Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri               Quyển Thứ                              Hai Mươi Lăm                                                                                        NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ BA.   TỘI                              TĂNG-GIÀ-BÀ-THI-SA.                               Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ, Tỉ-kheo A Lê Tra                              hủy báng khế kinh, nói với các Tỉ-kheo như sau:                               - Thưa Trưởng lão,                              theo tôi biết pháp mà Thế Tôn thuyết giảng thì những                              gì gọi là chướng đạo, khi thực hành chúng không có                              gì là chướng đạo cả. Các Tỉ-kheo liền khuyên:                               - Trưởng lão!                              Thầy đừng hủy báng khế kinh, hủy báng khế kinh là                              hành vi ác tà kiến, rơi vào đường ác, đọa xuống địa                              ngục.                               Thầy bèn đáp:                               - Ðó là cái thấy                              tốt đẹp, cái thấy thuần thiện, cha mẹ, Thầy dạy của                              tôi kế thừa từ xưa đến nay, đều thấy như vậy cả.                               Các Tỉ-kheo bèn                              đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              các Tỉ-kheo:                               -- Nếu Tỉ-kheo A                              Lê Tra nói rằng: "Thế Tôn thuyết pháp, theo tôi hiểu,                              thì những gì gọi là chướng đạo khi thực hành chúng                              không có gì là chướng đạo cả", [427b] thì nên khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người                              ba lần và khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần.                                                                                         Khi khuyên can ở chỗ vắng, trước hết nên hỏi:                              "Trưởng lão A Lê Tra, có thật Thầy hủy báng khế kinh,                              nói rằng: "Thế Tôn thuyết pháp, theo tôi hiểu, thì                              thực hành những pháp gọi là chướng đạo, không có gì                              là chướng đạo cả" phải không?".                               Nếu đáp: "Thật                              như vậy", thì bấy giờ nên khuyên can ở chỗ vắng như                              sau: "Này Trưởng lão, Thầy đừng hủy báng khế kinh,                              hủy báng khế kinh là ác tà kiến, sẽ rơi vào đường ác,                              đọa xuống địa ngục. Vì lòng từ, muốn được lợi ích                              cho nên tôi khuyên can Thầy, Thầy hãy bỏ việc này đi.                              Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can                              nữa, Thầy có bỏ việc này không?".                               Nếu đáp: "Ðó là                              cái thấy tốt đẹp, cái thấy thuần thiện, cha mẹ và                              thầy dạy của tôi đã kế thừa từ trước đến nay, đều                              thấy như vậy cả, tôi không thể bỏ", thì nên khuyên                              can đến lần thứ hai, thứ ba.                               Nếu không bỏ thì                              nên khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần.                               Nếu cũng không bỏ                              nữa, thì nên đem đến giữa Tăng làm yết-ma. Người làm                              yết-ma nên nói như sau:                               - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe. "Tỉ-kheo A Lê Tra hủy báng khế kinh,                              nói như sau: "Theo tôi hiểu pháp mà Thế Tôn thuyết                              giảng, thì khi thực hành những pháp gọi là chướng                              đạo, không có gì là chướng đạo cả", rồi được khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà                              không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cũng                              nên khuyên can ba lần.                               Thế rồi, nên hỏi                              Thầy ở giữa Tăng: "Này trưởng lão, có thật Thầy hủy                              báng khế kinh, nói rằng: "Theo tôi hiểu pháp do Thế                              Tôn thuyết giảng, thì khi thực hành những pháp gọi                              là chướng đạo, không có gì là chướng đạo cả" rồi                              được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người                              ba lần, mà không bỏ việc ấy phải không?".                               Nếu đáp: "Ðúng                              như vậy", thì nên khuyên can ở giữa Tăng như sau: "Trưởng                              lão, Thầy đừng hủy báng khế kinh, hủy báng khế kinh                              là việc ác tà kiến, bị rơi vào đường ác, đọa xuống                              địa ngục. Tăng nay vì lòng từ, muốn làm lợi ích nên                              khuyên can Thầy. Một lần khuyên can đã xong, còn hai                              lần khuyên can nữa, Thầy có bỏ việc này không?" Thầy                              đáp: "Ðó là cái thấy tốt đẹp, cái thấy thuần thiện,                              cha mẹ, thầy dạy của tôi đã kế thừa từ trước đến                              nay, đều thấy như vậy, tôi không thể bỏ". Rồi được                              khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba như vậy mà vẫn                              không bỏ.                               Các Tỉ-kheo liền                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              các Tỉ-kheo:                               - Nếu Tỉ-kheo A                              Lê Tra đã hủy báng khế kinh, rồi được khuyên can ở                              chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà không                              bỏ, thì Tăng nên làm yết-ma cử tội về việc hủy báng                              khế kinh mà không bỏ.                               Người làm yết-ma                              nên nói như sau:                               - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo A Lê Tra hủy báng khế kinh,                              nói như sau: "Theo tôi hiểu pháp do Thế Tôn Thuyết                              giảng, thì khi thực hành những điều gọi là chướng                              đạo, không có gì là chướng đạo cả", rồi được khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người                              ba lần, khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần mà không                              bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma                              cử tội Tỉ-kheo A Lê Tra về việc hủy báng khế kinh mà                              không bỏ. Ðây là lời tác bạch. (bạch như vậy xong,                              làm yết-ma ba lần).                               [427c] Lại nữa,                              khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Thi Lợi Da                              Bà khởi lên ác tà kiến, nói rằng: "Tự mình sát sinh,                              dạy người sát sinh, cho đến làm ác không có tai họa,                              làm thiện không có phước báo, không có quả báo thiện                              ác trong đời này hay đời sau".                               Các Tỉ-kheo bèn                              khuyên: "Trưởng lão Thi Lợi Da Bà, thầy đừng khởi                              lên ác kiến, khởi lên ác kiến là bất thiện, sẽ rơi                              vào ác đạo, đọa xuống địa ngục".                               Thầy liền đáp: "Ðó                              là cái thấy tốt đẹp, cái thấy thuần thiện, cha mẹ,                              thầy dạy của tôi kế thừa từ trước đến nay đều thấy                              như vậy".                               Các Tỉ-kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo:                               -- Nếu Thi Lợi Da                              Bà khởi lên ác kiến, cho đến nói rằng: "Không có quả                              báo Thiện ác...", thì nên khuyên can ba lần ở chỗ                              vắng, khuyên can ba lần ở chỗ nhiều người, khuyên                              can ba lần ở giữa chúng Tăng.                               Khi khuyên can ba                              lần ở chỗõ vắng, trước hết nên hỏi: "Trưởng lão Thi                              Lợi Da Bà, có thật Thầy khởi lên ác kiến, nói như                              sau: "Tự mình sát sinh, dạy người sát sinh, cho đến                              làm ác không có tai họa, làm thiện không có phước                              báo, không có quả báo                              thiện ác trong đời này và đời sau" phải không?".                                                                                         Nếu đáp: "Ðúng như vậy", thì nên khuyên can:                              "Trưởng lão, Thầy đừng khởi lên ác kiến, khởi lên ác                              kiến là không tốt, sẽ rơi vào đường ác, đọa xuống                              địa ngục. Nay tôi vì lòng từ, muốn làm lợi ích nên                              khuyên can Thầy. Một lần khuyên can đã xong, còn hai                              lần khuyên can nữa, Thầy có bỏ ác kiến này không?".                              Nếu đáp: "Ðó là cái thấy tốt đẹp, cái thấy thuần                              thiện, cha mẹ, thầy giáo của tôi đã kế thừa từ trước                              đến nay, đều thấy như vậy, tôi không thể bỏ", thì                              nên khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nếu cũng                              không bỏ, thì nên khuyên can ở chỗ nhiều người ba                              lần cũng như vậy. Nếu vẫn không bỏ nữa, thì nên đem                              đến giữa Tăng, làm yết-ma cử tội. Người làm yết-ma                              nên nói như sau:                               - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe. Thi Lợi Da Bà khởi lên ác tà kiến,                              nói rằng: "Tự mình sát sinh, dạy người sát sinh, cho                              đến... làm ác không có tai họa, làm thiện không có                              phước báo, không có quả báo thiện ác trong đời này                              hay đời sau", rồi được khuyên can ở chỗ vắng ba lần,                              khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ. Nếu                              thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay nên khuyên can                              ba lần ở giữa chúng Tăng.                               Bấy giờ Tăng nên                              hỏi:                               - Này Trưởng lão                              Thi Lợi Da Bà, có thật thầy nói như sau: "Tự mình                              sát sinh, dạy người sát sinh, cho đến làm ác không                              có tai họa, làm thiện không có phước báo, không có                              quả báo thiện ác trong đời này hay đời sau", rồi                              được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ                              nhiều người ba lần mà vẫn không bỏ việc ấy phải                              không?".                               Nếu đáp: "Ðúng                              như vậy", thì nên khuyên can ở giữa Tăng: - Này                              trưởng lão, thầy đừng khởi lên ác tà kiến, khởi lên                              ác tà kiến như vậy là không tốt, sẽ rơi vào đường ác,                              đọa vào địa ngục. Chúng Tăng vì lòng từ, muốn làm                              lợi ích nên khuyên can thầy. Một lần khuyên can đã                              xong, còn hai lần khuyên can nữa, Thầy có bỏ ác tà                              kiến này không? Nhưng Thầy vẫn đáp: "[428a] Ðó là                              cái thấy tốt đẹp, cái thấy thuần thiện, cha mẹ, thầy                              giáo của tôi đã kế thừa từ trước đến nay, đều thấy                              như vậy. Tôi không thể bỏ".                               Khuyên can như                              vậy một lần không bỏ, cho đến ba lần khuyên can vẫn                              không bỏ.                               Do vậy, các                              Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.                              Phật liền bảo các Tỉ-kheo:                               - Nếu Thi Lợi Da                              Bà khởi lên ác tà kiến, rồi được khuyên can ba lần                              mà không bỏ, thì Tăng nên làm yết-ma cử tội về việc                              không bỏ ác tà kiến. Người làm yết-ma nên nói như                              sau:                               - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo Thi Lợi Da Bà khởi lên ác tà                              kiến rồi được khuyên can ba lần ở chỗ vắng, khuyên                              can ba lần ở chỗ nhiều người, khuyên can ba lần ở                              giữa chúng Tăng mà vẫn không bỏ. Nếu thời gian của                              Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma cử tội Thi Lợi Da                              Bà về việc không bỏ ác tà kiến. Ðây là lời tác bạch.                              (bạch xong, ba lần yết-ma, cho đến) Tăng đã bằng                              lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận việc nay là như vậy.                               Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-kheo Ma Lâu Gia                              Tử khởi lên biên kiến, nói rằng:                               - Thế giới là hữu                              biên, thế giới là vô biên.                               Các Tỉ-kheo                              khuyên:                               - Trưởng lão!                              Thầy đừng khởi lên biên kiến, biên kiến này là ác                              kiến, sẽ rơi vào đường ác, đọa xuống địa ngục.                               Thầy đáp:                               - Ðó là cái thấy                              tốt, cái thấy thiện; cha mẹ và thầy tôi từng kế thừa                              và đều thấy như vậy từ xưa đến nay. Tôi không thể bỏ.                               