Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Bảy                                                                                            NÓI RÕ PHẦN THỨ 6 CỦA 92 PHÁP ÐƠN ÐỀ.                              [359b]                                                           36. GIỚI:                              ĂN PHI THỜI.                              Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ,                              nói rộng như trên. Bấy giờ Phật nói với các Tỉ kheo:                              "Như Lai nhờ ăn mỗi ngày một bữa mà thân thể nhẹ                              nhàng, được sống an lạc. Các ông cũng nên ăn mỗi                              ngày một bữa. Vì ăn mỗi ngày một bữa thì thân thể                              nhẹ nhàng, được sống an lạc". Khi ấy tôn giả Bạt Ðà                              Lợi bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nổi                              ăn mỗi ngày một bữa. Vì cớ sao? Vì con ăn cả buổi                              sáng, buổi chiều mới được an lạc". Phật liền nói với                              Bạt Ðà Lợi: "Nếu ông không thể ăn mỗi ngày một bữa,                              thì buổi sáng sớm hãy cầm hai bát vào thôn khất thực,                              rồi một bát dùng buổi mai, một bát dùng buổi trưa.                              Thế là ăn hai bữa". Thế Tôn dạy đến lần thứ hai, thứ                              ba như vậy mà Bạt Ðà Lợi vẫn khăng khăng nói là mình                              không kham nổi. Lúc ấy các đệ tử đều vâng lời Thế                              Tôn dạy, ngoại trừ Bạt Ðà Lợi. Vì thế thầy cảm thấy                              hổ thẹn, nên suốt ba tháng không đến chỗ Phật, như                              trong kinh Bạt Ðà Lợi Tuyến đã nói rõ.                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, các Tỉ kheo đi khất thực phi thời nên                              bị người đời chê trách: "Vì sao Sa môn Thích tử lại                              khất thực phi thời, làm mất hết đạo hạnh, có đạo nào                              lại như thế?". Các Tỉ kheo nghe thế, liền đem nhân                              duyên ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn nói với các                              Tỉ kheo: "Các ông là người xuất gia mà khất thực phi                              thời, nên bị người đời chê trách là phải. Từ nay về                              sau, Ta không cho phép khất thực phi thời". Trong                              đây cũng giống như trong kinh Ưu đà di Tuyến đã nói                              rõ.  Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ kheo                              ăn vào chặp tối, bị người đời chê trách: "Vì sao Sa                              môn Thích tử lại ăn vào buổi tối? Chúng Ta Là người                              tại gia còn không ăn vào buổi tối. Những bọn người                              Này làm mất phép tắc Sa môn, có đạo nào như vậy!".                              Các Tỉ kheo nghe thế bèn đem sự                              việc ấy [359c] đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói                              với các Tỉ kheo:                               "Các ngươi ăn vào ban đêm                              nên mới bị người đời chê trách, từ nay về sau, Ta                              cho phép ăn trước nửa ngày (từ giờ ngọ trở về trước),                              và phải làm dấu bóng mặt trời để ấn định thời khắc".                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ kheo                              trưóc giờ ăn vào thôn xóm khất thực, sau giờ ăn, lại                              đến những nơi người đời tụ tập vui chơi như công                              viên, hồ nước để khất thực nữa, nên bị người đời chê                              trách nói với bạn: "Ông xem kìa, vị Sa môn Thích tử                              ấy vừa mới khất thực tại nhà tôi, giờ đây lại ra tới                              hồ nước theo tôi xin nữa! Thật là làm băng hoại phép                              tắc của đạo giáo, có đạo nào mà như thế!".                              Các Tỉ kheo nghe thế, liền đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Tỉ kheo ấy đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi việc                              trên:  - Ông có việc đó thật chăng?                              - Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.                              - Thế thì ông khất thực buổi                              sáng dùng để làm gì?                              - Ðể ăn vào lúc đúng giờ.                              - Thế thì sau bữa ăn ông còn                              xin để làm gì nữa?                              - Cất để dành sáng mai ăn.                              - Vì sao Ông lại cất giữ thức                              ăn để ăn? Từ nay trở đi, Ta không cho phép ăn phi                              thời, không cho phép cất thức ăn để ăn.                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả                              Bạt Ðà Lợi cảm thấy lòng đầy hổ thẹn nên khi vào                              thôn xóm khất thực giống như đi vào giữa trận chiến,                              thầy mang theo hai bát để xin, rồi một bát để dùng                              hôm nay, còn một bát để dành ngày mai. Lúc ấy, các                              Tỉ kheo định vào thôn xóm khất thực, liền gọi Bạt Ðà                              Lợi:  - Trưởng lão, chúng ta cùng vào                              thôn xóm khất thực.                              - Các thầy cứ đi đi. Tôi không                              đi nữa.                               - Trưởng lão được lợi ích rất                              lớn, thầy chỉ ăn một bữa mà yên ổn cả hai ngày.                              - Không phải tôi chỉ ăn một bữa                              mà được yên ổn cả hai ngày, mà vì khi tôi vào thôn                              xóm giống như đi vào trận chiến, cho nên tôi đem                              theo hai bát để xin ăn cả hai ngày.                              Các Tỉ kheo nghe thế, liền đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo đi gọi                              Bạt Ðà Lợi đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:                              - Ông có việc đó thật chăng?                              - Có thật, bạch Thế Tôn.                              - Tuy ông muốn giảm bớt sự việc                              (nhưng như thế là không được).                              Từ nay về sau, Ta không cho                              phép ông ăn phi thời, không cho phép cất thức ăn để                              ăn; như trong kinh Bạt Ðà Lợi Tuyến đã nói rõ.                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, A Na Luật                              đem phơi cơm thiu nát trên hòn đá đen vuông nơi núi                              Tiên nhân, Phật bèn dùng sức thần thông [360a] đi                              đến núi ấy. Tuy Ngài biết mà vẫn hỏi A Na Luật:                              - Ông đang làm gì đó?                              - Bạch Thế Tôn, các đệ tử Thanh                              vă¨n có lòng tin, hoan hỉ, ngày mai muốn (làm lễ)                              nương tựa nơi con, do đó, con không thể vào thôn xóm                              để khất thực, (nên con định phơi cơm nguội này để ăn).                              - Tuy ông muốn giảm bớt việc                              phiền toái, nhưng từ nay về sau, Ta không cho phép                              ông ăn phi thời và để dành thức ăn để ăn.                              Thế rồi, Phật dùng thần lực trở                              về lại thành Xá Vệ, truyền bệnh cho các Tỉ kheo sống                              tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi                              ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo ăn phi thời,                              phạm Ba dạ đề. Nếu Tỉ kheo để quá giờ ăn mới ăn,                              phạm Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích :                              Tỉ kheo: như trên                              đã nói.                               Phi thời: nếu                              thời gian vượt qua (mức qui định) như trong chớp mắt                              hoặc đã vượt qua bằng ngọn cỏ, lá cây, thì đó gọi là                              phi thời.                               Ăn:nếu ăn gạo lứt,                              gạo tẻ, cá, thịt, hoặc các thứ linh tinh khác thì                              phạm Ba da đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Ðể quá giờ ăn:                              Tức là quá thời gian "Tu du".                              Tu du: Hai mươi                              niệm gọi là một khoảng chớp mắt. Hai mươi chớp mắt                              gọi là một khảy móng tay. Hai mươi khảy móng tay gọi                              là một la tượng (?). Hai mươi la tượng gọi là một Tu                              du. Ngày dài nhất thì được mười tám tu du. Ðêm ngắn                              nhất thì có mười hai tu du. Ðêm dài nhất thì được                              mười tám tu du. Ngày ngắn nhất thì có mười hai tu                              du.  