Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Bốn   3. GIỚI: SÁT SINH.                              PHẦN ÐẦU CỦA GIỚI THỨ BA,                              TRONG 4 GIỚI BA LA DI Khi Phật ở tại Tỳ Xá Ly, có một                              Tỳ kheo bị bệnh lâu ngày không bớt. Thầy Tỳ kheo                              nuôi bệnh đâm ra mỏi mệt chán ngán, liền nói với Tỳ                              kheo có bệnh: "Trưởng lão! Tôi nuôi bệnh đã lâu ngày,                              không được phụng sự Hòa thượng, Thầy Giáo thọ, cũng                              không được thọ trì Kinh, tụng Kinh và tư duy hành                              đạo. Trưởng lão mang bệnh đã lâu ngày, chữa trị cũng                              không hết, tôi cũng khổ sở lây". Thầy Tỳ kheo có                              bệnh nói: "Thế thì phải làm sao? Tôi cũng đau đớn                              thống khổ không sao chịu nổi. Nếu thầy có thể giết                              tôi chết thì hay lắm". Thầy Tỳ kheo ấy liền giết vị                              kia. Các Tỳ kheo hay được liền đem đầy đủ mọi tình                              tiết bạch lên Thế Tôn.   Thế Tôn dạy: "Gọi Tỳ kheo ấy                              đến".   Khi thầy ấy đến rồi, Phật bèn                              hỏi kỹ các việc trên: "Tỳ kheo! Ông có làm việc ấy                              thực chăng?"  Ðáp: "Có thực, bạch Thế Tôn".                               Phật khiển trách: "Này kẻ ngu                              si! Ông không từng nghe ta dùng nhiều phương tiện ca                              ngợi những người sống phạm hạnh có thân từ ái, miệng                              từ ái và ý từ ái, cúng dường cung cấp những thứ cần                              thiết cho họ là gì? Nay vì sao ông tự tay sát hại                              mạng sống của người? Ðó là điều phi pháp, phi luật,                              trái lời Phật dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi                              lớn thiện pháp được".  Bấy giờ, Phật ra lệnh cho các                              Tỳ kheo đang sống tại Tỳ Xá Ly phải tập họp lại tất                              cả, vì mười điều lợi ích mà chế giới cho các Tỳ kheo,                              dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:  - Nếu Tỳ kheo tự tay mình sát                              hại mạng người, thì phạm tội Ba La Di, không được                              sống chung với Tăng chúng.  Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, có một Tỳ kheo bị bệnh, chữa trị lâu ngày mà                              không dứt. Thầy Tỳ kheo nuôi bệnh mệt mỏi, chán ngán,                              bèn nói với Tỳ kheo có bệnh: "Trưởng lão! Từ ngày                              tôi nuôi bệnh đến nay đã lâu mà không được phụng sự                              Hòa thượng, thầy Giáo thọ, không được thọ trì Kinh,                              tụng Kinh, tư duy hành đạo. Trưởng lão mang bệnh đã                              lâu ngày chữa trị không dứt, mà tôi cũng khổ lây".                              Thầy Tỳ kheo có bệnh nói: "Thế thì phải làm sao?                              (254a) Tôi cũng đã chán nỗi thống khổ này không thể                              chịu nổi. Nếu thầy có thể giết tôi chết thì rất tốt".                              Thầy Tỳ kheo ấy nói: "Ðức Thế Tôn chế giới không                              được tự tay mình giết người". Tỳ kheo có bệnh nói: "Nếu                              thầy không thể tự tay mình giết tôi, thì thầy có thể                              vì tôi đi tìm một kẻ cầm dao đến đây". Lúc ấy, thầy                              Tỳ kheo nuôi bệnh bèn đi đến chỗ một ngoại đạo là                              Lộc Trượng, nói: "Lão trượng, ông có thể giết vị Tỳ                              kheo mỗ giáp kia, thì tôi cho ông y bát". Y bèn theo                              lời, giết thầy ấy rồi lấy y bát.   Các Tỳ kheo biết được việc đó,                              liền đem đầy đủ mọi sự tình bạch lên Thế Tôn.   Phật bảo: "Ði gọi thầy Tỳ kheo                              nuôi bệnh đến đây".   Khi Tỳ kheo ấy đến, Phật hỏi: "Có                              thực ông làm việc đó chăng?"  Ðáp: "Ðúng vậy!"Phật khiển                              trách: "Ngươi chẳng từng nghe ta dùng vô lượng                              phương tiện khen ngợi những người sống phạm hạnh có                              thân từ ái, miệng từ ái, ý từ ái, cúng dường cung                              cấp những vật cần thiết cho họ là gì? Nay vì sao ông                              tìm người cầm dao giết chết mạng người? Ðó là việc                              phi pháp, phi luật, chẳng phải điều ta dạy, không                              thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được".  Thế rồi Phật ra lệnh cho các Tỳ                              kheo sống chung quanh Tỳ Xá Ly phải tập họp lại đầy                              đủ. Ngài bèn vì mười lợi ích chế giới cho các Tỳ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:  - Nếu thầy Tỳ kheo tự tay giết                              người, hoặc tìm người cầm dao đến giết, thì Tỳ kheo                              ấy phạm tội Ba La Di, không được sống chung (với                              tăng chúng).  Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, có một Tỳ kheo bị bệnh lâu ngày. Rồi thầy Tỳ                              kheo nuôi bệnh nói với Tỳ kheo bị bệnh dai dẳng ấy                              như sau: "Tôi không thọ trì Kinh, tụng Kinh, tư duy                              hành đạo được. Lại phải đi đến người ta tìm kiếm                              những thức ăn uống, thuốc thang phù hợp với người                              bệnh khiến thiên hạ đều chán ngấy tôi. Tôi cũng khổ                              sở chẳng kém". Thầy Tỳ kheo bệnh nói: "Thế thì phải                              làm sao? Tôi cũng chán nỗi đau đớn này, không thể                              chịu nổi nữa. Nếu thầy giết tôi chết thì tốt lắm".                              Tỳ kheo ấy liền nói: "Thầy không nghe Thế Tôn chế                              giới không được tự tay giết người hay sao?". Tỳ kheo                              bệnh nói: "Nếu vậy thì thầy vì tôi đi gọi giúp người                              cầm dao đến đây". Tỳ kheo ấy lại nói: "Thầy không                              nghe Thế Tôn chế giới không được đi tìm người cầm                              dao về giết người hay sao?"Tỳ kheo bệnh nói: "Thế                              thì thầy bảo phải làm sao?" Tỳ kheo nuôi bệnh đáp: "Thầy                              chỉ cầu được sống không muốn chết, chứ nếu muốn chết                              thì thầy có thể tìm dao dể tự sát, hoặc là uống                              thuốc độc, hoặc dùng dây tự thắt cổ, hoặc nhảy xuống                              hố, lao vào lửa, hoặc ôm đá dìm mình xuống sông,                              phương pháp tự sát thật là đa dạng". Ca ngợi như thế                              rồi, thầy bèn ra khỏi trú xứ. Sau đó Tỳ kheo có bệnh                              bèn tự sát. Các Tỳ kheo bèn đem (254b) việc ấy bạch                              đầy đủ lên Thế Tôn.   Thế Tôn dạy: "Hãy gọi Tỳ kheo                              nuôi bệnh đến đây".   Khi vị ấy đến, Phật hỏi kỹ sự                              việc trên: "Ông có làm thực như thế chăng?"  Ðáp: "Thật như thế."  Phật nói: "Ông không từng nghe                              ta dùng vô số phương tiện khen ngợi những người sống                              phạm hạnh, có thân từ ái, miệng từ ái và ý từ ái, và                              khuyên cúng dường cung cấp cho họ những thứ cần                              thiết là gì? Nay vì sao ông lại ca ngợi sự chết?                              Ðiều đó là phi pháp, phi luật, không đúng lời ta dạy.                              Không thể dùng việc này để nuôi lớn thiện pháp".                               Thế rồi Phật ra lệnh cho các Tỳ                              kheo sống xung quanh Tỳ Xá Ly tập họp lại tất cả,                              những ai nghe rồi cũng phải nghe lại và căn cứ                              mườilợi ích mà chế giới cho các Tỳ kheo như sau:  - Nếu Tỳ kheo tự tay mình giết                              người, hoặc đi tìm người cầm dao đến giết, hoặc bảo                              họ chết, ca ngợi sự chết, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Ba                              La Di, không được sống chung với chúng tăng.  Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, nói rộng như trên... Khi Lộc Trượng ngoại đạo                              giết Tỳ kheo rồi, lòng rất sầu não, suy nghĩ "Ta nay                              vì sao lại giết người sống phạm hạnh, tạo tội ác như                              thế? Sau khi ta mệnh chung, làm sao khỏi rơi vào                              đường ác, sa vào địa ngục?"  Bấy giờ, Thiên Ma Ba Tuần                              thường tạo điều kiện để làm tăng trưởng các việc ác,                              liền từ trên không trung nói với ngoại đạo: "Ông chớ                              nên ưu sầu lo sợ đọa vào đường ác. Vì sao thế? -                              Việc làm của ông hôm nay là khiến cho người ta thoát                              được khổ hoạn, những ai chưa được độ thì được độ,                              thực là công đức vô lượng". Khi đó, ngoại đạo ấy suy                              nghĩ: "Ta giết Tỳ kheo, ắt thu được phước lớn, cho                              nên Chư Thiên tùy hỷ khen là việc tốt". Suy nghĩ thế                              rồi, y bèn cầm dao bén đi đến các tăng phòng và                              những chỗ kinh hành rao lớn cho các Tỳ kheo nghe:                              "Ai muốn thoát khổ, ai muốn được độ, ta sẽ làm cho                              hết khổ, ta sẽ độ cho".  Bấy giờ, đức Thế Tôn giảng về                              pháp môn Bất tịnh quán cho các Tỳ kheo . Các Tỳ kheo                              tu pháp bất tịnh quán chán ngấy nỗi khổ của thân,                              trong số họ có người dùng dây thắt cổ, có người uống                              thuốc độc, có kẻ dùng dao tự sát, có kẻ nhảy xuống                              hố, kẻ lao vào lửa, tự vẫn rất đông. Họ còn bị Lộc                              Trượng ngoại đạo trước sau giết không phải một người,                              hai người, ba, bốn, năm người, mười người mà cả thảy                              sáu mươi người. Lúc ấy vào ngày rằm hằng tháng, đức                              Thế Tôn đang ngồi giữa chúng tăng, định làm lễ Bố                              tát. Ngài nhìn xung quanh thấy chúng Tăng thưa thớt,                              bèn hỏi A Nan: "Hôm nay chúng Tỳ kheo vì sao mà ít                              thế? Vì sao không thấy Tỳ kheo A, B,.v.v...?"  A Nan liền bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn đã vì các Tỳ kheo giảng                              về pháp Bất tịnh quán, ca ngợi công đức tu tập pháp                              Bất tịnh quán (254c). Các Tỳ kheo siêng năng tu pháp                              Bất tịnh quán... Sau khi tu pháp quán Bất tịnh họ                              rất chán cái thân này. Do thế có người cầm dao tự                              sát. Thậm chí có người còn nhờ Lộc Trượng ngoại đạo                              giết mình; chỉ trong nửa tháng mà mất sáu mươi người.                              Những ai không đến đều đã mệnh chung, rất mong Thế                              Tôn dạy cho pháp khác, để các Tỳ kheo khỏi chán xác                              thân mà tự sát, hầu các bậc Hiền thánh còn tồn tại                              lâu ở thế gian, đem lại lợi ích cho trời, người".                              