Các Tỉ-kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              các Tỉ-kheo:                               - Nếu Tỉ-kheo Ma                              Lâu Gia Tử khởi biên kiến, nói rằng: - "Thế giới là                              hữu biên, thế giới là vô biên", thì nên khuyên can ở                              chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần                              và khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần.                               Khi khuyên can ở                              chỗ vắng, nên hỏi:                               - Trưởng lão, có                              thật Thầy khởi lên biên kiến, nói rằng: "Thế giới là                              hữu biên, thế giới là vô biên" không?".                               Nếu đáp: "Ðúng                              như vậy", thì bấy giờ nên khuyên can: "Trưởng lão,                              đó là ác kiến, sẽ rơi vào đường ác, đọa xuống địa                              ngục. Nay tôi vì lòng từ, muốn được lợi ích nên                              khuyên thầy. Một lần khuyên đã xong, còn hai lần                              khuyên nữa. Thầy có bỏ biên kiến này không? ".                               Nếu đáp: "Ðó là                              cái thấy tốt, cái thấy thiện. Cha mẹ và thầy tôi                              từng kế thừa và đều thấy như vậy từ xưa đến nay, nên                              tôi không thể bỏ", thì nên khuyên can như vậy đến                              lần thứ hai, thứ ba.                               Nếu cũng không bỏ,                              thì nên khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần cũng như                              vạây. Nếu vẫn không bỏ, thì nên làm yết-ma cử tội ở                              giữa chúng Tăng. Người làm yết-ma nên nói như sau:                               - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo Ma Lâu Già Tử này khởi lên                              biên kiến, nói: "Thế giới là hữu biên, thế giới là                              vô biên", rồi được khuyên can ở chỗ vắng ba lần,                              khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ. Nếu                              thời gian của Tăng đã đến, Tăng cũng nên khuyên can                              ba lần.                               Bấy giờ, ở giữa                              Tăng trước hết nên hỏi:                               - Trưởng lão! Có                              thật thầy khởi lên biên kiến, nói: "Thế giới là hữu                              biên, thế giới là vô biên", [428b] rồi được khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người                              ba lần, mà không bỏ biên kiến này phải không?"                               Nếu Thầy vẫn đáp:                              "Ðúng như vậy", thì bấy giờ nên khuyên can ở giữa                              chúng Tăng: "Trưởng lão! Thầy đừng khởi lên biên                              kiến. Biên kiến này là ác kiến, phải rơi vào đường                              ác, đọa xuống địa ngục. Tăng nay vì lòng từ, muốn                              được lợi ích, nên khuyên Thầy. Một lần khuyên đã                              không xong, còn hai lần khuyên nữa, Thầy có bỏ biên                              kiến này không?"                               Nhưng thầy vẫn                              đáp: "Ðó là cái thấy tốt, cái thấy thiện. Cha mẹ và                              thầy tôi từng kế thừa và đều thấy như vậy từ xưa đến                              nay, nên tôi không thể bỏ."                               Rồi được khuyên                              can đến lần thứ hai, thứ ba cũng như vậy mà vẫn                              không bỏ. Do vậy, các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến                              bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỉ-kheo:                               - Nếu Tỉ-kheo Ma                              Lâu Già Tử này khởi lên biên kiến, rồi được khuyên                              can ở chỗ vắng, ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ,                              thì Tăng nên làm yết-ma cử tội về việc không bỏ biên                              kiến, như trên đã nói. Ðó gọi là yết-ma cử tội.                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-kheo Thi Lợi Da Bà                              thường thường phạm tội Tăng già bà thi sa, liền nói                              với các Tỉ-kheo:                               - Thưa các Trưởng                              lão, cho tôi pháp Ma-na-đỏa.                               Các Tỉ-kheo bèn                              hỏi:                               - Trưởng lão, vì                              sao thầy xin pháp Ma-na-đỏa?                              Thầy đáp: "Vì tôi                              phạm tội Tăng già bà thi sa.                               Các Tỉ-kheo trước                              đó đã biết Thầy thường phạm tội Tăng già bà thi sa,                              nên nói:                               - Trưởng lão Thi                              Lợi Da Bà, Tăng tập trung hòa hợp làm yết-ma chất                              vấn, những gì trưởng lão đã phạm thì nên trình bày                              tất cả trong một lần yết-ma. Lần thứ hai, thứ ba                              cũng nói như vậy.                               Thế rồi, Thầy đáp:                               - Chính tôi vi                              phạm tội đó.                                                                                         Nhưng sau khi làm yết-ma xong, thầy suy nghĩ:                              "Vì sao ta đợi làm yết-ma trở lại? Ta nên nói tất cả                              trong một lần làm yết-ma", rồi nói với các Tỉ-kheo:                               - Thưa các Trưởng                              lão, cho tôi pháp Ma-na-đỏa.                               - Vì sao thầy lại                              đòi pháp Ma-na-đỏa?                               - Vì tôi phạm tội                              Tăng già bà thi sa.                               - Trưởng lão phạm                              khi nào?                               - Phạm vào khi ấy.                               - Trước đây chúng                              tôi đã nói với trưởng lão rằng Tăng đang tập trung                              hòa hợp làm yết-ma, trưởng lão có phạm những gì thì                              hãy nói ra tất cả trong một lần làm yết-ma, vì sao                              không nói?                               - Vì tôi hổ thẹn                              nên không nói ra tất cả.                               Các Tỉ-kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              gọi Thi Lợi Da Bà đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền                              hỏi đầy đủ sự kiện trên:                               - Ông có việc đó                              thật không?                               - Có thật như vậy,                              bạch Thế Tôn.                               - Này kẻ ngu si!                              Khi phạm không biết hổ thẹn, khi cầu Thanh tịnh vì                              sao lại hổ thẹn? Ðây là việc ác, phi pháp, phi luật,                              trái lời Ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn                              thiện pháp được.                                                                                         TRÁCH NHIỆM CỦA TỈ-KHEO ÐOÁN SỰ.                               [428c] Thế rồi,                              Phật nói với các Tỉ-kheo:                               - Khi vị Tỉ-kheo                              trì Luật cho ai pháp xuất tội, thì họ nói có tội                              cũng biết, không tội cũng biết; che giấu cũng biết,                              không che giấu cũng biết; phát lồ cũng biết, không                              phát lồ cũng biết; nên cho biệt trú cũng biết, không                              nên cho biệt trú cũng biết; như pháp cho biệt trú                              cũng biết, không như pháp cho biệt trú cũng biết;                              như pháp hành Ba Lợi Bà Sa cũng biết không như pháp                              hành Ba Lợi Bà Sa cũng biết,; nửa chừng có tội cũng                              biết, nửa chừng không có tội cũng biết; đêm gián                              đoạn cũng biết, đêm không gián đoạn cũng biết; tùy                              thuận làm cũng biết, không tùy thuận làm cũng biết;                              nên cho pháp Ma-na-đỏa cũng biết, không nên cho pháp                              Ma-na-đỏa cũng biết; cho Ma-na-đỏa đúng pháp cũng                              biết, cho ma-na-đỏa không đúng pháp cũng biết; hành                              Ma-na-đỏa rốt ráo cũng biết, hành Ma-na-đỏa không                              rốt ráo cũng biết; nên cho pháp xuất tội cũng biết,                              không nên cho pháp xuất tội cũng biết; cho pháp xuất                              tội đúng pháp cũng biết, cho pháp xuất tội không                              đúng pháp cũng biết; cùng che giấu cũng biết, không                              cùng che giấu cũng biết; che giấu vô lượng cũng biết,                              Tỉ-xá-già-cước cũng biết; hoặc có trường hợp tội hợp                              mà không phải đêm hợp; hoặc là đêm hợp mà không phải                              tội hợp; hoặc là tội hợp mà đêm cũng hợp; hoặc là                              tội không hợp mà đêm cũng không hợp; hoặc tội cũ,                              tội trung gian. (Ðó gọi là Tỉ-kheo trì luật).                               (Lại nữa) Tỉ-kheo                              thành tựu bốn pháp sau đây gọi là người giữ luật. Ðó                              là: Biết có tội, biết không có tội, biết tội nặng,                              biết tội nhẹ. Ðó gọi là bốn pháp.                               Lại nữa, thành                              tựu bốn pháp sau đây gọi là người giữ luật: Biết có                              tội, biết không có tội, không xem tội nặng thành tội                              nhẹ, không xem tội nhẹ thành tội nặng. Ðó gọi là bốn                              pháp.                               Lại nữa, thành                              tựu bốn pháp: Biết có tội, biết không có tội, không                              bảo người không có tội là có tội, không bảo người có                              tội là không tội. Ðó gọi là bốn pháp.                               Lại, thành tựu                              bốn pháp: Không xem tội nặng là tội nhẹ, không xem                              tội nhẹ là tội nặng, không xem người không phạm tội                              là phạm tội, không xem người phạm tội là không phạm                              tội. Ðó gọi là bốn pháp.                               Lại, thành tựu                              năm pháp sau gọi là người giữ luật: Biết rõ sự tranh                              chấp, biết rõ nguyên nhân sự tranh chấp, biết rõ                              cách dập tắt sự tranh chấp, biết rõ cách phân biệt                              về việc chấm dứt tranh chấp, biết rõ cách dập tắt                              tranh chấp làm cho ngưng hẳn. Ðó gọi là năm pháp.                               Lại, thành tựu                              sáu pháp: tức năm việc trên, thêm việc khéo dập tắt                              sự tranh chấp đã tích lũy. Ðó gọi là sáu pháp.                               Lại, thành tựu                              bảy pháp: Biết có tội, biết không có tội, biết tội                              nặng, biết tội nhẹ, không đem tội nặng làm tội nhẹ,                              không đem tội nhẹ làm tội nặng, khéo biết cách làm                              yết-ma. [429a] Ðó gọi là bảy pháp.                               Lại, thành tựu                              tám pháp: Tức bảy việc trên, thêm việc biết rõ tình                              huống nào nên tụng giới đầy đủ hay giản lược. Ðó gọi                              là tám pháp.                               Lại, thành tựu                              chín pháp: Ðó là tám việc trên, tăng thêm việc khéo                              tụng giới, khéo biết nghĩa, không quên, hiểu rõ,                              khéo biết pháp yết-ma. Ðó gọi là chín pháp.                               Lại, thành tựu                              mười pháp: Tức ngoài chín việc trên, thêm việc khéo                              điều phục các căn, phạm hạnh viên mãn, hiểu sâu pháp                              yết-ma. Ðó gọi là mười pháp.                               Lại, thành tựu                              năm pháp gọi là người giữ luật. Ðó là: Trì giới,                              biết có tội, biết không có tội, biết rõ tình huống                              nào nên tụng giới đầy đủ hay giản lược, khéo biết                              pháp yết-ma. Ðó gọi là năm pháp.                               Lại, thành tựu                              bốn pháp. Ðó là: Trì giới, biết rõ có tội, biết rõ                              không có tội, biết rõ pháp yết-ma. Ðó gọi là bốn                              pháp.                               Lại, thành tựu ba                              pháp: Biết có tội, biết không có tội, biết pháp yết-ma.                              Ðó gọi là ba pháp.                               Lại, thành tựu                              hai pháp. Ðó là: Biết có tội, biết không có tội. Ðó                              gọi là hai pháp.                               Lại, thành tựu                              một pháp. Ðó là: khéo biết pháp yết-ma. Ðó gọi là                              người giữ luật, cho đến thành tựu mười bốn pháp thì                              gọi là người giữ luật bậc nhất; ngoại trừ đức Như                              Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri (thì không ai làm được).                              Mười bốn pháp đó như sau: 1/ Biết có tội; 2/ Biết                              không có tội; 3/ Biết tội nặng; 4/ Biết tội nhẹ; 5/                              Biết có che giấu; 6/ Biết không che giấu; 7/ Biết                              tội có thể trị; 8/ Biết                              tội không thể trị; 9/ Biết đã được Thanh tịnh;                              10/ Biết chưa được Thanh tịnh; 11/ Ðược công đức của                              bốn Thiền, hiện được an lạc; 12/ Ðược Thiên nhãn,                              thiên nhĩ và túc mạng thông; 13/ Dứt sạch hữu lậu;                              14/ Ðược Vô lậu (hết cấu uế). Ðó gọi là mười bốn                              pháp. Người thành tựu mười bốn pháp này là bậc nhất                              trong tất cả các người giữ luật, ngoại trừ Ðức Như                              Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.                               