Thức ăn: Gồm có                              năm thức ăn chính, năm thức ăn tạp. Nếu để quá giờ                              mới ăn một thứ nào đó thì phạm Ba dạ đề.                              * (Ngoài ra còn có các trường                              hợp) Thời thọ, Phi thời thọ, cố thọ, bất cố thọ,                              thiểu thọ, đa thọ, tật tật thọ, từ từ thọ, tuyết                              băng thọ.                               Thời thọ: Nếu                              nhận (thức ăn) đúng giờ và ăn đúng giờ thì không có                              tội. Nếu để quá thời khắc chừng một chớp mắt, hoặc                              quá chừng một ngọn cỏ, lá cây, mà ăn thì phạm một                              tội Ba dạ đề. Nếu để quá một tu du mà ăn thì phạm                              hai tội Ba đạ đề. Vì phạm một tội ăn phi thời và một                              tội ăn thức ăn để quá giờ.                              Phi thời thọ:                              Nhận thức ăn phi thời rồi ăn vào lúc phi thời thì                              phạm một tội Ba dạ đề. Nếu để quá một tu du mà ăn                              thì phạm hai tội Ba dạ đề. Vì phạm tội ăn phi thời                              và tội ăn thức ăn để quá giờ.                              Các trường hợp cố thọ (cố ý                              nhận), bất cố thọ (không cố ý nhận), thiểu thọ (nhận                              ít), đa thọ(nhận nhiều), tật tật thọ (nhận nhanh),                              từ từ thọ (nhận từ từ) cũng có các sự sai biệt như                              vậy.  Tuyết băng thọ (Thọ tuyết):                              Nếu Tỉ kheo muốn ăn tuyết thì nên nhận từ tịnh nhân.                              Nếu không có tịnh nhân thì nên rửa tay sạch rồi tự                              lấy ăn. Trường hợp nước đá cũng như vậy. Ðó gọi là                              Tuyết băng thọ.                              Tỉ kheo sáng sớm thức dậy nên                              rửa tay sạch, không nên rửa một cách thô tháo mà nên                              rửa năm đầu ngón tay trước, cũng không được rửa từ                              nách mà nên rửa từ cổ tay trở về trước cho sạch,                              không nên thô lỗ. Rửa không nên quặn quẹo khiến cho                              máu ra (?). Nên dùng hòn đá lớn, ngọn cỏ hoặc tro mà                              rửa cho sạch tay, lại [360b] vỗ khiến cho ra tiếng                              (?). Sau khi rửa tay sạch, nếu lại vò hai tay thì                              gọi là chẳng sạch, nên rửa lại. Nếu rửa bát rồi, lúc                              tay còn ướt mà lại xoa vuốt thì cũng xem là không                              sạch, nên đợi cho nó khô. Tỉ kheo trước bữa ăn nên                              giữ gìn tay cho sạch. Nếu gãi đầu, hoặc cầm cái quần,                              giày da, hoặc cầm tô sữa, dầu, túi da đều phải rửa                              lại cho sạch như trước. Nếu cầm y Tăng già lê, y Uất                              đa la tăng đều phải dùng nước rửa lại.                              Tỉ kheo khi muốn đi khất thực                              nên rửa tay sạch rồi mặc chiếc y dùng đi vào làng                              xóm. Mặc y xong, nên rửa tay lại rồi cầm bát mà đi                              vào xóm làng. Nếu vào lúc mùa đông lạnh cầm bát để                              vào trong túi rồi định đi tới bên ranh giới thôn xóm,                              hoặc bên ao nước, hoặc trên dòng nước chảy thì nên                              rửa tay sạch. Nếu không có nước thì nên vào trong                              thôn xóm, đến trú xứ của Tỉ kheo, xin nước rửa tay.                              Nếu cũng không có thì nên tới tinh xá của Tỉ kheo ni                              mà xin nước. Nếu cũng không có thì nên đến nhà Ưu bà                              tắc có lòng tin mà xin nước sạch. Nếu cũng không có                              thì nên mở túi, lấy bát ra chỉ cầm một chỗ đi khất                              thực. Khi được thức ăn rồi, nên ra khỏi xóm làng,                              đến bên hồ nước, hoặc suối nước chảy, đặt bát trên                              cỏ sạch, rồi mới rửa tay sạch, tiếp đến rửa sạch                              tảng đá hoặc lá cây. Rửa xong, nên lấy chỗ cơm mà                              ngón tay chạm vào vứt bỏ, rồi đổ cơm ra trên tảng đá                              hay trên lá cây. Khi đổ cơm ra không được đổ ra ngay                              cái chỗ mà tay không sạch đã cầm. Khi đổ xong phải                              rửa bát sạch, rồi đổ cơm vào lại trong bát mà ăn.                              Lúc ăn xong, nếu còn thừa cơm, thì nên đổ một chỗ                              trên tảng đá, rồi ra đi. Hôm sau, Tỉ kheo lại vào                              thôn xóm khất thực; nếu chẳng được chi cả, phải rời                              khỏi thôn xóm với bát không, rồi tình cờ trở về lại                              con đường cũ, trông thấy chỗ cơm thừa đổ trên hòn đá                              hôm qua vẫn còn đó, nếu như có tịnh nhân thì nên bảo                              họ lấy đưa để mình ăn. Nếu không có tịnh nhân mà chỗ                              cơm ấy bị chim quạ ăn thì gạt bỏ chỗ chim ăn, rồi tự                              lấy ăn. Nếu tịnh nhân dùng tay không sạch cầm bún,                              cơm cúng dường cho Tăng, thì đối với Thượng tọa như                              thế được xem là không sạch, nhưng đối với những                              người khác thì được xem là sạch. Nếu tịnh nhân đem                              bún sạch đổ trên bún không sạch, thì được vớt lấy                              cái phần trên (để ăn). Nhưng nếu họ đem bún không                              sạch đổ trên bún sạch, thì tất cả thành ra không                              sạch. Nếu họ đem bún sạch đổ vào trong một cái tô                              không sạch, thì được múc lấy ở chính giữa (mà ăn).                              Nếu họ khuấy lên, thì tất cả đều trở thành không                              sạch. Khi Tỉ kheo ăn bún, nếu dùng tay chùi miệng,                              thì được xem là không sạch, phải rửa tay lại. Nếu                              hai tay xoa vào nhau thì được xem là tay không sạch,                              phải rửa tay lại.                              Nếu Tỉ kheo bị bệnh cần cháo                              thì nên nhờ tịnh nhân nấu. Nếu tại nơi A luyện nhã                              không có tịnh nhân [360c] thì được rửa tay sạch                              không để dính cáu bẩn, rồi múc nước đổ vào nồi, chụm                              lửa cho nước sôi, rồi bảo cho tịnh nhân biết để họ                              đổ gạo vào. Khi họ đổ gạo vào xong, Tỉ kheo không                              được chụm lửa nữa mà phải bảo tịnh nhân chụm lửa cho                              đến khi sôi. Nếu tịnh nhân đi khỏi thì Tỉ kheo được                              chụm lửa cho đến khi cháo chín, rồi múc đưa cho                              người bệnh. Nếu Tỉ kheo uống thuốc ỉa mửa rồi, thầy                              thuốc bảo phải cho ăn cháo trong, nếu không có thì                              sẽ chết. Vậy phải làm sao? Bấy giờ Ta nên lấy gạo                              rửa sạch rồi nấu nhừ thành nước trút vào trong tô đổ                              cho Tỉ kheo bệnh. Nếu người bệnh không kham (không                              dùng được) thì nên lấy một nắm lúa nguyên vẹn đem                              rửa bảy lần cho sạch, rồi đổ vào một cái túi, cột                              đầu lại, đồng thời đem rửa nồi cho sạch đổ vào nấu.                              Không được để cho đầu hạt lúa bị vỡ, nếu vỡ thì                              không được cho Tỉ kheo bệnh dùng. Nếu ở tại nơi                              hoang vắng mà tịnh nhân bị bệnh, thì nên khiến tịnh                              nhân khác nấu cháo giúp cho họ. Nếu trường hợp không                              có tịnh nhân mà có được thóc hợp pháp, thì Tỉ kheo                              được tự mình đem giã, nấu cháo đưa cho tịnh nhân                              dùng. Nếu cháo tịnh nhân dùng không hết thì Tỉ kheo                              không được dùng, cũng không được đưa cho những Tỉ                              kheo khác. Thế nên nói (như trên).                              37. GIỚI: NHẬN THỨC ĂN QUÁ                              MỨC Ðà CHO                               Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ,                              nói rộng như trên. Bấy giờ, có một cư sĩ sinh được                              một bé gái đoan chính vô song, cha mẹ rất hoan hỷ.                              