Thế rồi, Phật bảo A Nan: "Có                              pháp thiền định khác khiến các Tỳ kheo thích thú,                              siêng tu mà không nhàm chán xác thân. Ðó là pháp                              niệm hơi thở vô và hơi thở ra. A Nan! Thế nào là Tỳ                              kheo tu tập pháp niệm hơi thở vô hơi thở ra, được                              thành tựu, chứng ngộ, du hí trong an lạc? Ðó là, nếu                              Tỳ kheo cư trú nơi thành ấp, xóm làng, khi đến giờ,                              khoác y, cầm bát vào thành khất thực, thu nhiếp thân,                              khẩu, ý, khéo nghĩ nhớ đến thân mình, không để tâm                              dong ruổi, thường giữ chánh định, nhiếp trì các căn                              mà đi khất thực. Khất thực xong, trở về trú xứ tìm                              một chỗ vắng vẻ mà ngồi yên. Nghĩa là tìm một chỗ                              trống, khe suối, hang núi hay nghĩa trang mà ngồi                              thiền rồi đoạn trừ tham dục, sân hận, ngủ nghỉ, trạo                              cử, hoài nghi và diệt trừ các chướng ngại, trí tuệ                              sáng tỏa, buộc niệm tại hơi thở, khi hít vào biết là                              hít vào, khi thở ra biết là thở ra.  1- Khi hít vào dài biết là hít                              vào dài, khi thở ra dài biết là thở ra dài.  2- Khi hít vào ngắn biết là hít                              vào ngắn. Khi thở ra ngắn, biết là thở ra ngắn.  3- Khi hơi thở vào khắp thân                              thể, biết là hơi thở vào khắp thân thể. Khi hơi thở                              ra khắp thân thể, biết là hơi thở ra khắp thân thể.                              4- Khi hơi thở vào thân buông                              xả, biết là hơi thở vào thân buông xả. Khi hơi thở                              ra thân buông xả, biết là hơi thở ra thân buông xả.                              5- Khi thở vào hoan hỷ, biết là                              thở vào hoan hỷ. Khi thở ra hoan hỷ, biết là thở ra                              hoan hỷ.  6- Khi thở vào an lạc, biết là                              thở vào an lạc. Khi thở ra an lạc, biết là thở ra an                              lạc.  7- Khi thở vào có ý thức, biết                              là thở vào có ý thức. Khi thở ra có ý thức, biết là                              thở ra có ý thức.  8- Khi thở vào có ý hành xả,                              biết là thở vào có ý hành xả. Khi thở ra có ý hành                              xả, biết là thở ra có ý hành xả.  9- Khi thở vào có tâm hiện diện,                              biết là thở vào có tâm hiện diện. Khi thở ra có tâm                              hiện diện, biết là thở ra có tâm hiện diện.  10- Khi thở vào tâm vui vẻ,                              biết là thở vào tâm vui vẻ. Khi thở ra tâm vui vẻ,                              biết là thở ra tâm vui vẻ.  11- Khi thở vào tâm định tĩnh,                              biết là thở vào tâm định tĩnh. Khi thở ra tâm định                              tĩnh, biết là thở ra tâm định tĩnh.  12- Khi thở vào tâm giải thoát,                              biết là thở vào tâm giải thoát. Khi thở ra tâm giải                              thoát, biết là thở ra tâm giải thoát.  13- Khi thở vào vô thường, biết                              là thở vào (255a) vô thường. Khi thở ra vô thường,                              biết là thở ra vô thường.  14- Khi thở vào đoạn diệt, biết                              là thở vào đoạn diệt. Khi thở ra đoạn diệt, biết là                              thở ra đoạn diệt.  15- Khi thở vào không tham dục,                              biết là thở vào không tham dục. Khi thở ra không                              tham dục, biết là thở ra không tham dục.  16- Khi thở vào tịch diệt, biết                              là thở vào tịch diệt. Khi thở ra tịch diệt, biết là                              thở ra tịch diệt.  Như thế đó A Nan, suy nghĩ như                              vậy, gọi là thích thú, khéo học, không nhàm chán xác                              thân, khiến cho các bậc hiền thánh an trú lâu ở thế                              gian, làm lợi ích cho trời, người. Rồi Phật ra lệnh                              cho các Tỳ kheo sống xung quanh Tỳ Xá Ly tập họp lại                              hết, ai nghe rồi cũng phải nghe lại, vì mười lợi ích                              chế giới cho các Tỳ kheo như sau:  -- Nếu Tỳ kheo tự tay giết                              người, hoặc tìm người cầm dao đến giết, hoặc xúi                              giục tự tử, hoặc ca ngợi sự chết, như nói: "Ôi! Kẻ                              nam tử, sống với cái thân nhơ uế để làm gì, chết còn                              hơn sống". Dùng phương tiện ca ngợi rằng chết là                              thích thú, với ý nghĩ như thế, tư tưởng như thế chứ                              không có gì khác, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Ba La Di,                              không được sống chung với tăng chúng.   Giải thích  Tỳ kheo: (Ðã chú                              thích ở giới thứ nhất)  Tự tay mình: Ðó                              là: Tự thân, thân phần, thân thế lực.  Tự thân: Dùng cả                              toàn thân mình đè lên để giết người thì phạm Ba La                              Di. Ðó gọi là tự thân.  Thân phần: Hoặc                              dùng tay, cùi chỏ, gót chân, đầu gối, hoặc các bộ                              phận khác để giết người, thì phạm Ba La Di. Ðó gọi                              là thân phần.  Thân thế lực:                              Hoặc dùng gậy, dùng đá, dùng gạch, từ xa để ném giết                              người thì phạm Ba La Di. Ðó gọi là thân thế lực.  Người: Thuộc loài                              người, có mạng sống.  Giết chết: Khiến                              cho tứ đại của người ấy bị phân tán, mạng sống không                              còn tiếp tục. Ðó gọi là giết chết.  Ði tìm: Là đi tìm                              người cầm dao hoặc là nam, nữ, lớn, nhỏ, hoặc xuất                              gia, tại gia.  Dao: Hoặc là kiếm                              kích, hoặc dao dài, dao ngắn, hoặc xà mâu, vòng sắt,                              tất cả những khí giới sắt bén cho đến cây kim.v.v...                              Khen ngợi sự chết:                              Tức là nói: Sống với cái thân ô uế để làm gì, chết                              còn hơn sống. Ý nghĩ như vậy là ý nghĩ sát hại, tư                              tưởng như vậy là tư tưởng sát hại. Khen ngợi chết là                              thích thú để mong người ấy chết, chứ không có lý do                              nào khác. Do đó mà họ chết, thì Tỳ kheo ấy phạm Ba                              La Di, không được sống chung.  Ba La Di: (Ðã                              giải thích ở giới thứ nhất)  (255b) Tỳ kheo giết người: Hoặc                              dùng dao giết, hoặc dùng thuốc độc giết, hoặc bôi                              thuốc lên mình, hoặc cho mửa ra, cho đại tiện, hoặc                              làm đọa thai để giết, hoặc nói về tướng trạng, hoặc                              ca ngợi sự tự sát.  Giết bằng dao:                              Hoặc dùng gươm, dao lớn, dao nhỏ, cho đến dùng                              kim.v.v... Khi có tâm sát hại mà thân động thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni. Khi chạm đến thân họ, thì phạm tội                              Thâu lan giá. Do đó mà họ chết chứ không có lý do                              nào khác, thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là giết bằng                              dao.  Giết bằng thuốc độc:                              Thuốc độc có ba loại, là: Thuốc độc sống, thuốc độc                              bào chế, chất độc của loài vật.  Thuốc độc sống:                              Có những nước, đất ở đó sinh ra cây thuốc độc, như                              nước Nghê Lâu Sinh có cây thuốc độc thắng cừ, nước                              Uất Xà Ni sinh có cây thuốc độc già la. Ðó gọi là                              thuốc độc sống.  Thuốc độc bào chế:                              Như trường hợp thợ săn dùng rễ, cành, hoa, lá hợp                              lại chế thành thuốc độc. Ðó gọi là thuốc độc bào chế.                              Chất độc của loài vật:                              Như chất độc của rắn, chất độc của loài Na Câu La,                              chất độc của mèo, chất độc của chuột, chất độc của                              chó, chất độc của gấu, chất độc của người (?). Các                              chất độc như thế gọi là chất độc của loài vật.  Bôi lên mình: Nếu                              Tỳ kheo vì muốn giết người bèn dùng tay cầm ba loại                              thuốc độc, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu bôi lên mình họ thì phạm                              tội Thâu lan giá. Người ấy do thế mà chết, thì phạm                              tội Ba La Di. Ðó gọi là giết bằng thuốc.  Bôi thuốc mà giết:                              Nếu Tỳ kheo muốn giết người, tự tay cầm thuốc độc                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni, thoa thuốc vào thân phần                              người khác, phạm Thâu Lan Giá. Nếu người ấy do đó mà                              chết, phạm tội Ba La Di.  Cho thuốc mửa ra:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên chế ra thuốc mửa,                              suy nghĩ: "Ta đưa loại thuốc này cho người ấy uống                              để cho y mửa ra máu huyết, gan mật", thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Khi đưa thuốc cho người ấy thì phạm tội                              Thâu Lan Giá.  Người ấy vì uống thuốc mửa đó                              mà chết, thì phạm tội Ba La Di.  Cho thuốc đại tiện:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên chế ra thuốc đại                              tiện, và suy nghĩ: "Ta đưa thuốc này cho người ấy                              uống, để y đại tiện ra máu huyết và gan mật", thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu đưa thuốc cho người ấy, thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu người ấy do thuốc đó mà                              chết thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là dùng thuốc đại                              tiện để giết.  Làm đọa thai để giết:                              Nếu Tỳ kheo muốn giết bà mẹ mà làm cho đọa thai, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.  Hoặc muốn làm đọa thai mà bà mẹ                              chết, thì cũng phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu muốn giết người mẹ mà người                              mẹ chết, thì phạm tội Ba La Di.  Nếu muốn làm đọa thai mà một                              phần của thai nhi, hoặc cả thai bị trục ra, thì phạm                              tội Ba La Di.  Nếu làm đọa thai loài vật thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni. Ðó gọi là làm đọa thai để giết.                              Nói tướng trạng:                              Nếu Tỳ kheo nói với người kia rằng: "Theo chỗ thấy                              của tôi hiện giờ thì ông nhất định sẽ chết. Ông nên                              tự sát, chứ sống khổ sở để làm gì!"Người ấy do thế                              mà chết, (255c) thì Tỳ kheo này phạm tội Ba La Di.                              Hoặc nói: "Như tôi thấy trong                              mộng thì nay ông nhất định sẽ chết"  Hoặc nói: "Tôi nghe tiếng chó                              sói, chim cú, chim quạ kêu. Nay tôi thấy trên mũi                              ông hiện lên sắc đen, ông chắc chắn sẽ chết. Ông nên                              tự sát, chứ sống khổ sở để làm gì!"Người đó do thế                              mà chết, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Ba La Di.  