Phật nói với các                              Tỉ-kheo:                               - Tỉ-kheo                              Ưu-ba-li thành tựu mười bốn pháp kể trên, là người                              giữ luật bậc nhất, có tội cũng biết, không có tội                              cũng biết, cho đến dứt sạch hữu lậu, đạt được vô lậu                              tuệ giải thoát.                               Có tội cũng biết:                              tức biết năm thiên tội: Ba-la-di, Tăng già bà thi sa,                              Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Việt-Tì-ni.                               Ba-la-di:                              Dâm, trộm, giết người, tự xưng được pháp hơn người.                               Tăng già bà                              thi sa:                              Cố ý xuất tinh, xúc chạm người nữ, nói lời ô uế, cho                              đến làm hoen ố nhà người ở thôn xóm.                               Ba-dạ-đề:                              Gồm ba mươi Ni-tát-kì, chín mươi hai Ba-dạ-đề thuần                              túy.                                                            Ba-la-đề-đề-xá-ni:                              Ở nơi A-luyện-nhã, không bệnh mà nhận Thức ăn của                              Tỉ-kheo-ni, ăn Thức ăn do Tỉ-kheo-ni chỉ điểm, khất                              thực tại nhà học gia.                               Việt Tì-ni:                              Gồm mười ba việc như sau:                               1) A-già-dữ; 2)                              Thâu-lan-giá; 3) Xú Thâu-lan; 4) Không làm; 5) Không                              [429b] nói; 6) Ðột-cát-la; 7) Ác thanh; 8) Oai nghi;                              9) Phi oai nghi; 10) Ác oai nghi; 11) Ác tà mạng;                              12) Ác kiến; 13) Tâm sinh hối Tì-ni.                               1) A-già-dữ: Như                              ngoại đạo Thân ma, như Tôn giả Bạt-đà-lợi, như các                              Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá, các trường hợp như thế                              đều phải đến Phật sám hối. Ðó gọi là A-già-dữ.                               2) Thâu-lan-giá:                              Lấy trộm dưới năm tiền, đụng vào vật đáng giá năm                              tiền mà chưa dời khỏi chỗ. Ðó gọi là Thâu-lan-giá.                               3) Xú-Thâu-lan:                              Dùng tâm nhiễm ô đùa giỡn với nam căn. Ðó gọi là                              Xú-Thâu-lan.                               4) Không làm: Nếu                              Hòa Thượng, A-xà-lê bảo làm việc gì mà đúng pháp thì                              phải làm; nếu không làm thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu                              bảo gọi phụ nữ, lấy rượu đến, thì nên nói với Hòa                              Thượng, A-xà-lê: "Con nghe nói trong giới luật (việc                              đó) không được làm". Ðó gọi là không làm.                               5) Không nói: Nếu                              Hòa Thượng, A-xà-lê cùng gọi, nghe mà không đáp, thì                              phạm tội Việt-tì-ni. Nếu trong miệng đang ngậm cơm                              mà giọng nói không thay đổi thì nên đáp. Nếu không                              thể đáp được, thì nuốt cơm rồi mới đáp. Nếu Hòa                              Thượng, A-xà-lê hỏi như sau: "Vì sao nghe ta gọi mà                              không trả lời", thì nên thưa với Hòa Thượng, A-xà-lê:                              "Trong miệng con đang ngậm cơm, cho nên không đáp                              được". Ðó gọi là không nói.                               6) Ðột-cát-la:                              Như Thế Tôn nói với nhóm sáu Tỉ-kheo Ưu-đà-di và các                              Tỉ-kheo khác rằng: "Làm việc đó không tốt". Ðó gọi                              là Ðột-cát-la.                               7) Ác thanh: Giả                              tiếng kêu của voi, tiếng của ngựa, bò, lừa, lạc đà                              v.v... , tất cả tiếng của loài súc sinh như thế;                              hoặc kéo dài hơi ra rồi kêu đứt đoạn, hoặc kêu gấp                              rồi kéo dài ra. Ðó gọi là ác thanh ( tiếng kêu chối                              tai).                               8) Oai nghi: Sáng                              sớm Thức dậy nên rửa dọn sạch nơi đại tiểu tiện, rồi                              đổ đầy nước tại nơi đại tiểu tiện, lại phải quét                              tháp, viện, phòng Tăng. Nếu lấy, cho, làm các việc,                              thậm chí buộc một sợi chỉ mà không bạch với Hòa                              Thượng y chỉ, A-xà-lê thì phạm tội Việt-tì-ni. Ðó                              gọi là oai nghi.                               9) Phi oai nghi:                              như sửa tóc, trang điểm mắt, làm đẹp mặt mày, giũ y,                              làm cho giải lụa bóng sáng, buộc lưng, hơ bát làm                              cho sáng bóng, dùng gương soi mặt. Ðó gọi là phi oai                              nghi (trái oai nghi).                               10) Ác oai nghi:                              Thân có oai nghi xấu, miệng có oai nghi xấu, thân                              miệng có oai nghi xấu; thân tai hại, miệng tai hại,                              thân miệng tai hại; thân tà mạng, miệng tà mạng,                              thân miệng tà mạng. Ðó gọi là ác oai nghi (oai nghi                              xấu).                               11) Ác tà mạng:                              Thân quanh co, miệng quanh co, Tâm quanh co, hiện cử                              chỉ thân ái để hy vọng người ta cúng dường. Ðó gọi                              là ác tà mạng.                               12) Ác kiến: Tất                              cả các loại kiến giải như thường, đoạn v.v... , gọi                              là ác kiến.                               13) Tâm sinh hối                              Tì-ni: Pháp chúng học oai nghi, tâm niệm ác, không                              cố ý mà xúc chạm nữ nhân, đại loại như thế đều gọi                              là tâm hối. Ðó gọi là [429c] Tâm sinh hối Tì-ni.                                                                                         CÓ TỘI CŨNG BIẾT.                               Lại nữa, hoặc có                              tội từ tham dục sinh; hoặc có tội từ giận dữ sinh;                              hoặc có tội từ ngu si sinh; hoặc                              có tội không từ tham dục, giận dữ, ngu si sinh;                              hoặc có tội do hành vi của thân, không phải hành vi                              của miệng; hoặc do hành vi của miệng, không phải                              hành vi của thân; hoặc do hành vi của thân và miệng,                              hoặc không phải do hành vi của thân và miệng; hoặc                              có tội từ bản thân mình sinh, không phải từ thân                              người khác; hoặc từ thân người khác, không phải từ                              thân mình; hoặc từ thân mình và thân người khác                              sinh; hoặc không phải từ thân mình, cũng không phải                              thân người khác; hoặc có tội từ miệng mình sinh,                              không phải từ miệng người khác; hoặc có tội từ miệng                              người khác, không phải từ miệng mình; hoặc có tội từ                              miệng mình cũng từ miệng người khác; hoặc không từ                              miệng mình cũng không từ miệng người khác; hoặc có                              tội căn cứ tâm, không căn cứ việc; hoặc có tội căn                              cứ việc, không căn cứ tâm; hoặc có tội sự nặng,                              không phải tâm nặng; hoặc có tội do tâm nặng, không                              phải sự nặng; hoặc có tội sự nặng, tâm cũng nặng;                              hoặc có tội                              không phải sự nặng, cũng không phải tâm nặng;                              hoặc có tội do vật của mình, không phải do vật người                              khác; hoặc có tội do vật người khác, không phải do                              vật của mình; hoặc do vật mình, cũng do vật người                              khác; hoặc có tội không do vật mình, cũng không do                              vật người khác; hoặc có tội tại một chỗ mà phạm                              nhiều thứ, hoặc tại nhiều chỗ mà phạm một tội; tại                              nhiều chỗ phạm nhiều tội; hoặc tại một chỗ phạm một                              tội; hoặc từ chỗ không có tội dẫn đến có tội; hoặc                              từ chỗ có tội dẫn đến không tội; hoặc từ chỗ có tội                              dẫn đến có tội; hoặc từ chỗ không tội dẫn đến không                              tội; hoặc từ nguyên nhân tọâi nặng dẫn đến tội nhẹ;                              hoặc từ tội nhẹ dẫn đến tội nặng; hoặc từ tội nặng                              dẫn đến tội nặng; hoặc từ tội nhẹ dẫn đến tội nhẹ;                              có khi nhận mà phạm tội, có khi ăn mà phạm tội; sự                              thành có tội, không thọ thì có tội, thọ thì không có                              tội; không thực hiện thì bị tội, thực hiện thì không                              bị tội; hoặc có tội thuộc xóm làng, không thuộc nơi                              hoang vắng; hoặc có tội thuộc nơi hoang vắng, không                              thuộc xóm làng; hoặc có tội thuộc xóm làng, cũng                              thuộc nơi hoang vắng; hoặc có tội không thuộc xóm                              làng, cũng không thuộc nơi hoang vắng; hoặc có tội                              đúng thời, không phải phi thời; hoặc có tội phi thời,                              không phải đúng thời; hoặc có tội vừa đúng thời, vừa                              phi thời; hoặc có tội vừa không phải đúng thời, vừa                              không phải phi thời; hoặc có tội thuộc ban đêm,                              không phải ban ngày; hoặc có tội thuộc ban ngày,                              không phải ban đêm; hoặc có tội vừa thuộc ban đêm,                              cũng vừa thuộc ban ngày; hoặc có tội vừa không phải                              ban đêm, cũng không phải ban ngày; hoặc có tội ở chỗ                              che khuất, không phải chỗ trống trải; hoặc có tội ở                              chỗ trống trải, không phải chỗ che khuất; hoặc có                              tội vừa ở chỗ che khuất, vừa ở chỗ trống trải; hoặc                              có tội không ở chỗ che khuất, cũng không phải ở chỗ                              trống trải; hoặc có tội khi đi, không phải khi đứng;                              hoặc có tội khi đứng, không phải khi đi; hoặc có tội                              [430a] vừa khi đi, vừa khi đứng; hoặc có tội vừa                              không phải khi đi, vừa không phải khi đứng; hoặc có                              tội khi đứng, không phải khi ngồi; hoặc có tội khi                              ngồi, không phải khi đứng; hoặc có tội vừa khi ngồi,                              vừa khi đứng; hoặc có tội không phải khi ngồi, không                              phải khi đứng; hoặc có tội khi ngồi, không phải khi                              ngủ; hoặc có tội khi ngủ, không phải khi ngồi; hoặc                              có tội vừa khi ngồi, vừa khi ngủ; hoặc có tội không                              phải khi ngồi, cũng không phải khi ngủ; hoặc có tội                              khi ngủ, không phải khi đi; hoặc có tội khi đi,                              không phải khi ngủ; hoặc có tội vừa khi đi, vừa khi                              ngủ; hoặc có tội không phải khi ngủ, cũng không phải                              khi đi; hoặc có tội ở chỗ vắng, không phải chỗ đông                              người; hoặc có tội ở chỗ đông người, không phải ở                              chỗ vắng; hoặc có tội vừa ở chỗ vắng, vừa ở chỗ đông                              người; hoặc có tội không phải ở chỗ vắng, cũng không                              phải ở chỗ đông người; hoặc có tội ở chỗ đông người                              mà không phải ở giữa chúng Tăng; hoặc có tội ở chỗ                              giữa chúng Tăng, không phải chỗ đông người; hoặc có                              tội vừa ở chỗ đông người, vừa ở giữa chúng Tăng;                              hoặc có tội không phải ở chỗ đông người, cũng không                              phải ở giữa chúng Tăng; hoặc có tội ở giữa chúng                              Tăng mà không phải ở chỗ vắng vẻ; hoặc có tội ở chỗ                              vắng vẻ, không ở giữa chúng Tăng; hoặc có tội ở giữa                              chúng Tăng, cũng ở chỗ vắng vẻ; hoặc vừa không ở                              giữa chúng Tăng, cũng không ở chỗ vắng vẻ; hoặc có                              tội vào mùa Ðông, không phải mùa Xuân; hoặc có tội                              thuộc mùa Xuân, không phải mùa Ðông; hoặc vừa mùa                              Ðông, cũng vừa mùa Xuân; hoặc không phải mùa Ðông,                              cũng không phải mùa Xuân; hoặc có tội về mùa Xuân,                              không phải mùa Hạ; hoặc tội thuộc mùa Hạ, không phải                              mùa Xuân; hoặc thuộc mùa Xuân, cũng thuộc mùa Hạ;                              hoặc có tội vừa không thuộc mùa Xuân, vừa không                              thuộc mùa Hạ; hoặc có tội thuộc mùa Hạ, không phải                              mùa Ðông; hoặc thuộc mùa Ðông, không phải mùa Hạ;                              hoặc thuộc mùa Hạ, cũng thuộc mùa Ðông; hoặc không                              thuộc mùa Hạ, cũng không thuộc mùa Ðông.                               Có tội từ dục                              sinh: Như cố ý đùa giỡn với nam căn, ma xát, ác                              khẩu, tự khen mình, làm môi giới, nói với tâm hoàn                              toàn nhiễm ô. Ðó gọi là tội sinh ra từ dục.                               Có tội từ giận dữ                              sinh ra: Như vô cớ vu khống, hủy báng, nói hai lưỡi,                              đánh người, đuổi đi, biết người khác đã ăn no mà cố                              ý xúc não, xua đuổi người khác ở nơi xóm làng, đánh                              bằng nắm tay, dơ tay dọa đánh, đứng chỗ khuất lén                              nghe. Ðó gọi là tội từ giận dữ sinh ra.                               