Ðến khi đầy tháng, cha mẹ em định tổ chức lễ khánh                              hỉ, nên suy nghĩ: "Con bé này đoan chính, hiếm có                              trên đời, nếu quốc vương biết được, ắt sẽ đoạt lấy,                              vậy ta nên đặt cho nó một cái tên xấu xí", bèn đặt                              tên là Hạt Nhãn. Cô gái này dần dần khôn lớn, quan                              xem tướng cho vua trông thấy, liền hỏi (dân chúng):                              "Con bé này con nhà ai vậy?". Có người đáp: "Con gái                              của cư sĩ mỗ giáp đấy". Viên quan xem tướng của vua                              suy nghĩ như sau: "Tướng của cô này phải làm đến đại                              phu nhân của vua", bèn tâu với vua: "Nhà kia có một                              người con gái quí tướng, đáng làm đến Hoàng hậu, nên                              tuyển cô vào cung". Vua bèn sai người đến nhà ấy hỏi                              xem cô ta tên gì, thì họ đáp: "Tên là Hạt Nhãn". Sứ                              giả bèn trở về báo lại nhà vua. Vua nói: "Cái tên                              Này không tốt lành. Ta không cần". Về sau, có người                              xin cưới cô, cha mẹ chồng bảo rước cô về nhà. Người                              chồng bèn sai sứ giả đến xin rước dâu, thì gia đình                              nhà gái đáp: "Sẽ đưa ngay", bèn chuẩn bị các vật                              dụng để đưa tiễn con gái và làm các thứ bánh. Bỗng                              nhiên có một Tỉ kheo tuần tự khất thực, đến nhà ấy.                              Mẹ cô trông thấy thầy, liền khởi tâm tin tưởng, hoan                              hỷ, hỏi: "Tôn giả có cần bánh không?". Thầy đáp: "Cần".                              Bà liền đem các thức bánh cúng dường đầy bát của                              thầy. Khi đã nhận được bánh, thầy bèn đem về tinh xá,                              gọi các Tỉ kheo quen biết cùng ăn. Các Tỉ kheo hỏi:                              "Trưởng lão, thứ bánh Này rất ngon, thầy được ở đâu                              vậy?". Thầy đáp: "Ðược tại nhà của cô Hạt Nhãn". Các                              Tỉ kheo nghe thế, bèn đến nhà ấy, và họ cũng nhận                              được bánh như người đầu. Như vậy, từng người, từng                              người [361a] cứ đến xin, khiến những phẩm vật dùng                              tiễn đưa con gái hết sạch. Trải qua ngày thứ hai,                              thứ ba cũng như thế. Người chồng lại sai người đến                              nhắc. Nhà gái lại nói: "Xin đợi ít hôm làm cho xong                              lễ vật đưa tiễn đã". Nhưng rồi các Tỉ kheo hằng ngày                              lại đến xin hết cả. Vì cô dâu không về nhà chồng                              đúng ngày giờ nên ông chồng nổi cáu nói: "Ta đã sai                              người đến nhắc (mấy lần) mà đều bảo rằng lễ vật làm                              chưa xong nên chưa đưa đến, chắc là có tâm Này khác                              rồi", liền sai người đi xin cưới cô gái khác. Mẹ cô                              Hạt Nhãn nghe tin con gái mình bị khiển trách, bà                              rất đau buồn, than khóc. Cô cũng sầu não trách mẹ                              không đưa tiễn mình đúng ngày giờ nên mới bị khiển                              trách. Những người hàng xóm thấy thế bèn hỏi: "Các                              vị vì sao mà ưu sầu, than khóc?". Họ bèn trình bày                              đầy đủ sự kiện kể trên với những người hàng xóm. Thế                              rồi, người láng giềng cũng trách: "Vì sao bà không                              đưa tiễn con gái trước rồi mới sắm các thức ăn uống                              khác mà bố thí cho các Tỉ kheo?"Các Tỉ kheo nghe                              được liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              bèn bảo gọi các Tỉ kheo ấy đến. Khi họ tới rồi, Phật                              liền hỏi: "Các ngươi có việc đó thật chăng?".                              - Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.                              - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép (các Tỉ kheo) nhận những thức ăn dùng để                              đưa tiễn cô dâu.                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ trong                              thành có người khách buôn tên là Vô úy sắp đi xa                              cùng với các khách buôn khác. Lúc ấy, bà vợ ông đang                              ở nhà sắm sửa các thứ lương thực đi đường. Thế rồi,                              các Tỉ kheo tuần tự khất thực đến nhà ấy, bà vợ                              trông thấy khởi tín tâm, hoan hỉ hỏi: "Tôn giả có                              cần bún không?". Thầy đáp: "cần". Bà liền cắt một                              phần lương thực đem đổ đầy bát, cúng dường cho Tỉ                              kheo. Tỉ kheo được thức ăn rồi, liền mang về tinh xá                              Trúc Viên Ca lan đà, gọi các Tỉ kheo quen biết cùng                              ăn. Các Tỉ kheo hỏi: "Thầy được thức ăn ngon thế Này                              ở đâu vậy?". Thầy đáp: "Ðược tại nhà của ông khách                              buôn mỗ giáp đấy". Các Tỉ kheo nghe thế, liền cùng                              nhau người Này người khác, đến nhà ấy xin lương đi                              đường đến nỗi hết sạch. Như vậy, họ phải sắm lương                              thực đến ngày thứ hai, thứ ba. Nhưng rồi các Tỉ kheo                              cũng thay phiên nhau đến xin hết cả cho đến ngày thứ                              tư, sắm lương xong thì đi theo không kịp bạn, bị bọn                              cướp lấy tài vật hết sạch. Bà vợ ông khách buôn nghe                              thế, sầu não, khóc than. Người hàng xóm bèn hỏi: "Vì                              sao bà khóc than như vậy?". Bà liền trình bày đầy đủ                              sự kiện trên với người láng giềng. Người láng giềng                              nói: "Vì sao bà không sắm trước lương thực cho người                              ra đi xong rồi sau đó mới sắm các thứ khác bố thí                              cho các Tỉ kheo?". Các Tỉ kheo nghe được việc đó,                              liền đến bạch đầy đủ sự kiện lên Thế Tôn. Phật bèn                              bảo gọi các Tỉ kheo ấy đến. Khi họ đến rồi, Phật                              liền hỏi: "Các ông có việc đó thật chăng?". Họ đáp:                              "Có thật như vậy". Phật khiển trách: "Ðó là việc ác.                              Người bố thí không biết lượng định thì người thọ                              nhận cũng phải biết cân nhắc chứ! Ðó là điều phi                              pháp, phi luật, trái lời Ta dạy [361b], không thể                              dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay về                              sau, Ta không cho phép xin lương thực đi đường".                               Thế rồi, Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ kheo sống tại thành Vương Xá phải tập hợp lại                              tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ kheo,                              dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo đến nhà bạch                              y họ cúng dường bánh bún thoải mái, thì được nhận                              hai, ba bát, rồi đem về cùng ăn với Tỉ kheo không                              bệnh. Nếu nhận quá số đó mà đem về không cùng ăn với                              Tỉ kheo không bệnh, thì phạm Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: Hoặc                              một, hoặc hai, hoặc nhiều người.                              Nhà bạch y: Các                              gia đình Sát lợi, Bà la môn, Tỳ Xá, Thủ đà la cúng                              dường bánh hoặc bún.                              Bánh: Ðó là các                              thứ bánh làm bằng lúa đại mạch, tiểu mạch, gạo tẻ,                              đậu ...                               Bún: Ðó là các                              loại bún được làm bằng lúa đại mạch tiểu mạch, gạo                              tẻ, đậu...                               Ba bát: Ðược nhận                              tối đa ba bát.                              Mang đi ra ngoài:                              Mang đến nơi mà mình muốn.                              Tỉ kheo không bệnh:                              Tỉ kheo có sức lực có thể đến nhà ấy.                              Cùng ăn với Tỉ kheo không                              bệnh: Thức ăn đem về nên cùng ăn chung, nếu                              không cùng ăn chung thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói .                              * Lại có các trường hợp: Vật                              dùng để tiễn đưa, lương thực đi đường, lương không                              phải làm cho Tỉ kheo mà làm để đưa tiễn, cho một                              cách hào phóng.                              