Hoặc hỏi: "Ông bao nhiêu tuổi?".                              Ðáp: "Tôi chừng ấy tuổi". Lại nói: "Tôi rất rành số                              mạng. Năm nay ông chắc chắn sẽ chết, chi bằng ông tự                              sát là hơn, chứ để cái thân ô uế này sống mà làm gì!"                              Người đó do thế mà chết, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Ba                              La Di.  Hoặc hỏi: "Ông thuộc về sao gì?"                              Ðáp: "Tôi thuộc về sao như thế". Lại nói: "Tôi hiểu                              rõ sao đó, nên biết năm nay ông nhất định sẽ chết,                              không nghi ngờ gì nữa. Vì sao ông không tự sát mà                              sống khổ sở để làm gì?"  Hoặc hỏi: "Ông tên gì?". Ðáp: "Tôi                              tên là A". Lại nói: "Tôi biết tất cả các tên tuổi.                              Ông nhất định sẽ chết".  Lại hỏi: "Ông họ gì?". Ðáp: "Tôi                              họ mỗ". Lại nói: "Tôi biết rất rành các dòng họ, năm                              nay ông nhất định sẽ chết".  Lại hỏi: "Ông ăn thứ gì?". Ðáp:                              "Tôi ăn thức ăn như thế". Bèn bảo họ mửa ra. Mửa rồi,                              liền nói: "Ông ăn thức ăn như thế chắc chắn sẽ chết,                              không nghi ngờ gì nữa".  Lại hỏi: "Ông ăn tại đâu?". Ðáp:                              "Ăn tại chỗ đó". Bèn bảo họ mửa ra. Mửa rồi, liền                              nói: "Chỗ đó có chất độc. Nay ông chắc chắn sẽ chết,                              sao không tự sát cho rồi, chứ sống khổ sở để làm gì?"                              Người đó do thế mà chết, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Ba                              La Di.  Tóm lại, nếu Tỳ kheo vì muốn                              giết người nên cố ý nói về tướng trạng, thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Người đó nghe lời dùng phương tiện định                              tự sát, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu họ đã tự sát,                              thì phạm tội Baladi. Ðó gọi là nói tướng trạng để                              giết.  Ca ngợi sự tự sát:                              Nếu Tỳ kheo hỏi một người bố thí, hoặc trì giới có                              kết quả: "Ông có bố thí không?". Ðáp: "Có bố thí".                              Tỳ kheo nói: "Ông đã tạo được công đức, ắt sinh vào                              cõi thiện, sao không tự sát đi mà sống khổ sở để làm                              gì?". Ðó là trường hợp bố thí.  Hoặc Tỳ kheo hỏi một người trì                              giới: "Ông có giữ giới không?". Ðáp: "Có giữ giới".                              Lại nói: "Ðức Thế Tôn dạy rằng:                              Kẻ trì giới sẽ sinh về hai nơi, hoặc trên trời, hoặc                              cõi người; sao ông không tự sát mà còn sống khổ sở                              để làm gì?" Ðó gọi là ca ngợi kết quả giữ giới. Tỳ                              kheo lại nói: "Ông đã được quả Tu đà hoàn, không còn                              đọa vào đường ác, tối đa là sinh lại trong cõi trời                              người bảy lần nữa rồi chấm dứt khổ đau, đóng cửa ác                              thú, sao không tự sát mà còn sống khổ sở để làm gì?".                              Hoặc nói: "Ông đã được quả Tư                              đà hàm, còn một lần sinh lại thế gian rồi chấm dứt                              khổ đau, sao không tự sát mà sống khổ sở để làm gì?"                              Hoặc nói: "Ông đã được quả A na                              hàm, không còn trở lại thế gian nữa (256a), mọi khổ                              đau đã kết thúc sao không tự sát, mà còn sống khổ sở                              để làm gì?"  Hoặc nói: "Ông đã được quả A la                              hán, sạch hết dâm, nộ, si, không vướng phiền não,                              tâm được tự tại, sao không tự sát mà còn sống khổ sở                              để làm gì?"  Tóm lại, nếu Tỳ kheo vì muốn                              giết người nên ca ngợi kết quả của sự bố thí, trì                              giới, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.  Khi người ấy tìm phương tiện để                              tự sát, thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu họ đã tự sát thì phạm tội                              Ba La Di.  Lại có các trường hợp                              giết người khác: Hoặc đi, hoặc đặt cạm bẫy,                              hoặc dùng Tỳ Ðà La chú, hoặc thuốc bột, hoặc ô mãn                              thổ, hoặc hầm hố, hoặc a ba khâm mãn, hoặc chỉ đường,                              hoặc chỉ sông, hoặc đại thần, hoặc Tăng phường, hoặc                              cọp, hoặc ngoại đạo...  Giết khi đi: Hoặc                              10 người, hoặc 20 người cùng đi trên đường, rồi Tỳ                              kheo vì trước đó có thù oán, muốn hại người đi trước                              mà hại lầm người đi giữa, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Hoặc muốn hại người đi giữa mà                              hại lầm người đi sau cũng phạm tội Việt Tỳ Ni.  Hoặc muốn hại người đi sau mà                              hại lầm người đi giữa cũng phạm tội Việt Tỳ Ni.  Hoặc muốn hại người đi giữa mà                              hại lầm người đi đầu cũng phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nhưng muốn hại người đi đầu mà                              hại đúng người đi đầu thì phạm tội Ba La Di.  Hoặc muốn hại người đi giữa mà                              hại đúng người đi giữa cũng phạm tội Ba La Di.  Hoặc có ý muốn giết tất cả, thì                              tùy người nào bị giết liền phạm tội Ba La Di. Ðó gọi                              là giết khi đi.  Giết bằng đặt cạm bẫy:                              Nếu Tỳ kheo có tâm giết hại, làm cạm bẫy, thì khi                              đem cạm bẫy đặt ở giữa đường liền phạm tội Việt Tỳ                              Ni. Khi người ấy bị đau đớn, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá.  Nếu người ấy chết, thì phạm tội                              Ba La Di. Ðó gọi là giết bằng đặt cạm bẫy.  Giết bằng tỳ đà la chú:                              Nếu Tỳ kheo muốn giết người, bèn làm tỳ đà la chú                              thì khi làm chú, phạm tội Việt Tỳ Ni. Khi người ấy                              đâm ra sợ hãi, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khi người                              ấy chết thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là dùng chú Tỳ                              đà la để giết.  Giết bằng thuốc bột:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên làm thuốc bột.                              Khi làm nghĩ rằng: "Ta sẽ đem món thuốc này đến giết                              người ấy", thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu thuốc đó                              chạm đến người ấy, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu                              người ấy chết, thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là giết                              bằng thuốc bột.  Giết bằng ô mãn thổ:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên làm ô mãn thổ (?)                              giữa đường, thì khi làm liền phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Người ấy vì thế mà đau đớn, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu y chết, thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là                              giết bằng ô mãn thổ.  Giết bằng hầm sập:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên đào hầm ở giữa                              đường, rồi đặt các thứ hung khí sắc bén, dùng cỏ,                              đất phủ lên trên, để người đó rơi xuống chết, thì                              khi làm liền phạm tội Việt Tỳ Ni. Khi người đó bị                              đau đớn (256b) thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu y chết                              thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là giết bằng hầm sập.                              Giết bằng a ba khâm mãn:                              Nếu Tỳ kheo vì muốn giết người nên làm a ba khâm mãn                              (?) ở giữa đường, thì khi làm liền phạm tội Việt Tỳ                              Ni. Khi người ấy bị đau đớn, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu y chết thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là                              giết bằng a ba khâm mãn.  Giết bằng cách chỉ đường:                              Nếu Tỳ kheo đang đi kinh hành ở bên đường có người                              đến hỏi: "Trưởng lão! Tôi muốn đến khu làng như thế,                              phải đi đường nào?"Tỳ kheo vì trước đó có mối thù                              với người ấy, liền suy nghĩ: "Ta nay gặp được kẻ này,                              nên chỉ con đường nguy hiểm, khiến cho y chỉ có chết                              mà thôi". liền chỉ những con đường nguy hiểm như:                              nạn vua, nạn sư tử, hổ báo, nạn rắn độc... thì khi                              chỉ những con đường hiểm như thế, phạm tội Việt Tỳ                              Ni. Nếu người ấy bị thống khổ, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu y chết, thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là                              giết bằng cách chỉ đường.  Giết bằng chỉ lối qua                              sông: Nếu Tỳ kheo đang đi kinh hành ở bên                              sông có người đến hỏi: "Trưởng lão! Tôi muốn đi đến                              chỗ như thế, nên đi lối nào?"Tỳ kheo này trước đây                              vốn có mối thù với người ấy, liền suy nghĩ:"Nay ta                              gặp được kẻ này, nên chỉ y đi qua chỗ hiểm trở,                              khiến cho y không thể nào thoát chết", liền chỉ các                              lối đi hiểm trở như: chỗ nước xoáy, chỗ đá ngầm, chỗ                              đất sụp, lòng chảo.v.v.. hoặc đoạn bờ sông vua cấm,                              hoặc có bọn cướp sông, hoặc có nạn sư tử, hổ báo,                              trùng độc.v.v... khi chỉ cho người ấy lối đi hiểm                              trở thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Khi người ấy bị thống                              khổ, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khi y chết thì phạm                              tội Ba La Di. Ðó gọi là giết bằng chỉ lối qua sông.                              