Có tội từ ngu si                              sinh ra: Do tâm ngu si mà cho rằng thế giới thực sự                              là thường hằng, hoặc thế giới là Vô thường, có các                              loại kiến giải như thế, đó gọi là tội từ ngu si sinh                              ra.                               Có tội không do                              dục, giận dữ và ngu si sinh ra: Như trường hợp                              A-la-hán phạm tội. Ðó gọi là tội không do dục, giận                              dữ và ngu si sinh ra.                               Có tội do thân                              không phải do miệng: Như ở cùng phòng với người nữ,                              ngủ cùng phòng với người chưa thọ cụ túc quá ba đêm,                              ngủ cùng giường, ngồi cùng giường, ăn nhiều chỗ, ăn                              riêng chúng, ăn chung một bát. Ðó gọi là tọâi do                              thân không phải do miệng.                               Có tội do miệng                              không phải do thân: Nói chung những tội thuộc về                              phạm vi miệng. Ðó gọi là tội do miệng, không phải do                              thân.                               Có tội gồm cả                              thân và miệng: Như vô cớ vu khống, hủy báng, nói hai                              lưỡi, đấu tranh gây rối, đuổi đi, biết người đã ăn                              no mà cố tình xúc não, đuổi đi khi ở xóm làng, dùng                              tay đánh người, đưa tay dọa đánh, đứng chỗ khuất                              nghe lén. Ðó gọi là tội gồm cả thân và miệng.                               Có tội không do                              thân và miệng: Như [430b] các tội từ tâm sinh. Ðó                              gọi là tội không do thân và miệng.                               Có tội từ thân                              mình, không phải từ thân người khác: Như nổi giận tự                              đánh vào mình. Ðó gọi là tội từ thân mình không phải                              từ thân người khác.                               Có tội từ thân                              người khác không phải từ thân mình: Như thấy người                              khác phạm tội dâm, trộm, giết người mà che giấu. Ðó                              gọi là tội từ thân người khác, không phải từ thân                              mình.                               Có tội vừa từ                              thân mình vừa từ thân người khác phát sinh: Như ngủ                              cùng nhà với phụ nữ, ngủ với người chưa thọ cụ túc                              quá ba đêm, ngủ cùng giường, ngồi cùng giường với                              người khác, ăn nhiều chỗ, ăn riêng chúng, ăn chung                              bát. Ðó gọi là tội vừa từ thân mình vừa từ thân                              người khác phát sinh.                               Có tội không từ                              thân mình, cũng không từ thân người khác: Như tất cả                              những tội thuộc lĩnh vực miệng, ngoại trừ việc dạy                              người chưa thọ cụ túc đọc bài. Ðó gọi là tội không                              từ thân mình, cũng không từ thân người khác.                               Có tội từ miệng                              mình, không phải từ miệng người khác: Tất cả tội                              thuộc về miệng, trừ việc dạy người chưa thọ cụ túc                              đọc bài. Ðó gọi là tội từ miệng mình, không phải từ                              miệng người khác.                               Có tội từ miệng                              người khác không phải từ miệng mình: Nếu Tăng giải                              quyết sự việc phi pháp mà Tỉ-kheo không gởi dục,                              cũng không cho người khác biết mình không đồng ý, im                              lặng lắng nghe. Ðó gọi là tội từ miệng người khác,                              không phải từ miệng mình.                               Có tội vừa từ                              miệng mình vừa từ miệng người khác: Như cùng đọc                              chung từng câu với người chưa thọ cụ túc. Ðó gọi là                              tội vừa từ miệng mình, vừa từ miệng người khác.                               Có tội không do                              miệng mình, cũng không do miệng người khác: Như các                              tội từ thân và tâm phát sinh. Ðó gọi là tội không do                              miệng mình, cũng không do miệng người khác.                               Có tội căn cứ vào                              tâm không căn cứ vào sự: Như trường hợp nên hỏi:                              dùng tâm gì để trộm cắp? Dùng tâm gì để giết người?                              Dùng tâm gì để xúc                              chạm phụ nữ? Dùng tâm gì để làm hại cỏ tươi?                              Dùng tâm gì để đào đất? Ðó gọi là căn cứ vào tâm,                              không căn cứ vào sự.                               Có tội căn cứ vào                              sự, không căn cứ vào tâm: Chẳng hạn không nên hỏi:                              Dùng tâm gì để hành dâm? Dùng tâm gì để ăn phi thời?                              Dùng tâm gì để uống rượu? Dùng tâm gì để ngủ cùng                              nhà với người nữ? Dùng tâm gì để ngủ cùng phòng với                              người chưa thọ cụ túc quá ba đêm? Nếu phạm thì nên                              trị phạt đúng pháp. Ðó gọi là căn cứ vào sự, không                              căn cứ vào tâm.                               Có tội sự nặng,                              không phải tâm nặng: Như Tỉ-kheo phi thời mà cho là                              đúng thời để ăn thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là sự                              nặng, không phải tâm nặng.                               Có tội tâm nặng,                              không phải sự nặng: Tỉ-kheo đúng thời mà cho là phi                              thời rồi ăn, thì phạm tội Việt-tì-ni. Ðó gọi là tội                              tâm nặng, không phải sự nặng.                               Có tội sự nặng,                              tâm cũng nặng: Như phi thời tưởng là thời để ăn thì                              phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là sự nặng, tâm cũng                              nặng.                               Có tội sự nhẹ,                              tâm cũng nhẹ: Như các pháp thuộc chúng học và oai                              nghi. Ðó gọi là sự nhẹ, tâm cũng nhẹ.                               Có tội từ vật của                              mình phát sinh, không phải từ vật người khác: Như                              Tỉ-kheo cố lấy trộm nhằm vật của chính mình, thì                              phạm tội Thâu-lan-giá. Ðó gọi là từ vật của mình                              phát sinh, không phải từ vật của người khác.                               Có tội từ vật của                              người khác, không phải từ vật của mình: Như Tỉ-kheo                              dùng tâm trộm cắp lấy vật của người khác dưới năm                              tiền, [430c] thì phạm tội Thâu-lan-giá, nếu đủ năm                              tiền thì phạm tội Ba-la-di. Ðó gọi là từ vật của                              người khác phát sinh, không phải từ vật của mình.                               Có tội vừa từ vật                              của mình vừa từ vật của người khác phát sinh: như                              Tỉ-kheo dùng tâm trộm cắp lấy vật chung của mình và                              người khác dưới năm tiền, thì phạm tội Thâu-lan-giá,                              đủ năm tiền thì phạm tội Ba-la-di. Ðó gọi là tội từ                              vật của mình và của người phát sinh.                               Có tội không phải                              từ vật của mình, cũng không phải từ vật của người:                              Như Tỉ-kheo dùng tâm trộm cắp lấy vật không có chủ,                              thì phạm tội Việt-tì-ni. Ðó gọi là tội không phải từ                              vật của mình, cũng không phải từ vật của người                              khác.                               Có tội tại một                              chỗ mà phạm nhiều tội: Như Tỉ-kheo xin tại một chỗ                              mà được tám món ăn ngon, rồi ăn mỗi thứ tại mỗi chỗ,                              thì phạm tám tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là tại một chỗ mà                              phạm nhiều tội.                               Có trường hợp tại                              nhiều chỗ mà phạm một tội: Như Tỉ-kheo xin tại nhiều                              chỗ được tám Thức ăn ngon, rồi ngồi ăn tại một chỗ                              thì phạm một tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là tại nhiều chỗ                              mà phạm một tội.                               Có trường hợp tại                              nhiều chỗ phạm nhiều tội: Như Tỉ-kheo xin tại tám                              chỗ được tám món ăn ngon, rồi ăn tám lần, phạm tám                              tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là tại nhiều chỗ phạm nhiều                              tội.                               Tại một chỗ phạm                              một tội: Như tại một chỗ xin được tám món ăn ngon,                              rồi ngồi ăn tại một chỗ. Ðó gọi là tại một chỗ phạm                              một tội.                               Từ nguyên nhân vô                              tội mà thành có tội: Như Tỉ-kheo vô tội mà xin sám                              hối về tội phạm thì phạm tội Việt-tì-ni. Ðó gọi là                              từ nguyên nhân vô tội mà thành có tội.                               Từ nguyên nhân có                              tội mà thành vô tội: Như làm phòng lớn, phòng nhỏ,                              tất cả các loại vải vóc, rồi được ba lần khuyên can.                              Ðó gọi là từ nguyên nhân có tội mà thành ra vô tội.                               Từ nguyên nhân có                              tội dẫn đến có tội: Khi Tăng tụng giới, được hỏi đến                              ba lần rằng ai có tội thì sám hối như pháp, ai không                              có tội thì im lặng, mà bấy giờ người có tội không                              làm đúng pháp, lại không nói cho người khác biết,                              cũng không thầm nghĩ: "Ðể rồi tôi sẽ sám hối đúng                              pháp với người Thanh tịnh và thông cảm", vẫn cứ im                              lặng, thì phạm tội Việt-tì-ni. Ðó gọi là từ nguyên                              nhân có tội dẫn đến có tội.                               Từ nguyên nhân                              không có tội dẫn đến không có tội: Như trường hợp                              không làm, không phạm. Ðó gọi là từ nguyên nhân                              không có tội dẫn đến không có tội.                                                                                         Từ nguyên nhân tội nặng dẫn đến tội nhẹ:                              Như Tỉ-kheo phạm tội Ba-dạ-đề mà đến sám hối với                              người ác tà kiến, biên kiến, người bắt buộc phải học                              (người đang sám hối tội Ba-la-di). Ðó gọi là từ                              nguyên nhân tội nặng dẫn đến tội nhẹ.                               Từ tội nhẹ dẫn                              đến tội nặng: Như Tỉ-kheo phạm tội Việt-tì-ni mà đến                              sám hối với người hủy báng khế kinh, người bắt buộc                              phải học, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là từ tội                              nhẹ dẫn đến tội nặng.                               Từ tôi nặng dẫn                              đến tôi nặng: Như Tỉ-kheo phạm tội Ba-dạ-đề mà đến                              sám hối với người hủy báng khế kinh, người bắt buộc                              phải học, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là từ tội                              nặng dẫn đến tội nặng.                               Từ tội nhẹ dẫn                              đến tội nhẹ: Tỉ-kheo phạm tội Việt-tì-ni mà đến sám                              hối với người chưa thọ cụ túc, thì không được gọi là                              sám hối mà còn phạm tội Việt-tì-ni. Ðó gọi là từ tội                              nhẹ dẫn đến tội nhẹ.                               [431a] Khi nhận                              phạm tội: Như nhận thịt sống, lúa thóc, vàng bạc,                              voi, ngựa, lạc đà, lừa, bò, dê, nô tì, phụ nữ, ruộng                              đất, nhà cửa. Ðó gọi là khi nhận phạm tội.                               Có trường hợp khi                              ăn phạm tội: Như ăn riêng chúng, ăn nhiều chỗ, ăn                              cùng bát, ăn trái cây không hợp pháp. Ðó gọi là khi                              ăn phạm tội.                               Việc thành tựu mà                              có tội: Như làm phòng nhỏ, phòng lớn, được khuyên                              can đến ba lần. Ðó gọi là việc thành tựu mà có tội.                               Có trường hợp                              không thọ thì có tội, thọ thì không có tội: Như khi                              thọ y Ca-thi-na thì được giải tỏa năm giới là: ăn                              riêng chúng, ăn nhiều chỗ, đi đâu không cần thưa với                              người cùng ăn với mình, cất y dư lâu ngày, rời y mà                              ngủ. Ðó gọi là không thọ thì có tội, thọ thì không                              có tội.                               Không thực hiện                              thì có tội, thực hiện thì không có tội: Khi Tỉ-kheo                              được y mới mà không dùng ba màu để nhuộm cho hoại                              sắc, hoặc dùng một màu để nhuộm, tác tịnh rồi thọ                              dụng, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là không thực                              hiện thì có tội, thực hiện thì không có tội.                               