êm dịu – công bố một cách hài lòng các đệ tử mong muốn giải thoát

 (21) độc đạo được đi qua – dòng sông – không khác khi tiến hành lợi ích cho tha nhân

 (22) có được Pháp thân – mây – khả năng luôn có thể tiến hành 12 hành vi Phật như nhập cõi Đâu xuất hay Tịnh độ, nhập thai mẹ, tái sinh, có kỹ năng công nghệ, hỷ lạc với các đối ngẫu, phát triển từ bỏ thế tục và thành tu sĩ, tu tập khổ hạnh trong 6 năm, tu tập dưới chân cội bồ-đề, vượt thắng ma vương, toàn giác, chuyển pháp luân, và nhập đại bát niết-bàn.

[30]BA54 AA: 1.19-20, trích dẫn ở đây như là Pha rol tu phyin pa’i man ngag gi bstan bcos, Luận giảng về Bát-nhã Ba-la-mật-đa Luận (Prajñāpāramitopadeśa śāstra).

[31]BA55 Bk2, P5311: 31.2.3-4.

[32]BA56 Deśanā-stava, D1159: Ka206a5.

[33]BA57 LRCM: 134-140; Đại luận quyển 1: 181-187.

[34]BA59 LRCM: 291.14.

[35]BA60 BCA: 1.15; Gaṇḍa-vyūha-sūtra, D44: A 308a7-b1.

[36]BA61 Bk1, Tucci 1958: 503; D3915: Ki 25a3-4.

Xem mục lục