Vật dùng để tiễn đưa:                              Như bánh dùng để tiễn đưa cô Hạt Nhãn.                              Lương thực đi đường:                              Như trường hợp người chủ khách buôn Vô Úy.                              Bánh bún: Như                              trên đã nói.                              Không phải vì Tỉ kheo:                              Vốn là vì người khác mà làm lương thực để tiễn đưa.                              Cho một cách hào phóng:                              Như cách cho của mẹ con cô Hạt Nhãn, cách cho của vợ                              chồng ông khách buôn thì Tỉ kheo được nhận ba bát,                              rồi đem ra ngoài cùng ăn với Tỉ kheo không bệnh.                              Nếu Tỉ kheo nghĩ như sau: "Ai                              hơi sức đâu mà làm cho nhiêu khê", rồi nói với Ưu bà                              di: "Múc đầy một bát đổ vào trong một tô, rồi múc                              đầy bát khác đổ vào một tô khác". Ðoạn thầy tự dùng                              một bát, rồi dặn người nữ gia chủ: "Nếu có Tỉ kheo                              đến thì bà cho một bát Này. Nếu có người khác đến                              nữa thì bà cho bát thứ hai. Sau đó, nếu có người nào                              đến nữa, thì bà đừng cho. Nếu cho, thì bà sẽ được ít                              phước đức". Bấy giờ, Tỉ kheo mang thức ăn ra đi, nếu                              giữa đường gặp Tỉ kheo khác thì nên nói như sau:                              "Nhà mỗ giáp kia có thức ăn, thầy nên đến đó lấy                              phần". Nếu gặp Tỉ kheo thứ hai, cũng nên nói như                              thế.  * Lại có các trường hợp: không                              phải bánh dùng để đưa tiễn, không phải lương thực để                              đi đường, vì Tỉ kheo, không phải là lương thực dùng                              để đưa tiễn, không cho một cách hào phóng.                              Không phải bánh dùng để                              đưa dâu: không phải như trường hợp cô Hạt                              Nhãn trên đây.                              Không phải lương thực                              dùng để đi đường: không phải như trường hợp                              ông khách buôn Vô Úy.                              Vì Tỉ kheo: (thức                              ăn) làm cho Tỉ kheo, chứ không phải làm cho người                              khác.  Không phải lương thực                              dùng để đưa tiễn: trừ hai trường hợp kể                              trên, nếu (thực phẩm) làm cho những người khác thì                              được nhận lấy, không phạm.                              Không cho một cách hào                              phóng: Tùy theo thực phẩm nhận được [361c]                              rồi mang đi. Nếu cô Hạt Nhãn về nhà chồng rồi, sau                              đó mẹ cô mới cho, thì được phép lấy mà không có tội.                              Nếu cô dâu về nhà chồng rồi, cô                              mới cho (thực phẩm) thì được phép lấy, không có tội.                              Nếu người khách buôn ra đi rồi,                              người vợ sau đó mới bố thí, thì được phép lấy, không                              có tội.                               Nếu khách buôn đi đến mục tiêu                              rồi ông mới bố thí, thì được phép lấy, không có tội.                              Nếu một nhà kia vào dịp gả                              chồng hay cưới vợ cho con mà có khoản đãi, hoặc                              những ngày lễ hội, rồi Tỉ kheo đi đến nhà ấy, chủ                              nhân nói như sau: "Thưa tôn giả, dù tôi muốn sai                              người đi mời, e chưa chắc đã được, huống gì nay hân                              hạnh được tôn giả đến đây". Nếu như thế thì được lấy                              thoải mái, không có tội.                              Thế nên nói (như trên).                                                           38. GIỚI:                              ÐÒI THỨC ĂN NGON.                              Khi Phật an trú tại thành Xá                              Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ kheo đến                              nhà có sữa tô thì xin sữa tô, nhà có dầu thì xin                              dầu, nhà có sữa tươi thì xin sữa tươi, nhà có sữa                              lạt thì xin sữa lạt, nhà có mật thì xin mật, nhà có                              đường phèn thì xin đường phèn, nhà có cá thì xin cá,                              nhà có thịt thì xin thịt, nên bị người đời chê bai                              như sau: "Sa môn Cù Ðàm dùng vô lượng phương tiện                              tán thán ít muốn, biết đủ, dễ nuôi dưỡng, dễ thỏa                              mãn, và chê trách đa dục, không biết chán, khó nuôi                              dưỡng, khó thỏa mãn; thế mà nay vị Sa môn Này không                              chịu xin thức ăn thô, mà đến nhà có sữa tô xin sữa                              tô, cho đến nhà có thịt thì xin thịt. Ðó là kẻ bại                              hoại, chứ có đạo nào như thế!".                              Các Tỉ kheo nghe được, bèn đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi                              nhóm sáu Tỉ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:                              - Các ông có việc đó thật                              chăng?                               - Có thật như vậy, bạch Thế                              Tôn.  - Ðó là việc xấu. Các ông không                              từng nghe Ta dùng vô lượng phương tiện tán thán ít                              muốn, chê trách đa dục hay sao? Ðó là việc phi pháp,                              phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng việc đó để                              nuôi lớn Thiện pháp được. Từ nay về sau, Ta không                              cho phép xin thức ăn ngon để ăn.                              Lại nữa, khi Phật trú tại một                              tinh xá ở vườn cây Ni Câu Luật, nước Ca Duy La Vệ                              thuộc dòng họ Thích ca. Vì năm việc lợi ích nên cứ                              năm hôm Phật đi thị sát phòng của các Tỉ kheo một                              lần; trông thấy một Tỉ kheo bị bệnh, tuy biết nhưng                              Phật vẫn hỏi:                              - Bệnh của ông như thế nào? Có                              đau đớn lắm không?                              - Không đau đớn lắm, bạch Thế                              Tôn.  - Ông không thể xin được thức                              ăn hợp với bệnh, thuốc men hợp với bệnh được sao?                              - Có thể xin được, nhưng Thế                              Tôn chế giới không cho phép xin thức ăn ngon, nên                              con không dám xin. Vả lại, con không có đàn việt,                              cũng không có người cho.                              - Từ nay về sau, Ta cho phép Tỉ                              kheo bệnh được xin thức ăn ngon.                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ kheo đang trú tại Ca Duy La Vệ phải tập hợp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu tại nhà các đàn việt                              có các loại mĩ thực như sữa tô, dầu, mật, đường                              phèn, sữa tươi, sữa lạt, cá, thịt... mà Tỉ kheo                              không bệnh, vì muốn sướng thân mà xin, thì phạm Ba                              dạ đề.                                                            Giải                              thích:                               Nhà: như trên đã                              nói.  [362a] Sữa tô, dầu, mật,                              đường phèn, sữa tươi, sữa lạt, thịt, cá: Như                              trong giới ăn trộm thứ hai trước kia đã nói. Ðó gọi                              là mĩ thực. Nếu người bị bệnh thì Thế Tôn cho phép                              xin ăn, không có tội.                              Bệnh: Có các loại                              như: bệnh hoành lan, bệnh ung thư, bệnh trĩ, bệnh đi                              tiểu, đại không làm chủ được, bệnh vàng da, bệnh sốt                              rét, bệnh ho lao, bệnh gầy ốm, bệnh phong thũng,                              bệnh thũng nước, các bệnh như thế gọi là bệnh.                              Vì thân mình: Vì                              chính thân mình mà xin, nếu tự mình xin hoặc nhờ                              người khác xin để ăn, thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo bị bệnh nhiệt, rồi                              thầy thuốc bảo: "Bệnh này nên uống sữa chua", thì                              được xin sữa chua. Nhưng không được đến nhà không có                              niềm tin mà xin. Vì sao thế? Vì khi xin, họ sẽ dèm                              pha rằng Tỉ kheo do tham món ngon mà xin sữa chua.                              