Ðại thần: Nếu có                              quan đại thần bạo ngược vô đạo, tham lam lấy của                              người đem về cho mình, không sợ hình phạt, buông                              lung phóng túng, suy nghĩ như sau: "Thà làm con quạ                              hôm nay hơn là làm con công ngày mai". Vua nghe được                              lời ấy, bèn bắt y giam vào tù để trị tội. Y sợ chết,                              nên dùng tất cả tài sản để chuộc mạng. Khi ấy có một                              Tỳ kheo thường lui tới nhà đó, bèn đến an ủi hỏi han                              những nổi vui buồn của gia đình họ. Người vợ nói: "Nhà                              tôi vừa gặp chuyện rắc rối đang bị giam trong tù,                              thì làm sao vui được? Thầy có biết không? Hiện giờ                              nhà tôi sợ tội phải bị tử hình, nên đem tất cả của                              cải để chuộc lấy tính mạng. Nếu tiền của hết thì                              phải bần cùng, không còn gì để sống nữa". Tỳ kheo                              nói: "Bà chớ sầu não! Ta sẽ bảo chồng bà không nên                              dùng đến tài sản", bèn đến nhà giam an ủi ông ta: "Lão                              trượng! Không bệnh chứ?". Viên đại thần thấy Tỳ kheo                              đến, lòng rất hoan hỷ (256c) nói: "Thầy ở ngoài có                              nghe điều gì chăng?". Tỳ kheo đáp: "Nghe ông sắp                              phải chết, nên muốn dùng hết gia tài để chuộc lấy                              tính mạng. Nếu như thế thì vợ con ông sau này sẽ đói                              khát khốn cùng phải đi ăn xin, mà tiếng xấu gia đình                              ông sẽ còn truyền mãi". Viên đại thần hỏi: "Thế thì                              phải làm sao?". Tỳ kheo nói: "Tên vua này vô đạo,                              giả sử có thu hết tài sản của ông cũng chẳng để ông                              sống đâu, cẩn thận, chớ giao của cho hắn mà phải                              tính toán cho kỹ lưỡng". Nếu viên đại thần đó nghe                              theo lời ấy, thì Tỳ kheo phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu y                              phải chịu thống khổ, thì Tỳ kheo phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu y chết, thì Tỳ kheo phạm tội Ba La Di.                              Nhưng nếu vị đại thần nghe Tỳ kheo ấy nói bèn đáp                              rằng: "Thầy là bạn tri kỷ của tôi mà tiếc tiền của                              không muốn tôi sống, nếu tôi chết rồi giả sử mặt                              trời mặt trăng không mọc nữa, thì cũng chẳng phải                              điều mà tôi lo, huống gì việc khác. Thầy hãy về suy                              nghĩ những lời Phật dạy, còn việc cát hung tốt xấu                              không liên quan gì đến thầy", thì Tỳ kheo phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Nếu sau đó vị đại thần suy nghĩ: "Ðúng                              như Tỳ kheo nói, tên vua này vô đạo, giả sử cho hết                              tài sản, chung cục hắn cũng giết ta. Ta chết đã vô                              ích mà vợ con còn bị đói khát, không lấy gì để sống,                              gia đình bị sỉ nhục; Ôi! Cái chết thật đau đớn! Ta                              nay chịu lấy một mình, không đem cho tài sản". Thế                              rồi ông bị chết. Dù ông không lập tức nghe lời của                              Tỳ kheo, nhưng vì trước đó Tỳkheo đã bày kế ấy, nên                              phạm tội Thâu Lan Giá.  Có người vi phạm quốc pháp,                              viên chức hình sự bắt trói đem đến trình vua. Vua                              bảo đem y ra tra xét, tùy tội xử trị. Lúc ấy, viên                              chức tư pháp bèn dùng hoa già tỳ la trang điểm lên                              đầu tội nhân, trói chặt hai tay, đánh trống, thổi tù                              và, loan báo sắc lệnh khắp nơi. Loan báo lệnh xong                              bèn đem y ra khỏi cửa thành, đến nơi pháp trường.                              Bấy giờ, có Tỳ kheo Ma Ha La (bán thế xuất gia),                              chưa rành giới luật, thương kẻ tội nhân ấy đau khổ,                              bèn nói với tên đao phủ rằng: "Người này thật đáng                              thương, đừng làm cho ông ta đau đớn. Ông chỉ nên                              chém y một nhát". Nếu lúc ấy tên đao phủ đáp: "Tôi                              sẽ y lời", rồi cầm dao bén chém phắt một nhát, thì                              Tỳ kheo ma ha la phạm tội Ba La Di. Nếu tên đao phủ                              trả lời với Tỳ kheo rằng: "Ông nên biết mình phải                              làm gì. Tôi sẽ làm theo mệnh lệnh của vua (257a).                              Ông hãy trở về mà suy nghĩ những lời Phật dạy đi",                              thì Tỳ kheo phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu sau đó tên đao                              phủ suy nghĩ, rồi mới áp dụng lời nói của Tỳ kheo,                              chém tội nhân một nhát mà không làm ngay lập tức,                              thì Tỳ kheo Ma Ha La phạm tội Thâu Lan Giá. Ðó gọi                              là đại thần.  Tăng phường: Có                              Tỳ kheo khách đến chùa, theo thứ tự nhận phòng ở.                              Thầy Tỳkheo tri khách vì trước đó có hiềm khích với                              vị này, bèn suy nghĩ: "Ta nay gặp được ngươi, phải                              cho ngươi căn phòng đổ nát, để ngươi chết toi mạng",                              bèn giao cho căn phòng hư, tường cột đổ nát hư hoại,                              gần chỗ tỳ đa la (?) đáng sợ, chỗ các loài ác quỉ                              phú đơn na, gần chỗ rắn rít. Khi giao phòng cho                              người kia, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Khi người kia bị                              thống khổ, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu thầy ấy                              chết, thì phạm tội Ba La Di.  Tỳkheo khách buổi sáng dậy sớm                              hỏi vị Tỳkheo cựu trú vật rửa tay ở chỗ nào? Tỳkheo                              cựu trú lấy bình chứa đầy ong nọc, rít, rắn độc, rồi                              đậy nắp lại, nói với vị Tỳkheo khách rằng: "Bình này                              có chứa nước rửa tay. Ngài cứ tự ý sử dụng". Khi vị                              khách cầm đến bình đó thì phạm tội Việt Tỳ Ni, khi                              bị đau đớn, phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu chết phạm tội                              Ba La Di. Ðó gọi là dùng tăng phường để giết.  Cọp: Các nơi                              hoang vắng thường có cọp làm hại người. Lúc ấy,                              chúng tăng bèn tập họp lại bàn bạc: "Này các trưởng                              lão! Tại nơi hoang vắng này có cọp, sợ nó làm hại                              người, vậy ai có thể trừ được con cọp này?"Bấy giờ,                              trong chúng có Tỳkheo A, vốn có hiềm khích với                              Tỳkheo B, bèn nói với mọi người: "Tôi có thể trừ                              được cọp". Rồi vào lúc chiều tối, Tỳkheo A này mang                              cung tên ra đi, khi ấy thầy Tỳkheo B mặc y vàng, đầu                              có màu đen, đi đến chỗ cầu tiêu, rồi Tỳkheo A định                              giết Tỳkheo B nhưng giết nhầm cọp, thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.   Hoặc định giết cọp nhưng giết                              nhầm Tỳkheo B, cũng phạm tội Việt Tỳ Ni. Nhưng nếu                              muốn giết Tỳkheo B mà giết đúng Tỳkheo B, thì phạm                              tội Ba La Di. Nhưng nếu muốn giết cọp mà giết đúng                              cọp thì phạm tội Ba Dật Ðề. Nếu định giết cả hai,                              thì tùy theo giết đối tượng nào, phạm tội theo đối                              tượng đó: Giết Tỳkheo phạm tội Ba La Di, giết cọp                              phạm tội Ba Dật Ðề. Ðó gọi là cọp.  Ngoại đạo: Có các                              ngoại đạo thờ mặt trời, mặt trăng, nên mỗi khi nhật                              thực, nguyệt thực thì những người Bà La Môn này tụ                              tập đồ đảng, tay cầm khí giới, lớn tiếng gọi nhau đi                              cứu mặt trời mặt trăng. Do đó, họ đi ngang qua gần                              tinh xá, vừa trông thấy các Tỳkheo, liền nổi giận                              mắng: "Bọn Sa môn Thích tử kia là bè đảng của A Tu                              La, nay phải giết chúng". Khi các Tỳkheo nghe những                              lời thô ác ấy, liền đánh kiền chùy (257b) tập họp                              Tăng chúng. Rồi một Tỳkheo nói: "Hôm nay chúng ta                              phải cùng nhau lập thệ ước trừng trị bọn ngoại đạo                              tà ác này, không để một mạng nào sống sót". Vì thề                              nguyền phi pháp, cho nên tất cả chúng tăng đều phạm                              tội Việt Tỳ Ni.   Nếu bọn họ phải chịu đau khổ                              thì tất cả chúng Tăng phạm tội Thâu Lan Giá.   Nếu bọn họ chết thì tất cả Tăng                              chúng phạm tội Ba La Di.   Nếu cùng nhau thề nguyền:                              "Không nên làm cho chúng chết mà chỉ làm chúng đau                              khổ để cải ác làm lành", thì tất cả chúng Tăng phạm                              tội Việt Tỳ Ni.   Nếu bọn họ chịu đau khổ thì tất                              cả Tăng chúng phạm tội Thâu Lan Giá.   Nếu lúc ấy các Tỳkheo bảo nhau:                              "Các trưởng lão! Không nên hại bọn chúng cũng không                              nên làm cho họ đau khổ, vì đức Thế Tôn đã dạy: "Nếu                              Tỳkheo bị bọn giặc hung bạo dùng cưa, dao cắt đứt                              thân thể, thì lúc ấy tâm không nên khởi lên niệm ác,                              miệng không nên nói lời ác độc với chúng mà phải                              khởi tâm từ bi, tâm lợi ích, tâm nhẫn nhục". Do đó                              các Tỳkheo cùng suy nghĩ "Trong Kinh Cú Ðạo Dụ, Thế                              Tôn đã dùng phương tiện dạy ta phải nhẫn nhục". Thế                              rồi, các thầy đóng chặt các cửa ngõ, lớn tiếng la                              vang để bọn ngoại đạo khiếp sợ, thì không có tội.                              Tất cả chúng Tăng đều cùng phát thệ như thế, thì tất                              cả Tăng không có tội.  Có một Tỳkheo đánh con của Bà                              La Môn gần chết liền tự suy nghĩ: "Người này nếu                              chết, thì pháp Sa môn Thích tử sẽ bị hoen ố. Giờ đây                              ta phải đi tìm thuốc cứu hắn sống lại". Rồi có một                              Tỳkheo khác hỏi Tỳkheo ấy: "Thầy đang làm gì thế?"                              Ðáp: "Tôi đánh người Bà La Môn này gần chết, rồi tôi                              suy nghĩ: "Nếu kẻ này chết thật thì pháp Sa môn                              Thích tử sẽ bị hoen ố. Giờ đây ta phải đi tìm thuốc                              cứu hắn sống lại". Nếu Tỳkheo kia nói: "Thầy cứ đi                              tìm thuốc, để tôi giữ hắn cho". Thế rồi sau khi                              Tỳkheo đánh người đi khuất, vị Tỳkheo kia bèn kết                              liễu sinh mạng của hắn. Trong trường hợp này, Tỳkheo                              trước đánh người, phạm tội Thâu Lan Giá. Tỳkheo sau                              giết người, phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là ngoại đạo.                              Nếu một Tỳkheo vì định giết người mà cầm dao thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.   Nếu chạm đến thân người ấy, thì                              phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu người ấy chết, thì phạm                              tội Ba La Di.   Nếu hai, ba cho đến nhiều người                              vì muốn giết người mà cầm dao, thì phạm tội Việt Tỳ                              Ni. Cho đến người ấy chết, thì phạm tội Ba La Di.                              Một Tỳ kheo được (người khác) sai đi giết người, bèn                              sai lại một Tỳkheo khác cầm dao, thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni... cho đến chết phạm tội Ba La Di.   Như thế, sai người thứ hai                              (257c) thứ ba cho đến sai nhiều Tỳkheo cầm dao, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni. Cho đến chết, phạm tội Ba La Di.                               