Có tội tại xóm                              làng không phải tại chỗ hoang vắng: Khi vào xóm làng                              không mặc y tăng-già-lê, không buộc đai, không cột                              dây lưng, không cầm bát, không thưa với người cùng                              ăn chung, vào xóm làng lúc phi thời. Ðó gọi là tội                              tại xóm làng, không phải tại nơi hoang vắng.                               Có tội tại nơi                              hoang vắng không phải tại xóm làng: Tỉ-kheo làm bạn                              với kẻ trộm, hẹn với phụ nữ, Tỉ-kheo-ni cùng đi                              chung đường. Ðó gọi là tội tại nơi hoang vắng, không                              phải tại xóm làng.                               Có tội vừa tại                              nơi hoang vắng, vừa tại xóm làng: Ðấm người bằng nắm                              tay, đưa tay dọa đánh người. Ðó gọi là tội vừa tại                              nơi hoang vắng, vừa tại xóm làng.                               Có tội không phải                              nơi hoang vắng, không phải xóm làng: Tội xảy ra ở                              nơi cửa vua. Ðó gọi là tội không phải nơi hoang                              vắng, cũng không phải tại xóm làng.                                                                                         Có tội đúng thời chứ không phải phi thời:                              Như ăn riêng chúng, ăn tại nhiều nơi, ăn chung một                              bát, moi dưới bát mà ăn, ăn tám món ngon, ăn trái                              cây chưa tác tịnh. Ðó gọi là tội đúng thời, chứ                              không phi thời.                                                                                         Có tội phi thời chứ không phải đúng thời:                              Phi thời đi vào xóm làng mà không bạch, ăn phi thời,                              đi giáo giới Tỉ-kheo-ni đến chiều tối. Ðó gọi là tội                              phi thời chứ không phải đúng thời.                               Có tội vừa đúng                              thời, mà vừa phi thời: Như dùng tay đánh người, huơ                              tay dọa đánh. Ðó gọi là tội vừa đúng thời, vừa phi                              thời.                               Có tội vừa phi                              thời, vừa không phải phi thời: như phạm tội đúng vào                              giữa trưa. Ðó gọi là tội vừa phi thời, vừa không                              phải phi thời.                               Có tội thuộc ban                              đêm, không phải ban ngày: Như ngủ cùng một nhà với                              người nữ, ngủ với người chưa thọ cụ túc quá ba đêm,                              giáo giới Tỉ-kheo-ni cho đến chiều tối. Ðó gọi là                              tội thuộc ban đêm, không thuộc ban ngày.                               Có tội thuộc ban                              ngày, không thuộc ban đêm: Như ăn riêng chúng, cho                              đến ăn trái cây không hợp pháp. Ðó gọi là tội thuộc                              ban ngày, không thuộc ban đêm.                               Có tội vừa thuộc                              ban ngày, vừa thuộc ban đêm: Như dùng tay đánh                              người, huơ tay dọa đánh. Ðó gọi là tội vừa thuộc ban                              ngày, vừa thuộc ban đêm.                               Có tội vừa không                              thuộc ban ngày, vừa không thuộc ban đêm: Như tội xảy                              ra lúc rạng đông. Ðó gọi là tội vừa không thuộc ban                              ngày, vừa không thuộc ban đêm.                                Có tội [431b]                              tại chỗ khuất, không phải tại chỗ trống: Như ngủ                              cùng nhà với người nữ, ngủ với người chưa thọ cụ túc                              quá ba đêm, trải đồ ở giữa phòng, ngồi ở chỗ người                              ta dùng hành lạc, ngồi ở chỗ khuất kín. Ðó gọi là                              tội tại chỗ khuất, không phải tại chỗ trống.                               Có tội tại chỗ                              trống, không phải chỗ khuất: Hoặc tự mình, hoặc sai                              người đem giường nệm của chúng Tăng ra trải ở chỗ                              trống, mà khi đi không thưa với chúng Tăng, đi chừng                              hai mươi lăm khuỷu tay, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó                              gọi là tội tại chỗ trống, không phải tại chỗ khuất.                               Có tội vừa tại                              chỗ khuất, vừa tại chỗ trống: Như dùng tay đánh                              người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không ở chỗ khuất, cũng không ở chỗ trống?                               - Ðó là tội xảy                              ra ở dưới Thềm nhà.                               Thế nào là tội                              khi đi, không phải khi đứng?                               - Tỉ-kheo kết bạn                              với bọn cướp, cùng với người nữ và Tỉ-kheo-ni hẹn đi                              chung đường; Tăng, Hòa Thượng, A-xà-lê bảo đừng đi                              mà cứ đi thì phạm tội. Ðó gọi là do đi, không do                              đứng.                               Thế nào là tội                              khi đứng, không phải khi đi?                               - Như đứng ở bên                              dâm nữ, đứng nơi quán rượu, đứng tại chỗ đánh bạc,                              đứng bên nhà tù, đứng giữa cửa, rồi được Tăng, Hòa                              Thượng, A-xà-lê bảo đừng đứng mà cứ đứng, thì phạm                              tội. Ðó gọi là tội do đứng, không phải do đi.                               Thế nào là tội                              vừa do đi, vừa do đứng?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không phải khi đi, không phải khi đứng?                               - Như khi ngồi,                              khi ngủ.                               Thế nào là tội do                              đứng, không phải do ngồi?                               - Như đứng bên                              dâm nữ, rồi được Hòa Thượng, A-xà-lê bảo đừng đứng                              mà vẫn đứng, thì phạm tội.                               Thế nào là tội do                              ngồi, không phải do đứng?                               - Như ngồi trên                              giường lớn quá cỡ, dùng bông dồi làm nệm, dùng da                              làm tọa cụ và ngồi bên cạnh dâm nữ, bên quán rượu,                              bên chỗ đánh bạc, bên cạnh nhà tù, rồi được Tăng,                              Hòa Thượng, A-xà-lê bảo đừng ngồi mà vẫn ngồi thì                              phạm tội.                               Thế nào là tội                              vừa do đứng, vừa do ngồi?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không phải do đứng, cũng không phải do ngồi?                               - Ðó là tội xảy                              ra khi đi và khi ngủ.                               Thế nào là tội                              khi ngồi, không phải khi ngủ?                               - Như ngồi trên                              giường quá lượng, rồi được Tăng, Hòa Thượng, A-xà-lê                              bảo đừng ngồi mà cứ ngồi, thì có tội.                               Thế nào là tội                              khi ngủ, không phải khi ngồi?                               - Ngủ cùng nhà                              với phụ nữ, ngủ với người chưa thọ cụ túc quá ba                              đêm, ngồi giường lớn quá lượng, dùng bông dồi vào                              nệm để ngồi, dùng da làm tọa cụ.                               Thế nào là tội                              khi ngồi cũng như khi ngủ?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không phải khi ngồi, cũng không phải khi ngủ?                               - Như phạm tội                              khi đi, khi đứng.                               Thế nào là phạm                              tội khi ngủ, không phải khi đi?                               - Như ngủ cùng                              một nhà với phụ nữ, cho đến ngủ trên nệm bằng da.                               Thế nào là phạm                              tội khi đi, không phải khi ngủ?                               - Như Tỉ-kheo làm                              bạn với kẻ cướp, với phụ nữ (cùng đi chung đường),                              rồi được Hòa Thượng, A-xà-lê bảo đừng đi mà cứ đi,                              thì phạm tội.                               Thế nào là phạm                              tội khi ngủ cũng như khi đi?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là phạm                              tội không phải khi ngủ, cũng không phải khi đi?                               - Như phạm tội                              khi ngồi, khi đứng.                               Thế nào là phạm                              tội không phải chỗ vắng, cũng không phải chỗ nhiều                              người?                               - Như được khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là phạm                              tội ở chỗ nhiều người, không phải ở chỗ vắng?                               - [431c] Như được                              khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là phạm                              tội ở chỗ vắng, cũng như ở chỗ nhiều người?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là phạm                              tội không phải chỗ vắng, không phải chỗ nhiều                              người?                               - Như ở giữa                              chúng Tăng.                               Thế nào là phạm                              tội ở chỗ nhiều người, không phải ở giữa chúng                              Tăng?                               - Như được khuyên                              can ở chỗ nhiều người ba lần không bỏ.                               Thế nào là phạm                              tội ở giữa chúng Tăng, không phải ở chỗ nhiều                              người?                               - Như được khuyên                              can ở giữa chúng Tăng ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là phạm                              tội ở chỗ nhiều người cũng như ở giữa chúng Tăng?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không ở chỗ nhiều người, không ở giữa Tăng?                               - Như được khuyên                              can ba lần ở chỗ vắng mà không bỏ.                               Thế nào là tội ở                              giữa Tăng, không phải ở chỗ vắng?                               - Như được khuyên                              ở giữa Tăng ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là tội ở                              chỗ vắng, không phải ở giữa Tăng?                               - Như được khuyên                              ở chỗ vắng ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là tội                              vừa ở giữa Tăng, vừa ở chỗ vắng?                               - Như dùng tay                              đánh người, huơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không phải ở giữa Tăng, không phải ở chỗ vắng?                               - Như được can ở                              chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa đông, không phải mùa Xuân?                               - Tỉ-kheo đến                              ngày 15 tháng 8 mà không xả y tắm mưa tới ngày 16                              mới xả, thì phạm tội Việt-tì-ni.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Xuân, không phải mùa Ðông?                               - Tỉ-kheo thọ y                              Ca-thi-na đến ngày 15 tháng chạp thì nên xả, nếu                              không xả, để đến ngày 16 thì phạm tội Việt-tì-ni.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Ðông, cũng thuộc mùa Xuân?                               - Như dùng tay                              đánh người, dơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không thuộc mùa Ðông, không thuộc mùa Xuân?                               - Như thời gian                              an cư (tức mùa Hạ)                              Thế nào là tội                              thuộc mùa Xuân, không thuộc mùa Ha ï?                               - Tỉ-kheo thọ y                              Ca-thi-na mà không xả để đến ngày 16 tháng chạp thì                              phạm tội Việt-tì-ni.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Hạ, không phải mùa Xuân?                               - Tỉ-kheo đến                              ngày 16 tháng tư phải an cư, mà không an cư thì phạm                              tội Việt-tì-ni; đến hậu an cư cũng không an cư, thì                              phạm hai tội Việt-tì-ni.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Xuân, cũng thuộc mùa Hạ?                               - Như đánh người                              bằng tay, dơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không thuộc mùa Xuân, không thuộc mùa Hạ?                               - Như tội phạm                              vào mùa Ðông.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Hạ, không thuộc mùa Ðông?                               Vào hai thời an                              cư mà không an cư, thì phạm hai tội Việt-tì-ni.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Ðông, không phải mùa Hạ?                               - Ðến ngày 15                              tháng 8 nên xả y tắm mưa mà không xả, để đến ngày 16                              thì phạm tội.                               Thế nào là tội                              thuộc mùa Hạ, cũng thuộc mùa Ðông?                               - Như dùng tay                              đánh người, dơ tay dọa đánh.                               Thế nào là tội                              không thuộc mùa Hạ, cũng không thuộc mùa Ðông?                               - Ðó là tội vào                              mùa Xuân, tức là tội không thuộc vào mùa Hạ, không                              thuộc mùa Ðông.                               Lại có tội do                              không kiềm chế thân, không kiềm chế miệng, không                              kiềm chế thân miệng; thân phạm, miệng phạm, thân                              miệng đều phạm; thân làm ác, miệng làm ác, thân                              miệng đều làm ác. Ðó gọi là tội.                               