Chính vì họ chê bai sự hay dở của Tỉ kheo nên không                              được đến xin, mà nên đến nhà Ưu bà tắc có lòng tin                              mà xin. Khi xin được rồi nên cân nhắc (mà dùng).                              Nếu Tỉ kheo bị bệnh phong, rồi                              thầy thuốc bảo: "Nên uống dầu", thì khi ấy được phép                              xin dầu. Nhưng không được đến nhà ép dầu để xin,                              cũng không được đến nhà không có lòng tin, như trong                              trường hợp xin sữa chua đã nói.                              Nếu Tỉ kheo bị bệnh thũng nước,                              rồi thầy thuốc bảo: "Bệnh này nên uống mật", thì khi                              ấy được xin mật. Nhưng không được đến nhà người đi                              lấy mật để xin, cũng không được đến nhà không có                              lòng tin để xin, như trong trường hợp xin sữa chua                              đã nói.                               Nếu Tỉ kheo bị bệnh khô gầy,                              rồi thầy thuốc bảo: "Bệnh này nên uống đường phèn",                              (thì được xin đường phèn). Nhưng không được đến nhà                              làm mía mà xin, cũng không được đến nhà không có                              lòng tin để xin, như trong trường hợp xin sữa chua                              đã nói.                               Nếu Tỉ kheo bị nhiễm lạnh, rồi                              thầy thuốc bảo: "Nên dùng đường phèn, sữa chua hai                              thứ hòa chung vào nhau mà uống"; thì không được đến                              nhà không có lòng tin mà xin, như trường hợp xin sữa                              chua đã nói.                              Nếu Tỉ kheo bị bệnh ỉa chảy,                              rồi Thầy thuốc bảo: "Bệnh này nên uống sữa tươi".                              Khi ấy được đến chỗ người chăn bò để xin sữa tươi.                              Khi xin được nên trù tính để lấy.                              Nếu Tỉ kheo muốn ói ra và uống                              thuốc ói mửa, rồi thầy thuốc bảo: "Trước nên uống                              nước cá", thì khi ấy được xin nước cá, nhưng không                              được đến nhà người bắt cá để xin, cũng không được                              đến nhà người không có lòng tin mà xin, như trên đã                              nói.  Nếu Tỉ kheo muốn lể đầu ra máu,                              hoặc uống thuốc xổ, rồi thầy thuốc bảo: "Bệnh này                              nên uống nước thịt", thì khi ấy được phép xin nước                              thịt, nhưng không được đến nhà đồ tể, nhà không có                              lòng tin để xin, như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo đi khất thực đến                              nhà người đong sữa chua, rồi người đong sữa hỏi:                              "Tôn giả muốn tìm thứ gì?". Thầy đáp: "Muốn xin thức                              ăn". Người ấy nói: "không có thức ăn mà chỉ có sữa                              chua Này, nếu thầy cần tôi sẽ cho". Khi ấy, nếu Tỉ                              kheo cần thì được nhận đầy bát, không có tội. Hoặc                              là có bạn thì có thể khuyên người ta cho bạn, không                              có tội. Cũng như thế đối với người đong dầu mật,                              đường phèn, sữa tươi, sữa lạt cũng vậy.                              Nếu Tỉ kheo khất thực được bún,                              cơm đầy một bát cỡ trung không còn chỗ nữa, thì có                              thể xin nước uống. Nếu đàn việt nói: "Không có nước                              uống mà chỉ có nước thịt, nếu thầy cần [362b] thì                              tôi sẽ cho". Khi ấy Tỉ kheo được phép lấy. Hoặc họ                              lại nói: "Cũng có thịt, nếu thầy cần tôi sẽ cho".                              Lúc ấy, Tỉ kheo được lấy đầy bình, không có tội.                              Ðồng thời Tỉ kheo cũng được đến nhà người ép mía,                              xin nước mía. Nếu chủ nhà nói: "Không có nước mía mà                              chỉ có đường phèn, nếu thầy cần, tôi sẽ cho". Tỉ                              kheo nếu thấy cần thì có thể lấy đầy bát, không có                              tội. Ðồng thời cũng được khuyên họ cho bạn mình.                              Cũng như được đến nhà ép dầu mè để xin cặn dầu mè.                              Nếu chủ nhân nói: "Tôi không có cặn dầu mè, nhưng                              thầy có cần dầu thì tôi sẽ cho". Tỉ kheo nếu thấy                              cần, được lấy đầy bát, không có tội. Ðồng thời cũng                              được khuyên họ cho bạn mình.                              Tỉ kheo được xin nước trong ở                              dưới sữa đóng váng. Nếu họ nói: "Tôi không có nước                              trong ở dưới sữa đóng váng mà chỉ có sữa đóng váng,                              thầy có cần thì tôi sẽ cho". Tỉ kheo nếu thấy cần,                              được lấy đầy bát, không có tội. Ðồng thời cũng được                              khuyên họ cho bạn mình.                              Tỉ kheo được xin mía, cũng được                              vì Tỉ kheo khách đi đường xa mà xin thức ăn ngon.                              Hoặc khi mình đang đi trên đường cũng được xin (thức                              ăn ngon).                               Nếu Tỉ kheo xin một chỗ được                              tám thứ mĩ thực, rồi ăn riêng từng thứ, thì phạm                              nhiều tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo xin được tám thứ mĩ                              thực tại nhiều chỗ khác nhau, rồi ăn một chỗ thì                              phạm một tội Ba dạ đề. Nếu xin tại nhiều chỗ, rồi ăn                              riêng từng thứ, thì phạm nhiều tội Ba dạ đề. Nếu xin                              tại một chỗ được nhiều loại thức ăn, rồi họp lại ăn                              một lần, thì phạm một tội Ba dạ đề.                              Nếu xin khi không bệnh đến khi                              bệnh đem ăn, thì phạm tội Việt Tì ni.                              Nếu xin khi đang bệnh, đến lúc                              không bệnh đem ăn, thì không có tội.                              Nếu xin khi đang bệnh, rồi ăn                              lúc đang bệnh, thì không có tội.                              Nếu xin khi không có bệnh, rồi                              ăn lúc không bệnh, thì phạm ba dạ đề.                              Nếu nấu không tùy theo bệnh mà                              ăn tùy theo bệnh, thì không có tội (?).                              Nếu nấu tùy theo bệnh mà ăn                              không tùy theo bệnh, thì phạm tội Việt Tì ni.                              Nếu nấu tùy theo bệnh, rồi ăn                              cũng tùy theo bệnh, thì không có tội.                              Nếu nấu không tùy theo bệnh, ăn                              không tùy theo bệnh, thì không có tội. Vì sao vậy?                              Vì người xuất gia sống nhờ người khác vậy. Thế nên                              nói:  "Mỗi chỗ cho một bữa,                               39. GIỚI:                              KHÔNG BỆNH MÀ NHÓM LỬA.                              Khi Phật an trú tại vườn ông                              Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ đà, thành Xá Vệ, lúc này                              người đời đốc tín cung kính tôn trọng cúng dường y                              phục, thực phẩm, sàng tọa và thuốc chữa bệnh (thuốc                              bổ). Trong khi ấy, những người xuất gia ngoại đạo                              cũng đang ở tại thành Xá Vệ nhưng không được người                              đời cung kính tôn trọng cúng dường y phục, thực                              phẩm, sàng tọa và thuốc chữa bệnh. Do thế, nhiều                              người xuất gia ngoại đạo tập hợp tại nhà luận nghị,                              bàn luận như sau: "Sa môn Cù Ðàm này đang ở tại vườn                              ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ đà, thành Xá vệ [362c]                              được người đời thâm tín cung kính tôn trọng cúng                              dường y phục, thực phẩm, sàng tọa và thuốc chữa bệnh                              nhưng chúng ta không được tôn trọng cung kính cúng                              dường y phục, thực phẩm, sàng tọa và thuốc chữa                              bệnh. Vậy ai có thể đến xuất gia sống trong giáo                              pháp của Sa môn Cù Ðàm tu tập phạm hạnh, tụng đọc                              giáo pháp của ông ta, rồi trở về lần lượt dạy lại                              chúng ta, để chúng ta cũng được cúng dường giống như                              ông ta?"                               