Tóm lại giết bằng thuốc độc,                              giết bằng bôi thuốc lên mình, giết bằng thổ (mửa)                              hay tả (đi cầu), giết bằng làm đọa thai, giết bằng                              nói tướng trạng, giết bằng khen ngợi sự chết cũng                              đều thế cả. Trường hợp giết người hội đủ năm điều                              kiện sau đây, thì phạm tội Ba La Di. Ðó là:  1- Ðúng là người.  Ðó gọi là năm điều kiện.  Hoặc sai đầy tớ giết, hoặc sai                              người làm công, hoặc bạn bè, hoặc làm thử, hoặc chưa                              từng làm, vô trí, không biết xấu hổ, tưởng là làm                              không sao, đều phạm tội. Trái lại, nếu vì cuồng tâm,                              loạn trí mà giết người thì không phạm tội. Thế nên                              nói:  Nếu Tỳkheo tự tay mình giết                              người, hoặc tìm người cầm dao đến giết, hoặc khuyên                              họ chết, ca ngợi sự chết, nói: Ôi nam tử! Ðể cái                              thân ô uế này sống làm gì, chết còn hơn sống. Có ý                              nghĩ như thế, có tư tưởng như thế, dùng phương tiện                              khen ngợi rằng chết là thú vị, khiến cho người ấy                              chết, chứ không có lý do nào khác; thì Tỳkheo ấy                              phạm tội Ba La Di, không được sống chung.  Lúc ấy, đức Thế Tôn đang trú                              tại thành Tỳ Xá Ly, trước bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt                              về hướng Bắc, bóng mặt trời xiên độ một người rưỡi,                              ngày mồng chín, nửa tháng thứ ba mùa Ðông sau khi                              thành đạo sáu năm, vì những Tỳkheo nuôi bệnh đã nhờ                              Lộc Trượng ngoại đạo giết các Tỳkheo, mà chế giới                              này.   Những gì Phật đã chế phải tùy                              thuận chấp hành, đó gọi là pháp tùy thuận.   (Hết giới thứ 3)                              4. GIỚI: ÐẠI VỌNG NGỮ.  PHẦN ÐẦU CỦA GIỚI THỨ TƯ,                              TRONG 4 GIỚI BA LA DI. Phật ở tại thành Xá vệ, nói                              rộng như trên. Bấy giờ, tại một làng kia có hai Tăng                              đoàn an cư. Lúc an cư xong, một nhóm về thành xá Vệ                              thăm viếng đức Thế Tôn, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi                              sang một bên. Ðức Thế Tôn tuy biết mà vẫn hỏi: "Này                              các Tỳkheo, các thầy an cư ở đâu rồi đến đây?" Ðáp: "An cư tại làng ấy". Phật lại hỏi: "Các thầy an cư                              có vui không? Khất thực có dễ không? Hành đạo có                              đúng pháp không? Sau khi an cư xong có được y an cư                              không? Các Ưu bà tắc có thường lui tới chăng?"  Các Tỳkheo bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Hạ an cư vui, hành đạo đúng pháp nhưng khất                              thực khó được, y vật không đủ, các Ưu bà tắc không                              thường lui tới".  Phật bảo với các Tỳkheo: "Người                              xuất gia đâu có thể nhận được của thế gian hoài! Các                              Tỳkheo nên biết: Ở đời có tám pháp (258a) thường                              theo sát người ta, và người đời cũng thường theo sát                              tám pháp này. Tám pháp này là:  1- Lợi.  Những Tỳkheo nào ngu si, phàm                              phu, ít nghe, ít biết ở trong chánh pháp mà tâm                              không điều phục, ở trong pháp của hiền thánh mà trí                              không mở mang, khi thế lợi sinh khởi không khéo quán                              sát rằng: Thế lợi sinh khởi tức là pháp vô thường,                              hoại diệt, nên tuy có sinh khởi chúng sẽ chóng hoại                              diệt, không thể còn mãi. Nếu không quán sát ý nghĩa                              của pháp đúng như thế, thì đó là kẻ phàm phu, không                              thật có trí tuệ, tùy thuận thế pháp. Cũng thế, từ sự                              không có lợi cho đến vui, khổ cũng không biết quán                              sát rằng: Niềm vui tuy phát sinh, nhưng nó là pháp                              vô thường hoại diệt, mà đã mang tính chất vô thường                              hoại diệt, thì nó sẽ chóng tàn, không thể còn mãi.                              Nếu ai không biết quán sát ý                              nghĩa chân thật như thế thì đó là kẻ phàm phu, không                              thật có trí tuệ, tùy thuận theo thế pháp. các Tỳkheo                              nên biết rằng, những ai đối với thế pháp này không                              quán sát, nên khi thế lợi phát khởi thì sinh ra tham                              trước, nếu nó không sinh khởi, thì đâm ra lo âu, cho                              đến các khía cạnh vui, khổ kia cũng thế.   Này các Tỳkheo, như vậy là ba                              thọ tăng trưởng. Ba thọ đã tăng trưởng; thì bốn thủ                              sẽ lừng lẫy. Bốn thủ lừng lẫy thì có sinh duyên. Do                              đó mà khổ ấm tập khởi tăng trưởng mạnh mẽ, sinh lão                              bệnh tử, ưu bi khổ não, tâm loạn phát cuồng. Các                              Tỳkheo nên biết: Các đệ tử hiền thánh, đa văn trí                              tuệ thì ở trong chánh pháp tâm khéo điều phục, ở                              trong pháp của hiền thánh, tâm được mở mang, khi thế                              lợi phát sinh, thì nên khéo quan sát rằng: Thế lợi                              tuy sinh khởi, nhưng nó là pháp vô thường hoại diệt                              mà đã vô thường hoại diệt thì nó sẽ chóng tàn, không                              thể còn mãi, cho đến hai yếu tố vui, khổ kia cũng                              lại như vậy.  Các Tỳkheo nên biết: Khi quán                              sát như thế, thì lúc thế lợi sinh khởi sẽ không tham                              trước; lúc thế lợi không sinh khởi, tâm không sầu                              não; cho đến vui, khổ kia cũng thế. Do đó yêu ghét                              không sinh, cảm nhận tùy nghi, lìa mọi sầu khổ; cho                              đến vui khổ các uẩn đều diệt tận, liền được Niết bàn.                               Khi Thế Tôn thuyết pháp ấy rồi,                              bèn lập lại bằng thể kệ:  "Lợi suy và hủy dự,  Khi các Tỳkheo nghe Phật dạy                              như thế đều rất hoan hỷ, liền bạch Phật rằng: "Lành                              thay đức Thế Tôn, đã dùng phương tiện thiện xảo nói                              về tám pháp ở đời, thực là chưa từng có".  Phật nói với các Tỳkheo: "Như                              Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, tam đạt vô ngại năng                              lực trí tuệ như ánh trăng rằm, nói về tám pháp ở đời                              có chi là kỳ lạ. Ngày xưa Ta làm chim oanh vũ trong                              loài súc sinh, vì các loài chim khác, nói tám pháp                              ấy, thế mới là kỳ đặc".  Các Tỳkheo liền bạch Phật rằng:                              "Ðã từng có thế sao?"  Phật đáp:   - Ðúng thế. Trong thời quá khứ                              có một vị vua nuôi hai con chim oanh vũ, một con tên                              La Ðại, một con tên Ba La đều hiểu được tiếng người,                              nên vua rất yêu thương, nhốt trong lồng vàng, cho ăn                              thức ngon. Lúc ấy, có một đại thần đem hiến cho vua                              một con khỉ con, tình đời vốn chuộng của mới, nên                              vua rất yêu thích cho ăn uống nuôi dưỡng còn kỹ hơn                              oanh vũ. Bấy giờ, oanh vũ Ba La bèn nói với La Ðại                              bằng bài kệ:  "Trước đây ăn cùng vua  Lúc ấy, La Ðại nói: "Việc đó                              rồi cũng vô thường, chẳng bao lâu nữa con khỉ con                              này cũng sẽ mất phần lợi dưỡng mà thôi", bèn đáp Ba                              La bằng bài kệ:  "Lợi suy và hủy dự,  Thế rồi Ba La lại đọc kệ:  "Gặp chi cũng chẳng vui,  Lúc khỉ con còn nhỏ, sắc lông                              mượt mà, nhảy nhót vui nhộn nên ai cũng thích đùa                              với nó. Ðến lúc lớn lên, sắc lông xơ xác, ai thấy                              cũng chán ghét. Nó lại còn vểnh tai chu miệng, đe                              dọa trẻ con. Khi ấy, oanh vũ La Ðại bèn nói với Ba                              La (258c) bằng bài kệ này:  "Vểnh tai nhăn mặt lại,  Con khỉ ấy lớn lên, lòng thương                              của vua liền dứt, nên vua ra lệnh kẻ tả hữu đem nó                              buộc ngoài cột chuồng ngựa. Lúc ấy hoàng tử còn bé                              tay cầm thức ăn đến bên con khỉ. Khỉ đòi thức ăn,                              hoàng tử không cho, nó bèn nổi giận cào mặt khiến                              hoàng tử bị thương và rách cả y phục. Hoàng tử kinh                              hãi, kêu la inh ỏi. Vua bèn hỏi kẻ tả hữu vì sao con                              mình kêu khóc. Kẻ tả hữu bèn đem sự việc ấy tâu lên                              nhà vua. Vua rất giận dữ, bèn sai người đập chết,                              đem vứt bên hào để cho Kỳ Ðà ăn. Khi ấy oanh vũ Ba                              La bèn nói với La Ðại bằng bài kệ:  "Bạn là bậc trí tuệ,  Phật bèn nói với các Tỳkheo:                              - Khi ấy chim oanh vũ La Ðại                              nào phải ai khác mà chính là ta đây, còn chim oanh                              vũ Ba La chính là A Nan vậy. Khi ta làm chim oanh vũ                              mà còn vì thầy ấy nói về tám pháp vô thường chuyển                              biến ở đời không thể còn mãi, huống chi ngày nay đã                              thành Chánh Giác lại còn nói về tám pháp ấy, thì có                              chi là kỳ lạ.  Khi ấy, tăng đoàn thứ hai an cư                              xong, cũng đi đến hầu thăm, đảnh lễ Thế Tôn, rồi                              ngồi qua một bên. Ðức Thế Tôn tuy biết mà vẫn hỏi: "Các                              Tỳkheo an cư ở đâu rồi đến đây?"  Ðáp: "Bạch Thế Tôn! An cư tại                              chỗ ấy".  Phật liền hỏi các Tỳkheo: "An                              cư có vui không? Hành đạo có vất vả không? Khất thực                              có dễ dàng không? Sau khi an cư xong, có được y an                              cư không? Các Ưu bà tắc có thường lui tới không?"                              Các Tỳkheo bạch Phật rằng: "Hạ                              an cư vui vẻ, hành đạo không vất vả, khất thực dễ                              dàng, có nhiều y an cư, các Ưu bà tắc lui tới đông                              đúc".  Phật lại hỏi: "Vì lý do gì hai                              chúng cùng an cư tại một làng mà chỉ có một chúng                              được cúng dường nhiều, còn một chúng không được?"                              Các Tỳkheo bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Chúng con dùng vô lượng phương tiện ca ngợi                              Tam bảo, cũng thường ca ngợi các đại đệ tử của Phật                              như tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên.v.v.. và tự                              ca ngợi về công đức tu tập của chính mình".  Phật hỏi các Tỳkheo: "Những                              điều các thầy ca ngợi có thật như thế không?"  Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Tam Bảo và                              tôn giả Xá Lợi Phất mà chúng con ca ngợi là có thật,                              còn tự ca ngợi mình thì không thật".  