Trái lại, vô tội                              nghĩa là kiềm chế thân, kiềm chế miệng, kiềm chế                              thân miệng; thân không phạm, miệng không phạm, thân                              miệng đều không phạm; thân không làm ác, miệng không                              làm ác, thân miệng không làm ác. Ðó gọi là không có                              tội.                               Phật nói với các                              Tỉ-kheo:                               -- Tỉ-kheo giữ                              luật khi cho người xuất tội, thì có tội cũng biết,                              [432a], không có tội cũng biết, che giấu cũng biết,                              không che giấu cũng biết.                                                                                         CHE GIẤU CŨNG BIẾT.                              Tỉ-kheo khi hừng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa, biết đó là tội,                              không cố ý che giấu, nhưng đến lúc mặt trời mọc lại                              cố tình che giấu cho đến hừng đông sáng mai. Ðó gọi                              là che giấu một đêm.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa, biết là có tội, không cố tâm che giấu, nhưng                              đến giờ ăn lại cố tâm che giấu cho đến rạng đông hôm                              sau. Ðó gọi là che giấu một đêm. Ðến lúc giữa trưa,                              vào buổi xế, lúc mặt trời lặn, đầu đêm, nửa đêm,                              cũng như vậy.                               Tỉ-kheo lúc rạng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa biết là có tội mà                              không cố tâm che giấu, cho đến cuối đêm, vẫn biết là                              có tội nhưng cố tâm che giấu cho đến rạng đông hôm                              sau. Ðó gọi là hai thời một đêm che giấu.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa mà không biết là phạm tội, đến lúc mặt trời                              mọc mới biết là phạm tội mà không cố tâm che giấu,                              nhưng đến giờ ăn lại cố tâm che giấu cho đến rạng                              đông hôm sau. Ðó gọi là một đêm che giấu. Vào giữa                              trưa, buổi xế, lúc mặt trời lặn và đầu đêm, cũng như                              vậy.                               Tỉ-kheo lúc rạng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa mà không biết là                              phạm tội, cho đến nửa đêm mới biết là phạm tội nhưng                              không cố tâm che giấu, đến cuối đêm lại cố tình che                              giấu cho đến rạng đông hôm sau. Ðó gọi là ba thời                              một đêm che giấu.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa mà không biết là có tội, đến giờ ăn mới biết                              là có tội nhưng không cố tâm che giấu, đến giữa trưa                              lại cố tâm che giấu cho đến rạng đông hôm sau. Ðó                              gọi là che giấu một đêm. Vào buổi xế, lúc mặt trời                              lặn, đầu đêm cũng như vậy.                               Tỉ-kheo lúc rạng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa, không biết là phạm                              tội, cho đến giữa đêm biết là có tội, mà không có                              tâm che giấu, đến cuối đêm lại cố tình che giấu cho                              đến rạng đông thì gọi là bốn thời một đêm che giấu.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa, biết là phạm tội, nhưng do dự không biết nên                              che giấu hay không, đến lúc mặt trời mọc quyết tâm                              che giấu cho đến rạng đông hôm sau. Ðó gọi là che                              giấu một đêm. Cũng vậy, vào giờ ăn, giữa trưa, buổi                              xế, lúc mặt trời lặn, đầu đêm, giữa đêm, cho đến                              cuối đêm quyết tâm che giấu đến rạng đông hôm sau.                              Ðó gọi là hai thời che giấu một đêm.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa mà không biết phạm tội, đến lúc mặt trời mọc                              mới biết là phạm tội, nhưng do dự không biết nên che                              giấu hay không, tới bữa ăn thì quyết tâm che giấu                              cho đến rạng đông hôm sau. Ðó gọi là che giấu một                              đêm. [432b]Cũng vậy, giữa trưa, buổi xế, khi mặt                              trời lặn, đầu đêm cũng thế.                               Tỉ-kheo lúc rạng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa mà không biết là                              phạm tội, cho đến nửa đêm mới biết là phạm tội,                              nhưng do dự không biết nên che giấu hay không, đến                              cuối đêm mới quyết định che giấu cho đến rạng đông                              hôm sau. Ðó gọi là ba thời che giấu một đêm.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa, mà không biết phạm tội, mãi đến giờ ăn mới                              biết là phạm tội, nhưng do dự không biết nên che                              giấu hay không, tới giữa trưa mới quyết định che                              giấu cho đến rạng đông hôm sau. Ðó gọi là che giấu                              một đêm. Vào buổi xế, lúc mặt trời lặn, đầu đêm,                              cũng như vậy.                               Tỉ-kheo lúc rạng                              đông phạm tội Tăng già bà thi sa mà không biết là                              phạm tội, cho tới giữa đêm mới biết là phạm tội,                              nhưng do dự không biết nên che giấu hay không, đêán                              cuối đêm mới quyết định che giấu cho tới rạng đông                              hôm sau. Ðó gọi là bốn thời che giấu một đêm.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo lúc rạng đông phạm tội Tăng già bà                              thi sa, biết là phạm tội, cố tâm che giấu, đến khi                              mặt trời mọc lại quyết định không che giấu, cho đến                              cuối đêm lại quyết tâm che giấu cho tới rạng đông                              hôm sau. Ðó gọi là che giấu một đêm.                               Lại có trường hợp                              che giấu: Tỉ-kheo phạm tội Tăng già bà thi sa, rồi                              lại ở cách vách, cách hào, ở chỗ tối nói nhỏ, xưng                              tên một Tỉ-kheo mỗ giáp khác phạm tội Tăng già bà                              thi sa. Ðó không gọi là phát lồ, vì biết mà nói dối,                              phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là che giấu.                               Trường hợp không                              che giấu: Nếu ở chỗ ngăn cách, hoặc cách hào, ở chỗ                              tối nói nhỏ, tự xưng tên của người khác phạm tội                              Tăng già bà thi sa, thì được gọi là phát lồ, nhưng                              xảo trá, phạm tội Việt-tì-ni.                               Lại có trường hợp                              không che giấu: Tỉ-kheo phạm tội Tăng già bà thi sa,                              không ở chỗ cách vách, cách hào, chỗ tối, không nói                              nhỏ, không xưng tên người khác mà tự xưng tên mình                              phạm tội. Ðó gọi là không che giấu.                               Lại có trường hợp                              không che giấu: Không phải tội mà tưởng là tội, sinh                              nghi, nghi không biết nên che giấu hay không, nghi                              đêm (?). Nếu phát lồ thì gọi là không che giấu.                               Lại có trường hợp                              không che giấu: Không cố tâm che giấu, chưa phát lồ                              được, rồi hoặc quên, hoặc bỏ đạo, hoặc nhập định,                              hoặc mệnh chung. Ðó gọi là không che giấu.                               Phật nói với các                              Tỉ-kheo:                               - Tỉ-kheo giữ                              luật khi cho ai xuất tội, thì có tội nên biết, không                              có tội nên biết, che giấu nên biết, không che giấu                              nên biết, phát lồ nên biết, không phát lồ nên biết;                              hoặc là che giấu không phát lồ, hoặc là phát lồ                              không che giấu, hoặc là vừa che giấu vừa phát lồ,                              hoặc là không che giấu cũng không phát lồ đều nên                              biết.                               Thế nào là che                              giấu không phát lồ?                               - Tỉ-kheo phạm                              tội Việt-tì-ni,                              biết là phạm tội mà cố tâm che giấu [432c] không nói                              với người khác. Ðó gọi là che giấu không phát lồ.                               Thế nào là phát                              lồ, không che giấu?                               - Tỉ-kheo phạm                              tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội mà không cố                              tâm che giấu, nói với người khác. Ðó gọi là phát lồ,                              không che giấu.                               Thế nào gọi là                              vừa che giấu, vừa phát lồ?                               - Tỉ-kheo phạm                              tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội, định che                              giấu, nhưng sau đó nói với người khác. Ðó gọi là vừa                              che giấu, vừa phát lồ.                               Thế nào là vừa                              không che giấu, vừa không phát lo?                              - Tỉ-kheo phạm                              tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội, không cố                              tâm che giấu, suy nghĩ: "Ðợi đúng lúc, đúng chỗ,                              đúng người ta sẽ sám hối đúng pháp". Ðó gọi là vừa                              không che giấu vừa không phát lồ.                                                                                         PHÁP BIỆT TRỤ.                               Phật bảo các                              Tỉ-kheo:                               - Tỉ-kheo giữ                              luật khi cho ai xuất tội, thì có tội phải biết,                              không có tội phải biết, che giấu phải biết, không                              che giấu phải biết, phát lồ phải biết, không phát lồ                              phải biết, nên cho Biệt trụ phải biết, không nên cho                              Biệt trụ phải biết".                               Thế nào là không                              nên cho Biệt trụ?                               - Không có tội                              thì không nên cho; không che giấu, không nên cho;                              tội không quyết định, che giấu không quyết định, đêm                              không quyết định, đương sự không yêu cầu, không đòi                              hỏi, thì không nên cho Biệt trụ.                               Thế nào là nên                              cho Biệt trụ?                               - Có tội thì nên                              cho; che giấu thì nên cho; chắc chắn có tội, chắc                              chắn che giấu, chắc chắn qua đêm, đương sự có yêu                              cầu thì nên cho.                               Cho Biệt trụ                              không đúng pháp, cho Biệt trụ đúng pháp.                               Thế nào là cho                              Biệt trụ không đúng pháp?                               - Tội không chắc                              chắn, che giấu không chắc chắn, đêm không chắc chắn,                              đương sự không yêu cầu, không đòi hỏi, chúng Tăng                              không thành tựu, tác bạch không thành tựu, yết-ma                              không thành tựu. Ðó gọi là cho Biệt trụ không đúng                              pháp.                               Thế nào là cho                              biệt trụ đúng pháp?                               - Có tội, tội                              chắc chắn, chắc chắn che giấu, chắc chắn trải qua                              đêm, đương sự có yêu cầu, chúng Tăng thành tựu, tác                              bạch thành tựu, yết-ma thành tựu. Nếu mỗi thứ đều                              thành tựu, đó gọi là cho Biệt trụ đúng pháp.                               Hành Ba-lợi-bà-sa                              không đúng pháp, hành Ba-lợi-bà-sa đúng pháp.                               Thế nào là hành                              Ba-lợi-bà-sa không đúng pháp?                               - Tại chùa không                              có Tỉ-kheo, nửa chừng phạm tội bị phát giác, cùng ở                              chung với Tỉ-kheo khác đồng phòng, đồng có ngăn                              cách, Tỉ-kheo khách đến không bạch, Tăng tập họp                              đúng thời, phi thời không bạch. Ðó gọi là hành                              Ba-lợi-bà-sa không đúng pháp.                               Thế nào là hành                              Ba-lợi-bà-sa đúng pháp?                               - Tại chùa có                              Tỉ-kheo đang sống, trong thời gian hành Ba-lợi-bà-sa                              không tái phạm, không bị cử tội, ở phòng riêng, ngăn                              cách riêng với Tỉ-kheo khác, khi Tỉ-kheo khách đến                              có bạch, khi Tăng tập họp đúng thời hay phi thời đều                              bạch. Ðó gọi là hành Ba-lợi-bà-sa đúng pháp.                               Ðêm không gián                              đoạn, đêm có gián đoạn.                               Thế nào là đêm                              không gián đoạn?                               - Trong chùa có                              Tỉ-kheo đang ở, cho đến khi Tăng tập họp đúng thời,                              phi thời đều có bạch. Ðó gọi là đêm không gián                              đoạn.                               Thế nào là đêm có                              gián đoạn?                               - Trong chùa                              không có Tỉ-kheo ở, cho đến khi Tăng tập họp đúng                              thời, phi thời đều không bạch. Ðó gọi là [433a]ø đêm                              có gián đoạn.                               Ngoài ra còn có                              nửa chừng phạm tội, nửa chừng không phạm tội.                               