Phật khiển trách: "Này các                              Tỳkheo! Ðó là việc ác (259a). Tại sao chỉ vì lợi                              dưỡng cho bản thân mà lại ca ngợi những điều mình                              không thực có? Thà ăn tro bụi, nuốt phân đất, dùng                              dao bén mổ bụng, chứ không nên dùng lời dối trá ca                              ngợi mình có pháp hơn người (quá nhân pháp) để được                              cúng dường". Rồi Phật nhấn mạnh: "Ta thường khen                              ngợi ít muốn, biết đủ, vì sao các thầy lại đa dục                              không thỏa mãn, cầu nhiều không biết chán? Ðó là                              điều phi pháp, phi luật, không phải việc ta dạy,                              không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp".  Sau khi Thế Tôn dùng các biện                              pháp khiển trách các Tỳkheo ấy rồi, các Tỳkheo an cư                              tại làng ấy khi vào làng khất thực, những ai tự ca                              ngợi mình thì khất thực dễ dàng còn những ai không                              tự ca ngợi thì khất thực rất khó khăn. Lúc ấy, một                              trưởng lão Tỳkheo tự suy nghĩ: "Vì sao ta lại dùng                              lời dối trá tự ca ngợi mình được pháp hơn người để                              được nuôi sống? Từ nay trở đi ta không được dùng lời                              dối trá để tự khen mình nữa". Rồi vào buổi sáng sớm                              thầy khoác y, cầm bát vào làng khất thực. Khi ấy có                              người hỏi thầy: "Trưởng lão đối với quả thánh, thầy                              có đạt được gì không?" Thầy Tỳkheo này không tự ca                              ngợi mình, nên đi khất thực chỗ này chỗ kia đều                              không được. Mặt trời sắp xế bóng, đói khát khốn đốn,                              thầy bèn tự ca ngợi, khất thực liền được.   Có vị Tỳkheo khác nghe vị                              trưởng lão ấy lúc thì nói thật, lúc thì nói dối,                              liền đến bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao trưởng                              lão Tỳ kheo ấy tâm chí bạc nhược, không giữ được                              kiên cố, khinh suất như vậy?"  Phật nói với Tỳkheo ấy: "Vị                              trưởng lão ấy không những ngày nay tâm chí bạc nhược,                              khinh suất không giữ được kiên cố, mà trong đời quá                              khứ cũng đã như thế".  Các Tỳkheo lại bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Ðã từng có như vậy sao?"  Phật đáp: "Ðúng như thế! Trong                              thời quá khứ có trận mưa trái mùa liên tục bảy ngày                              không dứt. Các mục đồng không ra khỏi nhà suốt bảy                              ngày. Lúc ấy, có con chó sói đói, thất thểu đi tìm                              thức ăn khắp xóm làng, đi đến bảy thôn mà không được                              thứ gì cả. Rồi nó tự bảo: "Chi bằng hôm nay ta giữ                              chay lạt mà an trụ"bèn trở về rừng núi, ẩn mình                              trong hang, phát nguyện: "Mong tất cả chúng sinh đều                              được yên ổn". Thế rồi, nó nhiếp thân an tọa, nhắm                              mắt suy nghĩ. Lịch trình của Ðế Thích cứ vào các                              ngày chay hằng tháng như ngày mồng tám, mười bốn,                              ngày rằm, cưỡi rồng trắng y la xuống quán sát thế                              gian, xem thử chúng sinh nào hiếu thuận với cha mẹ,                              cúng dường Sa môn, Bà la môn, bố thí, giữ giới tu                              phạm hạnh, thọ trì bát trai giới. Khi Thích Ðề Hoàn                              Nhân quan sát khắp nơi liền đến hang núi ấy, thấy                              con chó sói kia đang nhắm mắt tư duy, bèn suy nghĩ:                              "Ôi, con chó sói này là loài muông thú mà thật là kỳ                              đặc. Con người còn không có tâm như thế, huống gì                              chó sói (259b) mà được như vậy". Bèn muốn thử xem để                              biết hư thực. Ðế Thích liền biến thành một con dê,                              đứng trước hang, lớn tiếng gọi đàn. Khi ấy, chó sói                              thấy dê liền nghĩ: "Kỳ thay, phước báo chay lạt bỗng                              dưng đến. Ta ruồng cả bảy thôn tìm thức ăn mà không                              được, nay tạm thời giữ chay lạt thì thức ngon tự                              nhiên đến. Thức ăn nhà bếp đã đưa đến, giờ phải ăn                              thôi, ăn xong rồi hãy giữ chay lạt". Sói bèn ra khỏi                              hang, lao đến chỗ dê. Dê thấy sói đến kinh hãi bỏ                              chạy. Sói liền đuổi theo, dê chạy không dừng. Ðuổi                              một đoạn xa, dê liền biến ra chó, miệng vuông, tai                              lớn, quay lại đuổi sói, sủa lên inh ỏi. Sói thấy chó                              rượt, sợ hãi chạy lui. Chó đuổi gấp theo, sói chạy                              thoát được, trở về lại hang, bèn suy nghĩ: "Ta muốn                              ăn thịt nó, ngược lại, nó đòi xơi ta". Khi ấy, Ðế                              Thích bèn giả làm con dê què, kêu be be trước mặt                              chó sói. Sói nghĩ: "Trước kia là con chó, mà ta vì                              đói hoa mắt lại tưởng lầm là dê. Giờ đây thấy rõ,                              con này mới đúng là dê". Sói bèn định thần xem kỹ,                              thì thấy sừng tai lông đuôi hoàn toàn là dê thực.                              Sói bèn ra khỏi hang đuổi theo, dê sợ bỏ chạy. Sói                              sắp chụp được, thì dê lại hóa thành chó, đuổi ngược                              lại sói, cũng như lần trước. Sói nghĩ: "Ta muốn ăn                              hắn, mà rồi hắn lại muốn xơi ta". Lúc ấy, Ðế Thích                              liền hóa thành con dê con, đứng trước sói kêu mẹ,                              gọi bầy. Sói nổi giận nói: Ngươi biến thành cục thịt,                              ta cũng không ra khỏi hang, huống là hóa thành dê                              con để hòng gạt ta!"Rồi sói giữ chay lạt trở lại,                              lắng lòng suy nghĩ. Khi ấy, Ðế Thích biết tâm niệm                              của sói muốn giữ chay lạt trở lại, nên vẫn mang hình                              thức dê con đứng trước hang sói. Thế rồi, sói đọc kệ:                              "Nếu quả thực là dê,  Khi ấy, Thế Tôn nói với các                              Tỳkheo: "Chó sói lúc ấy đâu phải ai khác mà chính là                              thầy Tỳkheo này. Ngày xưa làm sói, tâm chí không                              kiên cố mà ngày nay tuy đã xuất gia (259c) vẫn cứ                              khinh suất.  Bấy giờ, Thế Tôn truyền lệnh                              cho các Tỳkheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại                              tất cả, ai nghe rồi cũng phải nghe lại, và vì mười                              lợi ích chế giới cho các Tỳkheo như sau:  -- Nếu Tỳkheo chưa biết,                              chưa chứng, mà tự xưng là đã được pháp hơn người, có                              tri kiến thù thắng của bậc thánh, biết như vậy, thấy                              như vậy, thì Tỳkheo ấy phạm tội Ba La Di, không được                              sống chung.  Lại nữa, khi Phật ở tại thành                              Xá Vệ, nói rộng như trên. Lúc ấy có hai Tỳkheo sống                              nơi rừng núi hoang vắng. Một Tỳkheo tạm thành tựu                              Căn lực, Giác chi, Thánh đạo, Tham sân không sinh                              khởi, bèn nói với vị Tỳkheo thứ hai:"Trưởng lão là                              thiện tri thức, người mà tôi kính trọng, nay muốn                              nói với trưởng lão một việc bí mật". Vị kia hỏi: "Thầy                              muốn nói điều chi?"  Ðáp: "Trưởng lão! Tôi đã chứng                              A La Hán".  Vị kia nói: "Trưởng lão! Ðức                              Thế Tôn còn tại thế, chúng ta đích thân lãnh thọ                              giáo pháp, tinh tấn siêng tu, thành tựu đạo quả là                              chuyện đương nhiên".  Thầy Tỳkheo ấy sau đó du hành                              các làng mạc buông thả các căn, bỏ tu chỉ quán, liền                              khởi phiền não, si ái phát sinh, bèn nói với bạn: "Trước                              đây tôi tưởng đã chứng đắc, hóa ra chưa chứng. Vì                              sao biết được? Vì tôi tự thấy trong tâm phiền não                              vẫn còn".Vị Tỳkheo kia nói: "Trưởng lão đã nói dối                              rằng mình được pháp hơn người nên phạm tội Ba La Di".                              Tỳkheo này nói: "Không phải là tôi biết mà cố nói                              dối, mà vì tôi tưởng là thật chứng".   Các Tỳkheo đem việc ấy bạch đầy                              đủ lên Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn! Tỳkheo mỗ giáp nói                              dối rằng mình được pháp hơn người".   Phật gọi thầy ấy đến. Khi đến                              rồi, Phật hỏi: "Tỳkheo, có phải thầy hư vọng tự xưng                              mình được pháp hơn người chăng?".  Thầy đáp: "Bạch Thế Tôn! Không                              phải con tự xưng mình được pháp hơn người, mà vì con                              tưởng là đã thực chứng, do đó nên mới nói".  Phật bèn hỏi thầy: "Vì lý do gì                              mà thầy nói như thế?"  Tỳkheo liền bạch Phật rằng:                              "Bạch Thế Tôn! Khi con sống nơi rừng vắng, tu tập                              căn, lực, giác chi, thánh đạo, thì phiền não không                              sinh khởi, nên con tưởng là đã đắc quả A La Hán, bèn                              nói với bạn là mình đã chứng đắc. Nhưng sau đó con                              du hành các làng mạc không thu nhiếp các căn, nên                              phiền não sinh khởi, liền sinh nghi ngờ bèn trình                              bày với Tỳkheo ấy, chứ không phải nói dối".  Bấy giờ Thế Tôn bảo với các                              Tỳkheo: "Thầy Tỳkheo ấy không phải cố ý vọng ngữ nói                              mình được pháp hơn người nhưng nên biết rằng Tỳkheo                              ấy chính là người Tăng thượng mạn".  Rồi Phật bảo Tỳkheo ấy:  - Vì sao đối với chánh pháp,                              ông có lòng tin từ bỏ gia đình sống không gia đình,                              xuất gia mà còn khởi tâm tăng thượng mạn? Ông phải                              khéo léo đoạn trừ tăng thượng mạn, mới đạt được A La                              Hán.  Khi đó Tỳkheo ấy rất xấu hổ                              liền ngay trước Phật (260a) vận dụng sức tinh tấn,                              tu tập chỉ quán, đoạn trừ tăng thượng mạn, chứng quả                              A La Hán.  Các Tỳkheo liền bạch với Phật:                              "Thật là ly kỳ bạch Thế Tôn! Thầy Tỳkheo này nương                              đức từ bi của Phật, siêng năng tu tập chỉ quán, mà                              trừ được tăng thượng mạn, chứng quả A La Hán.  Phật nói với các Tỳkheo:                              "Tỳkheo ấy không những ngày nay nương nhờ ơn ta, vận                              dụng tinh tấn, tu tập chỉ quán, trừ tăng thượng mạn,                              chứng quả La Hán, mà đời quá khứ, cũng đã nhờ ta,                              siêng tu không nhác, được quả báo lớn".  