Thế nào gọi là                              nửa chừng phạm tội?                               - Sau khi phát                              lồ, Tăng chưa cho hành Ba-lợi-bà-sa, bèn phạm lại,                              hành Ba-lợi-bà-sa nửa chừng rồi tái phạm. Ðó gọi là                              nửa chừng phạm tội.                               Thế nào gọi là                              nửa chừng không phạm tội? -Trong khoảng thời gian ấy                              không tái phạm. Ðó gọi là nửa chừng không phạm tội.                               Tỉ-kheo hành                              Ba-lợi-bà-sa nên tùy thuận hành bảy việc sau đây: 1)                              Việc thuộc Tỉ-kheo; 2) Việc thuộc Tỉ-kheo-ni; 3)                              Việc thuộc quyến thuộc; 4) Việc vào làng xóm; 5) Làm                              việc nhọc trong chúng; 6) Việc nhận người khác lễ                              bái; 7) Việc vương gia.                               1/ Thế nào là                              việc thuộc Tỉ-kheo?                               - Không được nhận                              sự lễ bái của Tỉ-kheo; không được nói tội của                              Tỉ-kheo; không được bàn luận với Tỉ-kheo; không được                              nói tội của Sa-di; không được thưởng phạt Sa-di;                              không được bàn luận                              với Sa-di; không được làm sứ giả cho Tỉ-kheo;                              không được đi trước sau cùng hàng với Tỉ-kheo vào                              thôn xóm; khi Tăng chúng tập họp không được thay mặt                              cho chúng thuyết pháp, trừ khi sống một mình. Ðó gọi                              là việc thuộc Tỉ-kheo.                               2/ Thế nào là                              việc thuộc Tỉ-kheo-ni?                               - Không được nhận                              sự lễ bái của Tỉ-kheo-ni; không được nói tội của                              Tỉ-kheo-ni; không được bàn luận với Tỉ-kheo-ni;                              không được nói tội của Thức-xoa-ma-ni, Sa-di-ni;                              không được Thưởng phạt Thức-xoa-ma-ni, Sa-di-ni;                              không được luận bàn với Thức-xoa-ma-ni, Sa-di-ni;                              không được ngăn Tỉ-kheo-ni Bố-tát tự tứ; không được                              chận Tỉ-kheo-ni đứng ngoài cổng; không được đến dạy                              bảo Tỉ-kheo-ni, dù trước đó Tăng đã sai cũng không                              được đến. Ðó gọi là việc thuộc Tỉ-kheo-ni.                               3/ Thế nào là                              việc thuộc về quyến thuộc?                               - Không được độ                              người, không được cho người thọ cụ túc, không được                              nhận sự nương tựa của người khác và nuôi Sa-di,                              không được nhận sự cung cấp của Tỉ-kheo, không được                              đưa kinh cho người khác, không được theo người khác                              nhận những bản kinh, khi tụng kinh phải tụng nhỏ                              tiếng. Nếu trước đó đã có đệ tử nên bảo họ nương tựa                              người khác, phải cắt đứt sự thân thiết. Ðó gọi là                              việc thuộc về quyến thuộc.                               4/ Thế nào là                              việc đi vào xóm làng?                               - Không được đi                              vào xóm làng quá sớm, trở về quá trễ, không được đi                              trước hay sau trong hàng ngũ của Sa-môn vào xóm                              làng, không được đến nhà đàn việt quen biết, không                              được ở những ngôi già-lam không có Tăng, khi ngồi,                              khi ăn đều ở dưới Tỉ-kheo, không được sai người đi                              đón Thức ăn, không được cùng người đi đón Thức ăn,                              trừ khi đến phiên mình. Ðó gọi là việc vào xóm                              làng.                               5/ Thế nào là làm                              những việc nhọc trong chúng?                               - Sáng sớm thức                              dậy quét Tháp, viện, phòng Tăng, đem nước đến cho                              Tăng, rửa ráy chỗ đại tiểu tiện của Tăng. Tất cả                              những việc có thể làm được như thế phải tùy sức mà                              làm. Không được gởi dục, không được nhận sự gởi dục                              của người khác, trừ khi đến phiên mình. Ðó gọi là                              làm những việc nhọc trong chúng.                               6/ Thế nào là                              nhận sự lễ bái?                               - [433b] Không                              được nhận tất cả sự lễ bái; bạch nhất yết-ma, bạch                              tam yết-ma đều không được nhận. Ðó gọi là nhận sự lễ                              bái.                               7/ Thế nào là                              việc thuộc nhà vua?                               - Không được ỷ                              thế lực của vua, đại thần, cư sĩ, kẻ hung ác; không                              được chê Phật, chê pháp, chê Tăng, chê người làm                              yết-ma; chỉ tự trách mình, không được chê người                              khác. Ðó gọi là việc thuộc nhà vua.                               Tỉ-kheo hành                              Ba-lợi-bà-sa phải chấp hành bảy việc này. Ðó gọi là                              tùy thuận hành. Nếu không làm thì gọi là không tùy                              thuận chấp hành.                                                                                         PHÁP MA-NA-ÐỎA.                               Ngoài ra, có các                              việc: không nên cho Ma-na-đỏa, nên cho Ma-na-đỏa.                               Thế nào là không                              nên cho ma-na-đỏa?                               - Không có tội                              thì không nên cho; che giấu mà chưa cho pháp Biệt                              trụ thì không nên cho; một nửa che giấu, một nửa                              không che giấu thì không nên cho; tội chưa quyết                              định, che giấu chưa quyết định, đêm chưa quyết định,                              thì không nên cho; Ba-lợi-bà-sa chưa quyết định thì                              không nên cho. Ðương sự không đòi hỏi, không yêu cầu                              thì không nên cho Ma-na-đỏa.                               Thế nào là nên                              cho Ma-na-đỏa?                               - Có tội, che                              giấu, hành Ba-lợi-bà-sa xong; tội quyết định, che                              giấu quyết định, đêm quyết định, Ba-lợi-bà-sa quyết                              định, đương sự có yêu cầu thì nên cho Ma-na-đỏa.                              Nhưng cho có hai trường hợp cho không đúng pháp và                              cho đúng pháp.                               Thế nào là cho                              không đúng pháp?                               - Không có tội,                              cho đến đương sự không yêu cầu, không đòi hỏi; chúng                              không thành tựu, bạch không thành tựu, yết-ma không                              thành tựu. Nếu mỗi một việc nào không thành tựu thì                              gọi là cho không đúng pháp.                               Thế nào là cho                              đúng pháp?                               - Có tội, cho đến                              đương sự có yêu cầu đòi hỏi, chúng thành tựu, bạch                              thành tựu, yết-ma thành tựu, mỗi thứ đều thành tựu.                              Ðó gọi là cho đúng pháp.                               Hành Ma-na-đỏa                              không rốt ráo và hành Ma-na-đỏa rốt ráo.                               Thế nào là hành                              Ma-na-đỏa không rốt ráo?                               - Tăng chúng                              không đủ số thì không gọi là hành                              Ma-na-đỏa; nửa chừng tái phạm bị phát hiện;                              cùng ở với Tỉ-kheo trong một phòng, một chỗ có che                              chắn; không bạch với Tỉ-kheo khách; khi Tăng tập họp                              đúng thời hay phi thời không bạch; hằng ngày không                              bạch với chúng tăng trong cương giới. Ðó gọi là thi                              hành Ma-na-đỏa không rốt ráo.                               Thế nào là hành                              Ma-na-đỏa rốt ráo?                               - Chúng Tăng đủ                              số; nửa chừng không tái phạm, không bị cử tội; không                              ở với Tỉ-kheo khác cùng một phòng, một chỗ có che                              chắn; Tỉ-kheo khách đến có bạch; khi Tăng tập họp                              đúng thời hay phi thời có bạch; hằng ngày có bạch                              với Tăng trong cương giới. Ðó gọi là hành Ma-na-đỏa                              rốt ráo.                               Ðêm (6 đêm                              Ma-na-đỏa) bị dở dang, đêm không bị dở dang.                               Thế nào là đêm bị                              dở dang?                               - Trong khoảng 6                              đêm Ma-na-đỏa chúng Tăng không đủ số, cho đến hằng                              ngày không bạch với Tăng trong cương giới. Ðó gọi là                              6 đêm Ma-na-đỏa bị dở dang.                               Thế nào là 6 đêm                              Ma-na-đỏa không dở dang?                               - Trong khoảng 6                              đêm Ma-na-đỏa chúng Tăng đủ số, cho đến hằng ngày có                              bạch với Tăng trong cương giới. Ðó gọi là đêm                              Ma-na-đỏa không dở dang.                               Nửa chừng phạm                              tội, nửa chừng không phạm tội.                               Thế nào là nửa                              chừng phạm tội?                               - Trong khoảng                              thời gian chưa cho pháp Ma-na-đỏa mà phạm tội; trong                              lúc cho Ma-na-đỏa rồi, phạm tội; trong khoảng thời                              gian gần xong, phạm tội. Ðó gọi là nửa chừng phạm                              tội.                               Thế nào là nửa                              chừng không phạm tội?                               - Không có các                              việc kể trên, đó gọi là nửa chừng không phạm tội.                               Tỉ-kheo hành                              Ma-na-đỏa [433c] phải tùy thuận chấp hành 7 việc như                              trên đã nói. Ðó gọi là Ma-na-đỏa. Tỉ-kheo phải tùy                              thuận chấp hành, nếu không chấp hành thì gọi là                              không tùy thuận hành.                                                                                         PHÁP XUẤT TỘI.                               Có trường hợp                              không nên cho xuất tội, có trường hợp nên cho xuất                              tội.                               Trường hợp không                              nên cho:                               - Không có tội                              thì không nên cho; che giấu, chưa cho pháp Biệt trụ                              thì không nên cho; hành Ma-na-đỏa chưa xong thì                              không nên cho; chưa hành Ma-na-đỏa                              thì không nên cho; vừa che giấu, vừa không che giấu                              thì không nên cho; tội chưa quyết định, che giấu                              không quyết định, đêm không quyết định, biệt trụ                              không quyết định, Ma-na-đỏa không quyết định, đương                              sự không yêu cầu, không đòi hỏi, thì không nên cho                              xuất tội.                               Trường hợp nên                              cho:                               - Có tội thì nên                              cho; che giấu tội thì nên cho hành biệt trú, và khi                              hành Ma-na-đỏa xong thì nên cho; không che giấu,                              hành Ma-na-đỏa xong, thì nên cho; tội quyết định,                              che giấu quyết định, đêm quyết định, biệt trú quyết                              định, Ma-na-đỏa quyết định và đương sự có yêu cầu,                              thì nên cho xuất tội.                               Cho xuất tội đúng                              pháp, cho xuất tội không đúng pháp.                               Cho xuất tội                              không đúng pháp:                               - Không có tội,                              không nên cho, cho đến chúng không thành tựu, bạch                              không thành tựu, yết-ma không thành tựu. Nếu mỗi một                              thứ không thành tựu thì đó gọi là cho xuất tội không                              đúng pháp.                               Cho xuất tội đúng                              pháp:                               - Có tội, trường                              hợp nên cho, cho đến chúng thành tựu, bạch thành                              tựu, yết-ma thành tựu. Nếu mỗi mỗi việc đều thành                              tựu thì đó gọi là cho xuất tội đúng pháp.                               Trường hợp cùng                              che giấu:                               - Tỉ-kheo vào                              ngày Mồng một trong tháng phạm một tội Tăng già bà                              thi sa, biết là phạm tội mà không cố tâm che giấu,                              cũng thế, đến ngày Mồng hai, Mồng ba cho đến Mồng                              mười, tất cả đều biết là có tội, rồi cố tâm che giấu                              cho đến rạng đông hôm sau. Ðó là mười tội. Tất cả                              các tội ấy đều có cùng một đêm che giấu, nên làm                              mười lần yết-ma Biệt trụ, mười lần xuất tội; nhưng                              cũng được làm một lần yết-ma Biệt trụ, một lần                              Ma-na-đỏa, một lần xuất tội. Ðó gọi là cùng chung                              che giấu.                               Lại có trường hợp                              cùng chung che giấu:                               Tỉ-kheo, ngày                              Mồng một trong tháng phạm một tội Tăng già bà thi                              sa, biết là phạm tội mà không cố tâm che giấu, cũng                              thế, ngày Mồng hai phạm hai tội, ngày Mồng ba phạm                              ba tội, cho đến ngày Mồng Mười phạm mười tội Tăng                              già bà thi sa. Tất cả đều biết là phạm tội và đều cố                              tâm che giấu tất cả cho đến rạng đông hôm sau. Ðó                              gọi là 55 tội Tăng già bà thi sa. Tất cả đều có một                              đêm che giấu, nên làm 55 lần yết-ma biệt trụ, 55 lần                              Ma-na-đỏa, 55 lần xuất tội; nhưng cũng được làm một                              lần yết-ma Biệt trụ, một lần Ma-na-đỏa, một lần xuất                              tội. Ðó gọi là cùng chung che giấu.                               Lại có trường hợp                              cùng chung che giấu:                               - Tỉ-kheo ngày                              Mồng một trong tháng phạm một tội Tăng già bà thi                              sa, không biết [434a] là phạm tội, cũng thế, ngày                              Mồng hai, ngày Mồng ba cho đến ngày Mồng mười, tất                              cả đều biết là phạm tội, và cố tâm che giấu tất cả                              đến rạng đông hôm sau. Ðó là mười tội cùng chung một                              đêm che giấu, cho đến... cũng được làm yết-ma Biệt                              trụ một lần, Ma-na-đỏa một lần, xuất tội một lần. Ðó                              gọi là cùng chung che giấu.                               Lại có trường hợp                              cùng chung che giấu:                               Tỉ-kheo ngày Mồng                              một trong tháng, phạm một tội Tăng già bà thi sa,                              không biết là phạm tội, không có tâm che giấu, cho                              đến ngày Mồng mười phạm mười tội Tăng già bà thi sa,                              tất cả đều biết là phạm tội, cố tâm che giấu cho đến                              rạng đông hôm sau. Trong 55 tội ấy đều có cùng một                              đêm che giấu, cho đến... cũng có thể làm yết-ma Biệt                              trụ một lần, Ma-na-đỏa một lần, xuất tội một lần. Ðó                              gọi là cùng chung che giấu.                               Trường hợp che                              giấu sai khác:                               - Tỉ-kheo vào                              ngày mồng một trong tháng phạm một tội Tăng già bà                              thi sa, biết là phạm tội, cố tâm che giấu, tới ngày                              thứ hai đến nói với người khác, rồi lại phạm tội                              Tăng già bà thi sa, cho đến ngày thứ mười tới nói                              với người khác rồi lại phạm tội và biết là phạm tội,                              nhưng cố tâm che giấu cho đến ngày 11 mới nói với                              người khác. Như vậy, trong mười tội Tăng già bà thi                              sa ấy tất cả đều có một đêm che giấu sai khác, nên                              làm mười lần yết-ma                              Biệt trụ, mười lần Ma-na-đỏa, mười lần xuất tội;                              nhưng cũng có thể làm một lần yết-ma Biệt trụ, một                              lần Ma-na-đỏa, một lần xuất tội. Ðó gọi là che giấu                              sai khác.                               Lại có trường hợp                              che giấu sai khác: Tỉ-kheo vào ngày Mồng một trong                              tháng phạm một tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm                              tội, cố tâm che giấu, đến ngày Mồng hai nói với                              người khác, rồi lại phạm tội như vậy, cho đến ngày                              mười phạm mười tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm                              tội, cố tâm che giấu, đến ngày 11 tới nói với người                              khác. Trong 55 tội Tăng già bà thi sa này tất cả đều                              có một đêm che giấu sai khác, nên làm 55 lần yết-ma                              Biệt trụ, 55 lần Ma-na-đỏa, 55 lần xuất tội; nhưng                              cũng có thể làm một lần yết-ma Biệt trụ, một lần                              Ma-na-đỏa, một lần xuất tội. Ðó gọi là trường hợp                              che giấu sai khác.                               Trường hợp che                              giấu vô lượng:                               Hoặc nhớ tội,                              không nhớ số đêm; hoặc nhớ số đêm, không nhớ tội;                              hoặc vừa nhớ tội, vừa nhớ số đêm; hoặc không nhớ tội                              cũng không nhớ số đêm.                               1/ Nhớ tội, không                              nhớ số đêm: Nhớ biết có phạm tội nhiều hay ít, nhưng                              không nhớ là mấy đêm.                               2/ Nhớ số đêm,                              không nhớ tội: Nhớ biết bao nhiêu đêm, nhưng không                              nhớ tội nhiều hay ít.                               3/ Vừa nhớ tội,                              vừa nhớ số đêm: Nhớ biết số tội nhiều hay ít, đồng                              thời cũng nhớ bao nhiêu đêm.                               4/ Không nhớ tội,                              cũng không nhớ số đêm: Không nhớ phạm tội nhiều hay                              ít, cũng không nhớ là bao nhiêu đêm.                               Trong trường hợp                              nhớ tội mà không nhớ số đêm này, nên hỏi:                               - Ông phạm tội                              khi nào, [433b] từ lúc chưa có tuổi (hạ) phải                              không?                               Nếu đương sự im                              lặng, thì tùy theo năm (thọ giới) mà cho pháp Biệt                              trụ.                               - Nếu đáp: "Không                              phải vậy", thì hỏi tiếp: "Một                              tuổi chăng? Hai tuổi chăng? Năm tuổi chăng?".                              Nên tùy theo họ im lặng ở khoảng nào mà cho pháp                              Biệt trụ ở khoảng đó. Ðó là trường hợp nhớ tội mà                              không nhớ số đêm.                               Trong trường hợp                              nhớ số đêm mà không nhớ tội thì tùy theo đêm nhiều                              ít mà cho pháp Biệt trụ vô lượng tội. Ðó gọi là nhớ                              đêm mà không nhớ tội.                               Trong trường hợp                              vừa nhớ tội vừa nhớ đêm thì khi đã nhớ tội nhiều hay                              ít, tùy theo nhớ đêm bao nhiêu mà cho pháp Biệt trụ.                              Ðó gọi là vừa nhớ tội, vừa nhớ đêm.                               Trong trường hợp                              không nhớ tội cũng không nhớ đêm, thì nên hỏi: "Ông                              phạm tội khi chưa có tuổi (hạ) phải không?".                               Nếu im lặng, thì                              tùy theo số năm mà cho pháp Biệt trụ vô lượng tội.                               Nếu đáp: "Không                              phải vậy", thì hỏi tiếp: "Từ lúc chưa có tuổi hạ                              phải không? hay một tuổi, hai, ba, bốn, năm tuổi?".                               Tùy theo họ im                              lặng ở chỗ nào thì cho pháp Biệt trụ vô lượng tội ở                              chỗ đó. Ðó gọi là che giấu vô lượng.                               Cùng chung che                              giấu, che giấu sai khác, che giấu vô lượng, ba loại                              này đều gọi là che giấu.                               Che giấu riêng:                               Tỉ-kheo ngày Mồng                              một trong tháng phạm một tội Tăng già bà thi sa,                              biết là phạm tội, cố tâm che giấu, không nói với                              người khác, ngày thứ hai lại phạm, biết là phạm tội,                              cố tâm che giấu, không nói với người khác, cho đến                              ngày thứ mười lại phạm, biết là phạm tội, cố tâm che                              giấu, không nói với người khác. Mười tội này mỗi tội                              đều che giấu riêng, nhưng tội cuối cùng chỉ có một                              đêm che giấu, như vậy hai đêm, ba đêm tính ngược lên                              đến tội đầu tiên thành mười đêm che giấu, do vậy nên                              làm mười pháp yết-ma Biệt trụ, mười Ma-na-đỏa, mười                              lần xuất tội; nhưng cũng có thể làm một lần Biệt                              trụ, một lần Ma-na-đỏa, một lần xuất tội.                               Lại có trường hợp                              che giấu riêng: Tỉ-kheo ngày Mồng một trong tháng                              phạm một tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội,                              cố tâm che giấu, không nói với người khác, cho đến                              ngày thứ mười phạm mười tội Tăng già bà thi sa, biết                              là phạm tội, cố tâm che giấu, không nói với người                              khác. Trong 55 tội này mỗi tội đều che giấu riêng,                              nhưng tội cuối cùng chỉ che giấu có một đêm, như vậy                              hai đêm, ba đêm, tính ngược lên đến tội đầu tiên                              thành ra 55 đêm che giấu, do đó, nên cho pháp yết-ma                              Biệt trụ 55 đêm, 55 Ma-na-đỏa, 55 lần xuất tội;                              nhưng cũng có thể cho một pháp Biệt trụ, một                              Ma-na-đỏa, một lần xuất tội. Ðó gọi là che giấu                              riêng.                               Hai loại cùng che                              giấu, che giấu riêng này đều gọi là che giấu.                                                            Tỉ-xá-già-cước:                               Hoặc là tội dài                              không phải đêm dài; hoặc đêm dài không phải tội dài;                              hoặc tội dài, đêm cũng dài; hoặc không phải tội dài                              cũng không phải đêm dài.                               1/ Có trường hợp                              tội dài, không phải đêm dài: Tỉ-kheo suốt ngày phạm                              tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội, đến nói                              với người khác. Ðó gọi là tội dài, không phải đêm                              dài.                               2/ Có trường hợp                              đêm dài, [434c] không phải tội dài: Tỉ-kheo phạm một                              tội Tăng già bà thi sa, biết là phạm tội, cố tâm che                              giấu, không đến nói với người khác. Ðó gọi là đêm                              dài, không phải tội dài.                               3/ Có trường hợp                              tội dài, đêm cũng dài: Tỉ-kheo hằng ngày đều phạm                              tội Tăng già bà thi sa, biết là có tội, nhưng che                              giấu một nửa, phát lồ một nửa. Ðó gọi là tội dài,                              đêm cũng dài.                               4/ Có trường hợp                              không phải tội dài cũng không phải đêm dài: Tỉ-kheo                              phạm tội Tăng già bà thi sa, biết là có tội, không                              cố tâm che giấu, đến nói với người khác, rồi không                              phạm nữa. Ðó gọi là không phải tội dài cũng không                              phải đêm dài.                               Ở đây hai trường                              hợp tội dài đêm không dài và tội dài đêm cũng dài                              thì khi hành Ba-lợi-bà-sa nên cho ăn ít mà bắt làm                              việc nhiều, nếu cố tình không chấm dứt, thì nên bảo                              tịnh nhân cột tay chân, đặt trên giường, rồi nói:                              "Nếu còn tái phạm thì Tăng sẽ trị tội ông nặng hơn                              nữa". Ðó gọi là Tỉ-xá-già-cước.                               Hoặc có trường                              hợp tội hợp, không phải đêm hợp; hoặc có trường hợp                              đêm hợp, không phải tội hợp;                              hoặc có trường hợp tội hợp mà đêm cũng hợp;                              hoặc có trường hợp không phải tội hợp cũng không                              phải đêm hợp:                               1/ Tội hợp, không                              phải đêm hợp: Tỉ-kheo phạm mười tội Tăng già bà thi                              sa, tất cả đều che giấu mười đêm. Tăng gom lại làm                              yết-ma cho một trăm đêm Biệt trụ.                               Tỉ-kheo liền                              thưa: "Thưa trưởng lão, tôi bị bệnh hoạn ốm yếu                              không thể kham nổi, có thể cho hành tóm lược pháp                              Ba-lợi-bà-sa được không?". Tăng nên nói: "Ðược", rồi                              làm yết-ma gom một trăm đêm Biệt trụ thành mười đêm                              Biệt trụ. Ðó gọi là tội hợp, không phải đêm hợp.                               2/ Ðêm hợp, không                              phải tội hợp: Tỉ-kheo phạm mười tội Tăng già bà thi                              sa, tất cả đều che giấu mười đêm. Tăng gom lại cho                              mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo bèn thưa: "Thưa trưởng                              lão, tôi thấy xấu hổ, muốn hành Ba-lợi bà-sa đầy                              đủ". Tăng nên nói: "Ðược". Ðó gọi là đêm hợp, không                              phải tội hợp.                               3/ Tội hợp, đêm                              cũng hợp: Tỉ-kheo phạm mười tội Tăng già bà thi sa,                              tất cả đều che giấu mười đêm. Tăng gom lại cho mười                              đêm Biệt trụ. Ðó gọi là tội hợp, đêm cũng hợp.                               4/ Không phải tội                              hợp, cũng không phải đêm hợp: (Như trường hợp trên)                              nhưng tất cả đều làm yết-ma cho pháp ba-lợi-bà-sa                              riêng. Ðó gọi là không phải tội hợp, cũng không phải                              đêm hợp. 
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