Các Tỳkheo lại bạch Phật: "Ðã                              từng có như vậy sao?"  Phật nói với các Tỳkheo: "Ðúng                              thế. Trong thời quá khứ có một nước tên Ca Thi,                              thành phố tên Ba La Nại. Bấy giờ, trong nước dân                              chúng giàu có, ba độc mãnh liệt, có một người Bà La                              Môn bần cùng, từ ngoài thôn đi vào thành phố. Nhân                              ngày lễ hội, nên dân chúng trong thành có người cưỡi                              voi, có kẻ cưỡi ngựa, có người đi xe, có người đi                              kiệu. Họ tắm rửa sạch sẽ, thoa ướp hương thơm, mặc y                              phục mới, tha hồ hưởng thụ năm thứ dục lạc, các môn                              giải trí. Khi ấy, ông Bà La Môn, tâm khát ái phát                              sinh bèn hỏi người khác: "Những bọn người ấy đã tạo                              nhân duyên gì mà hưởng được khoái lạc như thế?".                              Ðáp: "Bà La Môn! Ông không biết sao?". Ông trả lời:                              "Không biết!". Người ấy bèn nói với Bà La Môn:                              "Những người ấy đời trước tu hành công đức, đời này                              lại chăm chỉ gầy dựng cơ nghiệp, nên được khoái lạc                              như thế". Lúc ấy, Bà La Môn liền suy nghĩ: "Những                              hạng người này thân thể tay chân chẳng khác gì ta.                              Nay ta cần phải gắng công nỗ lực sẽ được tài sản,                              tha hồ vui chơi, chẳng khác chi họ". Ông bèn về nhà                              nói với bà vợ: "Tôi muốn đi xa, gắng sức cầu tài".                              Vợ ông đáp rằng: "Ông đi tìm kiếm các thức ăn uống                              cho vợ con ở gần đây cũng được, việc gì phải đi xa".                              Bà La Môn nói: "Vì việc đó không thực hiện được, nên                              ta phải đi xa". Bà vợ suy nghĩ:"Ông ấy nhất quyết                              muốn đi, biết làm sao được!". Bèn nói với ông Bà La                              Môn: "Ði, ở tùy ý ông, nhưng phải tự bảo trọng". Bà                              La Môn bèn ra lệnh cho vợ: "Bà phải cẩn thận trông                              chừng thằng bé". Thế rồi, Bà La Môn ra đi, đến một                              khu làng ven biển thấy các khách buôn tụ họp tại một                              đình làng, truyền lệnh như sau: "Có ai ra biển tìm                              trân bảo chăng?". Bà La Môn đáp: "Tôi muốn ra biển".                              Khách buôn hỏi: "Ông có tiền bạc hàng hóa gì                              không?". Ðáp: "Tôi không có tiền bạc hàng hóa gì cả,                              chỉ muốn theo các ông xin ăn và chú nguyện giúp các                              ông". Khi ấy, các thương khách vì cầu phước, nên bảo                              ông lên thuyền. Thuyền gặp gió thuận, đi đến một khu                              làng nơi bờ biển. Lúc ấy, Bà La Môn vào xóm khất                              thực, (260b) dốc sức tìm tiền bạc, được vàng ròng 32                              dật, 14 hạt ngọc ma ni, rồi theo bè bạn trở lại Diêm                              Phù Ðề. Khi thuyền cập bến, Bà La Môn khoác lác với                              các khách buôn rằng: "Ðem hàng hóa đi, nay được của                              cải trở về thì có gì là kỳ lạ. Trước đây ta đi tay                              không, nay được châu báu thế này, mới gọi là kỳ                              đặc". Rồi ông ta vui mừng quá mức tay cầm châu báu,                              nhảy nhót không ngừng; bất đồ, châu báu rơi tõm                              xuống biển. Lúc ấy, Bà La Môn rất là sầu não, than                              thở: Ta đã quá cực khổ mới được châu báu thế này, vì                              sao bỗng chốc lại rơi cả xuống nước! Ta phải dùng                              sào khều lên để tìm lại châu báu. Ông bèn lên bờ tìm                              được một khúc cây, đem đến thợ mộc, nói: "Phiền ông                              làm giúp tôi một cái muỗng". Thợ mộc làm xong. Ông                              lại đem đến thợ tiện nhờ tiện giúp, rồi đem đến thợ                              sắt nhờ họ bịt sắt. Xong đâu đó, ông trở lại biển,                              vén tay áo lên, rồi dùng cái muỗng khều nước biển.                              Khi ấy, có vị thần biển, thấy thế suy nghĩ: "Ông Bà                              La Môn này định làm gì thế, ta hỏi thử xem". Bèn                              biến hình dạng một Bà La Môn, đến cạnh ông ta, dùng                              kệ mà hỏi:  "Xắn áo lên tận vai,  (260c) Bà La Môn lại nói kệ                              đáp:  "Nhật nguyệt chiếu soi không                              tận cùng,  Khi Bà La Môn nói kệ xong, bèn                              múc nước biển, đổ lên bờ, nước lại chảy xuống. Lúc                              ấy, thần biển xem xét tâm ý Bà La Môn biếng nhác hay                              kiên cố thì thấy ông ta rất chuyên cần, không hề                              thối chí. Thần biển liền suy nghĩ: "Giả sử múc nước                              biển này trải qua trăm năm thì nước cũng không suy                              giảm, như nước thấm lông tóc mà thôi. Nhưng vì cảm                              động đức tính chuyên cần của Bà La Môn, nên thần                              biển hoàn lại châu báu và đọc kệ:  "Tráng sĩ thật siêng năng,  Phật bảo với các Tỳkheo: "Thần                              biển khi ấy nào phải ai khác đâu mà chính là Ta đây,                              còn Bà La Môn chính là Tỳkheo này. Trong đời quá khứ                              ông đã nhờ ta, ra sức siêng năng nên được quả báo                              lớn. Ngày nay cũng lại nhờ ta, tinh cần chăm chỉ, tu                              tập chỉ quán, trừ tăng thượng mạn mà đạt được A La                              Hán".  Rồi Phật truyền lệnh cho các                              Tỳkheo sống tại thành Xá Vệ đều tập hợp tất cả, ai                              nghe rồi cũng phải nghe lại, và vì mười lợi ích mà                              chế giới cho các Tỳkheo như sau:  - Nếu Tỳkheo chưa biết, chưa                              chứng, mà tự xưng mình được pháp hơn người, có tri                              kiến thù thắng của bậc thánh, biết như thế, thấy như                              thế; sau đó, vị này bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm                              tra, nhưng sợ phạm tội và muốn được thanh tịnh nên                              nói như sau: - Thưa Trưởng lão! Tôi không biết mà                              nói rằng biết, không thấy mà nói rằng thấy. Ðó là                              lời nói hư dối không thật. Trừ trường hợp tăng                              thượng mạn ra, Tỳkheo này phạm tội Ba La Di, không                              được sống chung với tăng chúng.  Giải thích  Tỳkheo: (Ðã giải                              thích ở giới thứ nhất).  Chưa biết: Vì                              không có trí.  Chưa liễu (chứng):                              Vì chưa đoạn trừ (các lậu hoặc).  Tự xưng: Nói về                              bản thân mình.  Nhân pháp (pháp của                              người): Ðó là: 5 dục, 5 hạ phần kiết, 6 thú,                              6 cơ sở tranh cãi, 7 sử, 8 tà vạy ở đời, 8 pháp, 9                              mạn, 9 não, 10 thiện hành tích, 10 ác hành tích.  Nhân pháp còn có:                              Như các thiên nhân dùng kệ hỏi Phật:  "Người nào sinh đường thiện?                              (261a) Bấy giờ, đức Thế Tôn                              dùng kệ đáp các thiên nhân:  "Ðào giếng bên đường đi,  Lại nữa, hiếu thuận cha mẹ,                              cúng dường Sa môn, Bà La Môn và các bậc tu phạm hạnh                              đáng tôn kính, đó là nhân pháp.  Pháp hơn người (quá nhân                              pháp): Thập trí, pháp trí, vị tri trí, đẳng                              trí, tha tâm trí, khổ tập diệt đạo trí, tận trí, vô                              sinh trí, diệt tận giải thoát, tăng thượng thiện                              tâm, thuần thục thiện căn, tịnh bất tịnh giải thoát,                              hiểu rõ quả Tu đà hoàn và pháp thiền định tùy thuộc,                              khéo nhập, xuất trụ và thể nghiệm các pháp thiền                              định gọi là chỉ quán tam tam muội, tam minh; tứ niệm                              xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, tứ thiền, tứ vô                              lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ thánh đạo, tứ thánh                              chủng, tứ thánh đế, tứ Sa môn quả; ngũ chi định, ngũ                              căn, ngũ lực, ngũ giải thoát xứ; lục vô thượng pháp,                              lục thánh pháp, lục xuất yếu giới, lục niệm, lục                              thông; thất tài, thất vô trước pháp, thất tam muội,                              thất lậu tận lực, thất giác chi; bát chánh đạo, bát                              thắng xứ,, bát giải thoát, bát hướng đạo tích; cửu                              tưởng, cửu hoan hỷ pháp, cửu tịnh hạnh mãn túc, cửu                              thứ đệ định; Thập hiền thánh trụ xứ, thập nhất thiết                              nhập, thập ly xí nhiên pháp, thập vô học pháp, thập                              chủng lậu tận lực. Ðó gọi là pháp hơn người.   Thánh tri kiến:                              Tri kiến của Phật và đệ tử Phật; hoặc tự xưng biết                              mà không thấy, hoặc tự xưng thấy mà không biết, hoặc                              tự xưng vừa biết vừa thấy, hoặc không biết không                              thấy.  Biết mà không thấy:                              Như nói: Tôi biết khổ tập diệt đạo, mà không nói:                              Tôi có thiên nhãn thanh tịnh, thấy người chết ở đây                              rồi sinh đến cõi thiện, cõi ác kia hoặc quí, hoặc                              tiện; Lại cũng không nói: Tôi được thiên nhĩ hơn                              người, nghe được tiếng người, tiếng loài phi nhân,                              hoặc gần hoặc xa; Lại cũng không nói: Tôi biết được                              tâm người khác, có thần túc bay trên hư không tự                              biết được đời trước.v.v... Ðó gọi là biết mà không                              thấy.  Thấy mà không biết:                              Tự nói: Tôi được thiên nhãn thanh tịnh, cho đến tự                              biết túc mạng mà không nói. Tôi biết tứ thánh đế. Ðó                              gọi là thấy mà không biết.  Vừa biết vừa thấy:                              Như nói: Tôi biết bốn Thánh đế, cho đến tự biết được                              túc mạng; Ðó gọi là vừa biết vừa thấy.  Không biết không thấy:                              (261b) Không nói: Tôi biết bốn thánh đế, cho đến tự                              biết túc mạng. Ðó gọi là không biết không thấy.  Ðược sự thù thắng:                              Biết như vậy, thấy như vậy, hoặc thật không biết mà                              nói biết, không thấy mà nói thấy. Về sau được kiểm                              tra, hoặc không kiểm tra.  Kiểm tra: Có                              người hỏi: "Trưởng lão! Ngài được quả thánh chăng?                              Theo pháp sư nào mà học được quả ấy? Ngài đạt được                              tại đâu? Khi đạt được như thế nào?"Ðó gọi là kiểm                              tra.  Không kiểm tra:                              Không ai hỏi. Nếu không thật sự được pháp hơn người                              mà nói là mình được, thì dù có ai kiểm tra hay không                              kiểm tra cũng phạm tội Ba La Di.  Cầu thanh tịnh:                              Vì muốn được thanh tịnh, nên nói: Tôi không biết mà                              nói rằng biết, không thấy mà nói rằng thấy.  Hư: Trống không.                              Cuống: Không đúng                              sự thật.  Vọng ngữ: Tự nói                              một cách hư dối.  Trừ tăng thượng mạn:                              Thế Tôn thể tất.  Ba La Di: (như                              trên đã nói)  Lại có Ba La Di không phải do                              nói dối mà do thoái hóa, đọa lạc. Ðó gọi là Ba La                              Di.  Lại có Ba La Di: Tội đã vi phạm                              không thể phát lồ sám hối, gọi là Ba La Di.  Nếu Tỳkheo tự nói: "Tôi là bậc                              pháp trí chăng?"thì phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu nói: "Tôi là bậc pháp trí",                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu nói: "Tôi đã được pháp                              trí", thì phạm tội Ba La Di.  Nếu Tỳkheo nói: "Tôi đoạn trừ                              như vậy, tu tập như vậy, chứng ngộ như                              vậy.v.v..."cho đến nói: "Tôi là bậc lậu tận lực                              chăng?"thì phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu nói: "Tôi là bậc lậu tận                              lực", thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu nói: "Tôi được lậu tận                              lực", thì phạm tội Ba La Di. (hoặc nói): Ðoạn như                              vậy, tu như vậy, chứng như vậy.v.v..., cũng như thế.                              Nếu Tỳkheo chuyên đi giáo hóa,                              đến nhà đàn việt, nói với người đàn bà rằng: "Này Ưu                              Bà Di, các Tỳkheo an cư tại chỗ ấy đều chẳng phải là                              phàm phu", thì phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu nói: "Tôi cũng ở trong số                              đó", thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu họ hỏi: "Trưởng lão đã được                              pháp ấy sao?"  Ðáp: "Ðã được", thì phạm tội Ba                              La Di.  Nếu Tỳkheo nói: "Này Ưu Bà Di!                              Các Tỳkheo an cư tại chỗ kia đều được quả A La Hán",                              cho đến nói: "Tôi cũng được pháp ấy", thì phạm tội                              Ba La Di.  Hoặc Tỳkheo nói: "Các Tỳkheo an                              cư tại chỗ kia đều được pháp thù thắng", cho đến                              nói: "Tôi được pháp ấy", thì phạm tội Ba La Di.  Hoặc nói: "Các Tỳkheo an cư tại                              chỗ kia đã xong..."cũng như vậy.  Nếu Tỳkheo nói với Ưu Bà Tắc,                              Ưu Bà Di rằng: "Các Tỳkheo tự tứ tại chỗ kia đều                              chẳng phải phàm phu, đều là A La Hán, đều được pháp                              thù thắng"; cho đến nói: "Tôi được pháp ấy", thì                              phạm tội Ba La Di.  Nếu Tỳkheo nói với Ưu Bà Di:                              "(261c) Các Tỳkheo trú tại tự viện kia đều chẳng                              phải phàm phu, đều là A La Hán, đều được pháp thù                              thắng", cho đến nói: "Tôi được pháp ấy", thì phạm                              tội Ba La Di.  Nếu Tỳkheo nói với Ưu Bà Di:                              "Các Tỳkheo thượng tọa ở tại chỗ kia đều chẳng phải                              phàm phu, đều là A La Hán, đều được pháp thù thắng".                              Rồi người ấy hỏi: "Trưởng lão có được pháp ấy                              chăng?". Ðáp: "Tôi cũng được pháp ấy"thì phạm tội Ba                              La Di. Tại nhà quốc vương, nhà đại thần, nhà trưởng                              giả, nhà cư sĩ ở trong thành, trong viện, cũng như                              vậy.  Nếu Tỳkheo nói: "Các Tỳkheo ở                              nhà ông, các Tỳkheo thọ trai nhà ông, các Tỳkheo dạy                              Kinh cho bà con của ông, đều không phải là phàm phu,                              mà là A La Hán, đã được pháp thù thắng", cho đến                              nói: "Tôi đã được pháp ấy", thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu nói:"Tỳkheo cầm bát như                              thế, mặc y như thế, ăn thức ăn như thế, đi như thế,                              đứng như thế, nằm như thế, đều không phải là phàm                              phu, mà là A La Hán, đã được pháp thù thắng", cho                              đến nói: "Tôi đã được pháp ấy", thì phạm tội Ba La                              Di.  Nếu nói: "Các Tỳkheo trên đây                              đều được pháp trí, tôi cũng được pháp trí chăng?"thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.  Nếu nói: "Tôi là bậc pháp trí",                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu nói: "Tôi đã chứng đắc pháp                              trí", mà không thật chứng, thì phạm tội Ba La Di.                              Hoặc nói: "Tôi biết như thế,                              tôi đoạn như thế, tôi tu như thế", nói như thế, cho                              đến "được lậu tận lực, đã chứng đắc", cũng như vậy.                              Nếu Tỳkheo dùng ngôn ngữ thủ đô                              nói với người ở biên thùy, hoặc dùng ngôn ngữ ở biên                              thùy nói với người ở thủ đô, hoặc dùng ngôn ngữ thủ                              đô nói với người ở thủ đô, hoặc dùng ngôn ngữ biên                              thùy nói với người ở biên thùy, chỉ nói nghĩa mà                              không nói ẩn ý, thì phạm tội Thâu Lan Giá.  Nếu nói ẩn ý mà không nói                              nghĩa, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu nói cả ẩn ý lẫn                              nghĩa, thì phạm tội Ba La Di. Nếu không nói nghĩa                              cũng không nói ẩn ý mà hiện tướng thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.  Nói nghĩa không nói ẩn ý: Tự                              xưng nói về mình (ngã) mà không xưng nói La Hán.  Nói ẩn ý không nói nghĩa: Xưng                              nói về La Hán mà không xưng nói về mình.  Nói cả nghĩa lẫn ẩn ý: Tự xưng                              nói "Ta là La Hán".  Không nói nghĩa cũng không nói                              ẩn ý: Hiện tướng La Hán, hoặc nhắm mắt lại, dùng tay                              chỉ vào mình, nói với Ưu Bà Di: "Bà là kẻ ngu si                              không biết bậc đáng tôn kính, ví như hoa Ưu đàm bát,                              lâu lắm mới xuất hiện một lần mà không biết trân                              quí". Làm ra tướng trạng như vậy, thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.  Nếu Tỳkheo viết ra chữ hoặc                              bằng dấu hiệu, hoặc ra dấu tay, hiện nghĩa mà không                              hiện ẩn ý, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Hoặc hiện ẩn ý                              không hiện nghĩa cũng phạm tội Việt Tỳ Ni tâm niệm                              sám hối. Nếu hiện cả nghĩa lẫn ẩn ý, thì phạm tội                              Thâu Lan Giá.  Nếu không hiện nghĩa cũng không                              hiện ẩn ý, thì không có tội. Trừ căn, lực, giác chi,                              thánh đạo, chủng, còn các thứ thiện pháp thế gian                              (262a), các oai nghi nhỏ nhặt không nên tán thán mà                              chỉ tán thán Phật, Pháp, Tăng, các đại đệ tử như Xá                              Lợi Phất, Mục Kiền Liên thì không có tội. Không nên                              tự ca ngợi bản thân mình. Chỉ khi nào (ai) đồng ý                              hỏi, mình nói sự thật, thì không có tội. Thế nên,                              nói:  - Nếu Tỳkheo chưa biết, chưa                              chứng mà tự xưng được pháp hơn người, được Thánh tri                              kiến thù thắng, biết như vậy, thấy như vậy. Về sau,                              hoặc bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra, biết là                              mình phạm tội, muốn cầu thanh tịnh, nên nói như sau:                              "Thưa Trưởng lão! Tôi không biết mà nói rằng biết,                              không thấy mà nói rằng thấy, lời nói trống không,                              dối trá, không thật", trừ trường hợp tăng thượng mạn                              ra, Tỳkheo ấy phạm tội Ba La Di, không được sống                              chung với Tăng chúng.  Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại                              thành Xá vệ, sau bữa ngọ trai, Ngài ngồi quay mặt về                              hướng Ðông, bóng mặt trời xế độ ba người rưỡi, ngày                              mười ba, nửa tháng thứ tư của mùa Ðông, sáu năm sau                              khi thành đạo, vì các Tỳkheo sống nơi làng mạc, và                              các Tỳkheo tăng thượng mạn mà chế giới này. Những gì                              Phật đã chế phải tùy thuận chấp hành.  Ðó gọi là pháp tùy thuận.  (Kết thúc giới vọng ngữ).
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
2- Tưởng là người. 
3- Tạo phương tiện 
4- Có tâm giết hại. 
5- Kết thúc mạng sống.  
  
  
2- Không lợi. 
3- Khen. 
4- Không khen. 
5- Ca ngợi. 
6- Phỉ báng. 
7- Vui. 
8- Khổ. 
Xưng cơ cùng khổ vui. 
Tám pháp thường xen nhau, 
Qa lại đổi thay luôn. 
Tám pháp này biến hóa, 
Tan hoại có bền đâu. 
Thế nên Thánh đệ tử, 
Cầm gương vô thường soi. 
(258b) Xem kỹ tám pháp ấy, 
Khoảnh khắc không tạm dừng. 
Trong bốn thứ lợi lạc, 
Chưa từng bị dao động. 
Nếu gặp người hủy báng, 
Lòng không thấy khổ đau. 
Nếu lìa tám pháp này, 
Mới là kẻ trí tuệ. 
Ra khỏi sông ái dục, 
Vượt qua biển sinh tử". 
Vị ngon nhất thế gian. 
Bây giờ, khỉ cướp mất, 
Ðành phải chịu thiếu thốn". 
Xưng cơ cùng khổ vui. 
Ðều là pháp vô thường. 
Có gì đâu buồn vui!" 
Không có gì thích thú. 
Chỉ nghe tiếng chê bai, 
Không được ai khen ngợi. 
Ta nay được làm chim, 
Vì sao chịu khổ này?" 
Chu miệng nhát trẻ con. 
Tự mình gây tội lỗi, 
Chẳng bao lâu hết lợi". 
Thấy trước việc chưa đến.  
Anh em ta chưa chết, 
Mà khỉ đã chết rồi". 
Ta cũng không thèm ra. 
Huống gì là giả dạng, 
Khủng bố ta như trước. 
Thấy ta giữ trai giới, 
Ngươi lại đến thử ta. 
Giả sử là cục thịt, 
Ta cũng không thể tin. 
Huống gì giả dê con, 
Làm bộ kêu be be". 
Bấy giờ, Thế Tôn đọc kệ: 
"Nếu có người xuất gia, 
Giữ giới cách hời hợt, 
Không thể bỏ lợi dưỡng, 
Như sói giữ trai giới". 
Vội vàng tợ việc gấp. 
Nên tôi đến hỏi ông, 
Ðịnh làm việc gì thế?" 
Bà La Môn dùng kệ đáp lại: 
"Nước biển cả này đây, 
Sâu rộng, chúa trăm sông. 
Nay tôi dùng phương tiện, 
Chỉ muốn múc cho hết". 
Khi ấy thần biển lại đọc kệ: 
"Biển lớn chứa trăm sông, 
Có lỗi gì với ông? 
Mà ông dùng phương tiện, 
Mong múc hết sạch không?" 
Bà La Môn lại đọc kệ: 
"Tôi trải qua khổ cực, 
Vượt biển tìm châu báu. 
Ðược băm hai dật vàng, 
Ma ni mười bốn hạt. 
Ðịnh rời thuyền lên bờ, 
Gói đồ rơi xuống biển. 
Vì tìm lại bảo vật, 
Muốn múc cạn biển này". 
Bấy giờ, thần biển lại đọc kệ: 
"Biển lớn quá rộng sâu, 
Chúa tể cả trăm sông. 
Giả sử trăm nghìn năm, 
Múc hoài vẫn không hết". 
Muỗng cây cán sắt khó hư hoại, 
Chuyên cần nổ lực không ngơi nghỉ 
Biển cả lo gì chẳng cạn vơi". 
Tâm chí không ngơi nghỉ. 
Vì cảm đức chuyên cần, 
Tuy mất rồi lại được". 
Ai được sinh, cõi trời? 
Kẻ nào suốt ngày đêm, 
Nuôi lớn các công đức?" 
Trồng cây bố thí trái. 
Rừng cây cho bóng mát, 
Cầu đò đưa người qua. 
Bố thí tu tịnh giới, 
Trí tuệ bỏ xan tham. 
Công đức ngày đêm tăng, 
Thường sinh cõi trời người".  
Ðó là nhân pháp. 