Khi các ngoại đạo luận bàn như                              thế rồi, cùng bảo nhau: "Tu Thâm Ma là người ưu tư                              bậc nhất trong hội chúng của chúng ta nên có thể sai                              ông đến xuất gia trong giáo pháp của Sa môn Cù Ðàm,                              thọ giới luật của Cù Ðàm, rồi về lại...". Thế rồi,                              các ngoại đạo nói với Tu Thâm Ma: "Sa môn Cù Ðàm                              đang sống tại tinh xá Kỳ Hoàn được nhiều người tôn                              trọng cúng dường, còn chúng ta thì không được lợi                              ích như thế. Nay ông nên đến xuất gia trong giáo                              pháp Sa môn Cù đàm tu tập phạm hạnh, đọc tụng kinh                              điển của ông ấy, rồi trở về trong giáo pháp của Ta                              Lần lượt dạy lại nhau, để chúng ta cũng được cúng                              dường giống như ông ấy".                              Tu Thâm Ma nghe lời đề cử rồi,                              liền ra khỏi thành Xá vệ, đi đến tinh xá Kỳ Hoàn.                              Khi tới cổng tinh xá, thấy các Tỉ kheo đang kinh                              hành, ngồi thiền, Tu Thâm Ma liền đến chỗ các Tỉ                              kheo thăm hỏi, rồi ngồi sang một bên, nói: "Tôi vốn                              là ngoại đạo nay muốn xuất gia, thọ Cụ Túc trong                              giáo pháp của Như Lai thì ở đây phải làm thế nào?".                              Các Tỉ kheo đáp: "Nếu gốc gác là ngoại đạo mà muốn                              xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, thì phải được                              thử thách qua bốn tháng. Qua bốn tháng thử thách mà                              các Tỉ kheo thấy hợp ý thì sẽ cho xuất gia".                              Khi ấy Tu Thâm Ma liền vâng                              lời, thực hành bốn tháng thử thách. Qua bốn tháng,                              các Tỉ kheo thấy vừa ý, liền cho thọ giới Cụ Túc.                              Sau khi thọ Cụ Túc, ông bèn đi đến chỗ Thế Tôn cúi                              đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng hầu một bên. Bấy                              giờ, có nhiều Tỉ kheo đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ                              dưới chân, rồi đứng qua một bên, thưa như sau: "Bạch                              Thế Tôn, con đã chứng đắc, đời sống của con đã kết                              thúc, phạm hạnh đã thành, không còn phải tÁisinh                              nữa". Họ nói như thế xong, liền cúi đầu đảnh lễ dưới                              chân Phật rồi ra đi.                              Khi các Tỉ kheo ấy vừa ra đi,                              thì Tu Thâm Ma đến đảnh lễ chân Phật, rồi đi tới các                              Tỉ kheo ấy thăm hỏi. Hỏi thăm xong, bèn đứng qua một                              bên, hỏi các Tỉ kheo: "Thưa trưởng lão, vừa rồi ở                              trước Phật, thầy tự nói là mình đã chứng đắc, đời                              sống đã kết thúc, phạm hạnh đã thành, không còn                              tÁisinh nữa, có phải thế không?". Các Tỉ kheo đáp:                              "Ðúng như vậy". Thế rồi Tu Thâm Ma lại hỏi: "Thưa                              trưởng lão, biết như vậy thấy như vậy, được thiên                              nhãn thanh tịnh, thấy chúng sinh chết chỗ này, sinh                              chỗ kia, người đẹp, kẻ xấu, thiện thú, ác thú                              [363a], thấy chúng sanh thân làm ác, miệng nói ác, ý                              nghĩ ác, phỉ báng hiền thánh, tự làm việc tà kiến,                              dạy người làm theo tà kiến, thân hoại mạng chung đọa                              vào ba đường ác. Lại thấy chúng sanh thân làm thiện,                              miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, tự mình làm theo                              chánh kiến rồi dạy người làm theo chánh kiến, đến                              khi thân hoại, mạng chung, sinh vào cõi thiện, trên                              cõi trời, trong cõi người, thiên nhãn thanh tịnh hơn                              người như the,á trưởng lão có được không?". Thầy                              đáp: "Không được". Ông lại hỏi: "Tôn giả được Túc                              mạng trí biết như vậy, thấy như vậy, biết quá khứ                              một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười                              đời, một trăm đời, một ngàn đời, cho đến kiếp thành,                              kiếp hoại, danh tánh, chủng tộc, chết nơi đây, sinh                              chỗ kia, chết chỗ kia, sinh chỗ này, vô số sự việc                              trong các kiếp như thế, trưởng lão có biết không?".                              Thầy đáp: "Không biết". Ông lại hỏi: "Ly sắc, quá                              sắc, vô sắc, tịch diệt, giải thoát, thân chứng cụ                              túc an trú, các loại giải thoát như vậy, trưởng lão                              có được không?". Thầy đáp: "Không được".                              Tu Thâm Ma nói: "Vừa rồi tôi                              hỏi về các pháp thì trưởng lão đều nói là không                              được. Thế thì vì sao trước mặt Thế Tôn trưởng lão tự                              nói là mình đã chứng đắc, đời sống của mình đã kết                              thúc, phạm hạnh đã thành, không còn tái sinh, vậy ai                              mà tin nổi?".                              Các Tỉ kheo đáp: "Này trưởng                              lão, chúng tôi là những người được giải thoát bằng                              trí tuệ".                               Tu Thâm Ma nói: "Trưởng lão nói                              giản lược quá nghĩa chưa rõ, xin nói lại rõ hơn".                              Tỉ kheo nói: "Tuy nghĩa chưa                              rõ, nhưng tôi tự biết mình là người đã giải thoát                              nhờ trí tuệ".                              Khi Tu Thâm Ma nghe các Tỉ kheo                              nói như thế, liền suy nghĩ: "Ta nên đến chỗ Thế Tôn                              hỏi về việc này, Thế Tôn giải đáp như thế nào thì ta                              hãy nghi nhận như vậy. Suy nghĩ thế rồi, thầy từ chỗ                              ngồi đứng dậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới                              chân, rồi đứng qua một bên, đem việc nêu trên bạch                              đầy đủ với Thế Tôn, hỏi rằng việc ấy như thế nào?                              Phật liền nói với Tu Thâm Ma:                              - Tiên pháp trí, hậu tỉ trí.                              - Bạch Thế Tôn, điều Thế Tôn                              dạy quá bí ẩn, giản lược, con chưa hiểu.                              - Dù ngươi chưa hiểu, nhưng vẫn                              tiên pháp trí, hậu tỉ trí.                              - Lành thay Thế Tôn, con vẫn                              chưa hiểu, kính mong Thế Tôn vì con nói rõ thêm.                              - Vậy Ta hỏi ngươi, tùy ngươi                              hiểu như thế nào hãy trả lời Ta. Này Tu Thâm Ma, ý                              ngươi nghĩ thế nào, do Sinh nên có Già Chết phải                              không?                               - Ðúng như vậy, bạch Thế Tôn.                              - Lành thay Tu Thâm Ma, ý ngươi                              nghĩ sao, do Vô minh mà sinh ra các Hành phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Lành thay Tu Thâm Ma, ý ngươi                              nghĩ sao, do Sinh duyên diệt nên Già Chết diệt phải                              không? Cho đến do Vô minh diệt nên các hành diệt                              phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Lành thay [363b] Tu Thâm Ma,                              nếu Tỉ kheo sống trong giáo pháp này chánh quán,                              chánh trí, điều gì phải đạt được thì sẽ đạt được hết                              phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Ngươi đã biết do Sinh nên có                              Già Chết phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Do Vô minh nên có các Hành                              phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Do Sinh duyên diệt nên Già                              Bệnh Chết Ưu Bi Khổ Não, Ngũ Ấm đều diệt phải không?                              - Ðúng như vậy.                              - Do Vô minh diệt nên các hành                              diệt phải không?                              - Ðúng như vậy.                              Ngươi đã biết các pháp như vậy,                              ngươi có đạt được Thiện nhãn, Túc mạng trí và các sự                              giải thoát không?                              - Không đạt được, bạch Thế Tôn.                              - Ngươi tự nói biết các pháp                              như vậy rồi lại bảo không đạt được các công đức kia,                              thì ai mà tin được?                              - Bạch Thế Tôn, vì bị Vô minh                              ác tà vây bủa nên con sinh ra tà kiến như vậy. Nay                              con nghe rõ chánh pháp nơi Thế Tôn nên diệt được ác                              tà kiến, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.                              Thế rồi, Tu Thâm Ma cúi đầu                              đảnh lễ chân Phật, quỳ gối, chấp tay, bạch Phật:                              - Bạch Thế Tôn, con xuất gia                              sống trong chánh pháp của Như Lai với tâm gian trá                              định trộm giáo pháp, Thế Tôn đại từ xin nhận sự hối                              lỗi của con.                              - Ngươi ngu ngốc như trẻ con,                              vì muốn trộm chánh pháp của Phật mà xuất gia với tâm                              gian trá. Nay Ta nhận sự hối lỗi của ngươi. Này Tu                              Thâm Ma, ví như có người phạm tội với vua, rồi vua                              sai lính đem ra phân thây, cắt tai, xẻo mũi, dùng                              cưa để cưa, dùng dao cắt chặt từng đoạn, lại cho voi                              chà, ngựa đạp, giết chết bằng các hình thức cực kỳ                              đau khổ như vậy. Nay ngươi xuất gia với tâm gian                              trá, vì muốn trộm pháp mà phạm phải tội lỗi, giờ đây                              Ta nhận sự hối lỗi của ngươi, ở trong pháp của hiền                              thánh, ngươi sẽ được tăng trưởng; từ nay về sau chớ                              có tái phạm.                              Vì Thế Tôn độ Tu Thâm Ma và vì                              Mục Liên vận dụng thần túc dùng bát chiên đàn hàng                              phục ngoại đạo tại Tỳ xá Li nên nhân dân càng thêm                              kính tín, và (tăng đoàn) được nhiều lợi dưỡng. Do                              thế, các ngoại đạo lồng lộn phỉ báng Thế Tôn, như                              trong kinh tôn đà lợi đã nói rõ: khi Phật chưa ra                              đời thì ngoại đạo được các thứ cúng dường, nhưng đến                              khi Phật ra đời thì tất cả ngoại đạo đều mất hết lợi                              dưỡng. Vì sao vậy? vì mọi người đều biết rằng pháp                              Phật thâm diệu, như trong kinh Khổng Tước Ðiểu Bản                              Sinh đã nói rõ.                              Bấy giờ, đức Thế Tôn chán sự                              cúng dường của người đời, nên trở về lại thành Xá                              Vệ. Ðến giờ khất thực, Phật khoác y thường mặc. Cầm                              bát, vào thành Xá Vệ tuần tự khất thực. Rồi sau khi                              ăn xong, Phật ung dung đi kinh hành, đoạn, thu xếp                              giường nệm, không nói với Tăng chúng và thị giả,                              Phật du hành một mình [363c] đến nước Kiều Tát La.                              Khi ấy, các Tỉ kheo liền đến                              chỗ A Nan, nói với A Nan:                              - Thưa trưởng lão, đức Thế Tôn                              sau khi ăn, ung dung đi kinh hành, rồi tự thu xếp                              giường nệm, không nói với Tăng chúng và thị giả, đơn                              độc du hành đến nước Kiều Tát La.                              A Nan đáp: "Thưa trưởng lão,                              nếu đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri sau khi ăn,                              ung dung đi kinh hành, rồi tự thu xếp giường nệm,                              không nói với các Tỉ kheo và thị giả mà du hành một                              mình, là vì muốn tìm sự yên lặng, vậy các Tỉ kheo                              không nên đi theo Ngài".                              Lúc ấy, Thế Tôn từ nước Kiều                              Tát La du hành đến Ba Lợi Da, rừng Ta La, an trú                              dưới cây Hiền Thọ. Ðoạn, nói về bầy voi năm trăm                              con, gặp phải nước đục, cỏ xơ xác, vì thế nó chán                              ngán đàn voi, nên cũng đơn độc tìm đến cây này. Khi                              voi chúa trông thấy Phật, nó liền dùng vòi nhổ cỏ,                              đạp đất cho bằng, lại dùng vòi lấy nước rưới lên đất                              cho khỏi bụi, đồng thời lấy cỏ mềm trải lên để làm                              chỗ ngồi. Ðoạn nó quỳ gối, mời Phật ngồi lên. Khi                              thấy Phật ngồi rồi, nó bèn xin được cúng dường Phật                              ba tháng. Phật biết ý voi chúa, liền nhận sự thỉnh                              cầu của nó. Nhân việc này, Phật đọc bài tụng:                              "Ðộc thiện không phải lo,  Bấy giờ, voi chúa lấy những ngó                              sen tốt đẹp rửa sạch, rồi dâng lên Thế Tôn, và Thế                              Tôn đã nhận sự cúng dường của voi chúa suốt ba                              tháng. Khi ấy, năm trăm Tỉ kheo vì cả ba tháng không                              thấy Phật, nên đến chỗ tôn giả A Nan, thưa:                              - Trưởng lão, chúng tôi đã lâu                              không thấy Phật, cũng không được nghe pháp, nay                              chúng tôi muốn đến đảnh lễ thăm hỏi Thế Tôn để nghe                              Thế Tôn dạy bảo.                              - Các trưởng lão nên đứng ở đây                              một lát và đợi tôi trở về.                              - Lành thay!                              Thế rồi, A Nan liền đi đến chỗ                              tôn giả Ðại Mục Liên, nói như sau: "Thưa trưởng lão,                              năm trăm Tỉ kheo đến chỗ tôi nói rằng: "Ðã lâu ngày                              không thấy Phật, không được nghe chánh pháp, muốn                              đến đảnh lễ cúng dường Phật và nghe Phật dạy bảo.                              Trưởng lão hãy quan sát xem Phật đang ở tại đâu?".                              Mục Liên liền nhập định, quan                              sát hết thảy thế gian, thấy Phật đang ở dưới gốc cây                              Hiền thọ, tại rừng Ta La, Ba Lợi Da, nhận sự cúng                              dường của voi chúa. Thấy thế, thầy bèn hướng đến A                              Nan, nói bài kệ sau:                              "Rời bỏ hồ hoa sen,  Khi Mục Liên đọc bài kệ đó rồi,                              liền nói với tôn giả A Nan: "Ðức Thế Tôn nay đang ở                              tại Ba Lợi Da, rừng Ta La, dưới cây Hiền thọ, nhận                              sự cúng dường của voi chúa. Nếu ông muốn đến chỗ Thế                              Tôn thì bây giờ là đúng lúc".                              Tôn giả A Nan bèn trở về chỗ                              các Tỉ kheo, nói như sau:                              - Thế Tôn hiện giờ ở Ba Lợi Da,                              rừng Ta La, dưới cây Hiền thọ, đang nhận sự cúng                              dường của voi chúa. Giờ đây, chúng Ta hãu cùng nhau                              đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ vấn an Ngài.                              Các Tỉ kheo nghe A Nan nói thế,                              liền cùng nhau đi đến Ba Lợi Da, rừng Ta La, dưới                              cây Hiền thọ. Khi còn cách Thế Tôn không xa, A Nan                              nói với các Tỉ kheo:                              - Này các trưởng lão, đức Như                              Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đang ở tại chỗ thanh                              vắng, chúng ta không nên đến đường đột. Các trưởng                              lão nên đứng lại đây một lát, để cho tôi đi đến                              trước.                               - Lành thay.                              A Nan liền đến với Phật. Từ xa                              trông thấy A Nan đi đến, Phật liền nói: "Ông đến                              thật là đúng lúc A Nan, đã lâu ngày Ta không gặp                              ông". Tôn giả A Nan liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân                              Phật, rồi bạch như sau: "Thế Tôn có được ít bệnh, ít                              khổ não và sống an lạc chăng?".                              - Như Lai ít bệnh, ít khổ não,                              sống an lạc, đang nhận sự cúng dường của voi chúa.                              Này A Nan, các Tỉ kheo Tăng có được ít bệnh, ít khổ                              não, sống an lạc hay không? Khất thực không nhọc                              nhằn, hành đạo đúng pháp đấy chứ?".                              - Bạch Thế Tôn, Tỉ kheo Tăng ít                              bệnh, ít khổ não, sống an lạc, khất thực không nhọc                              nhằn, hành đạo đúng pháp. Bạch Thế Tôn, năm trăm Tỉ                              kheo hiện giờ đang đợi ngoài rừng, muốn vào thăm                              viếng, kính xin Thế Tôn chuẩn thuận.                              - Ta cho phép họ vào.                              A Nan bèn trở lại chỗ các Tỉ                              kheo nói:                               - Các trưởng lão được lợi ích                              rất lớn, vì Thế Tôn đã cho phép vào thăm.                              Các Tỉ kheo liền theo A Nan,                              cùng đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi                              đứng qua một bên. Lúc bấy giờ trong số ấy có một Tỉ                              kheo suy nghĩ như sau: "Làm thế nào mà Tỉ kheo biết                              như thật, thấy như thật và lần lượt đoạn tận các lậu                              hoặc?". Tuy thầy âm thầm suy nghĩ như thế, nhưng                              không dám hỏi Phật.                              Ðức Thế Tôn biết được những suy                              nghĩ trong tâm của vị Tỉ kheo ấy, nên nói với A Nan:                              "Trong số người này có một Tỉ kheo suy nghĩ như sau:                              "Làm thế nào để một Tỉ kheo biết như thật, thấy như                              thật, lần lượt đoạn tận các lậu hoặc?". Tuy thầy âm                              thầm suy nghĩ như thế, nhưng không dám hỏi. Này A                              Nan, trước đây Ta đã vì các Tỉ kheo nói về cách quán                              tưởng ấm, giới, nhập và mười hai nhân duyên; nếu Tỉ                              kheo biết như thật, thấy như thật, thì đoạn tận được                              các lậu hoặc".                              Vị Tỉ kheo ấy nghe Thế Tôn nói                              thế,liền suy nghĩ: "Vật chất (sắc) là ta".                              Lúc đó, Thế Tôn biết được những                              suy nghĩ trong lòng của Tỉ kheo ấy, liền nói với A                              Nan: "Thầy Tỉ kheo ấy suy nghĩ như sau: "[364b] Vật                              chất là Ta". A Nan nên biết, nếu có Tỉ kheo quán                              tưởng thế này: "Vật chất là tất cả các hành, do Vô                              minh, Xúc, Thọ mà sinh ra Ái", thì Này A Nan, Ái bắt                              nguồn từ đâu? Nương tựa vào đâu? Phát sinh từ đâu?                              Chuyển biến từ đâu?                              A Nan nên biết, Ái bắt nguồn từ                              Thọ, nương tựa vào Thọ, phát sinh từ Thọ và chuyển                              biến từ Thọ.                              A Nan nên biết, Thọ bắt nguồn                              từ Xúc, nương tựa vào Xúc, phát sinh từ Xúc và                              chuyển biến từ Xúc.                              A Nan nên biết, Xúc bắt nguồn                              từ Lục nhập, nương tựa vào Lục nhập, phát sinh từ                              Lục nhập và chuyển biến từ Lục nhập.                              A Nan nên biết, Lục nhập là                              pháp hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh là pháp                              Vô thường hoại diệt; Xúc là pháp hữu vi, do nhân                              duyên hòa hợp mà sinh, là pháp Vô thường hoại diệt;                              Thọ là pháp hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh,                              là pháp Vô thường hoại diệt; Ái là pháp hữu vi, do                              nhân duyên hòa hợp mà sinh, là pháp Vô thường hoại                              diệt; hành là pháp hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà                              sinh, là pháp Vô thường hoại diệt. Vô minh là pháp                              hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh, là pháp Vô                              thường hoại diệt. Như vậy đó A Nan nếu Tỉ kheo biết                              như vậy, thấy như vậy, thì sẽ lần lượt đoạn tận hữu                              lậu.  Vị Tỉ kheo ấy, nghe nói thế,                              bèn suy nghĩ: "Vật chất chẳng phải là ta, vật chất                              là sở hữu của ta".                              Phật biết được, những suy nghĩ                              trong lòng của Tỉ kheo ấy, liền nói với A Nan: "Thầy                              Tỉ kheo ấy nghĩ thế Này: "Vật chất chẳng phải là ta,                              vật chất là sở hữu của ta".                              A Nan nên biết, nếu Tỉ kheo                              quán tưởng như sau: "Vật chất là tất cả các hành, do                              Vô minh, Xúc, Thọ mà sinh ra ái, vậy ái bắt nguồn từ                              đâu? Nương tựa vào đâu? Phát sinh từ đâu? Chuyển                              biến từ đâu?".                              A Nan nên biết, ái bắt nguồn từ                              Thọ, nương tựa vào thọ, phát sinh từ Thọ và chuyển                              biến từ Thọ, cho đến Vô minh hữu vi hành (là sự vận                              hành của pháp hữu vi), do nhân duyên hòa hợp mà                              sinh, là pháp Vô thường hoại diệt.                              Vị Tỉ kheo ấy nghe nói thế,                              liền suy nghĩ: "Vật chất không phải là Ta, cũng                              không phải sở hữu của Ta, mà trong ta có vật chất".                              Phật biết những suy nghĩ trong                              lòng của Tỉ kheo ấy: (cho đến) Vô minh là sự vận                              hành của hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh, là                              pháp vô thường biến hoại .                              Vị Tỉ kheo ấy nghe nói thế,                              liền suy nghĩ: "Vật chất chẳng phải là ta, chẳng                              phải là sở hữu của ta, cũng chẳng phải trong ta có                              vật chất, hay trong vật chất có ta".                              Phật biết được những suy nghĩ                              trong lòng của Tỉ kheo ấy: (cho đến) Vô minh là sự                              vận hành của hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh,                              là pháp vô thường biến hoại.                              Vị Tỉ kheo ấy nghe nói thế,                              liền suy nghĩ: "Nếu vật chất chẳng phải là ta, chẳng                              phải sở hữu của ta, chẳng phải trong ta có vật chất,                              cũng chẳng phải trong vật chất có ta; (Vậy chắc) Thọ                              là ta, Tưởng, Hành, Thức cũng như vậy. Nếu năm ấm                              chẳng phải là ta, chẳng phải sở hữu của ta, chẳng                              phải trong ta có năm ấm, chẳng phải trong năm ấm có                              ta; vậy thì vì sao mà có ta?".                              Phật nói với A Nan: "Nếu quán                              tưởng như vậy về [364c] năm ấm, tất cả các Hành, do                              Vô minh, Xúc, Thọ sinh ra Ái, thì Này A Nan, Ái bắt                              nguồn từ đâu? Nương tựa vào đâu? Phát sinh từ đâu?                              Chuyển biến từ đâu? Này A Nan Ái bắt nguồn từ Thọ,                              nương tựa vào Thọ, phát sinh từ Thọ và chuyển biến                              từ Thọ.                               A Nan nên biết, Thọ bắt nguồn                              từ Xúc, nương tựa vào Xúc, phát sinh từ Xúc và                              chuyển biến từ Xúc.                              A Nan nên biết, Xúc bắt nguồn                              từ Lục nhập, nương tựa vào Lục nhập, phát sinh từ                              Lục nhập và chuyển biến từ Lục nhập.                              A Nan nên biết, Lục nhập là sự                              vận hành của hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh,                              là pháp Vô thường biến hoại, (cho đến) Vô minh là sự                              vận hành của hữu vi, do nhân duyên hòa hợp mà sinh,                              là pháp vô thường biến hoại, như vậy đó A Nan. Nếu                              Tỉ kheo biết như vậy, quán tưởng như vậy, thì lần                              lượt sẽ đoạn tận hữu lậu.                              Vị Tỉ kheo ấy nghe nói thế,                              liền được pháp nhãn thanh tịnh. Rồi thầy suy nghĩ:                              "Tất cả các pháp đều vắng lặng, không có ta, không                              có sở hữu của ta".                              Phật nói với A Nan: "Thầy Tỉ                              kheo ấy trong khi suy nghĩ như thế, thì không thọ                              nhận bất cứ pháp nào, đoạn tận các lậu hoặc và tâm                              được giải thoát".                              Trong khi Phật vì Tỉ kheo ấy                              thuyết về pháp đó thì năm trăm Tỉ kheo tâm được giải                              thoát, đều thành La hán.                              Thế rồi, đức Thế Tôn cùng sống                              với các Tỉ kheo, lúc ấy vào tháng mùa thu, gặp cơn                              mưa lạnh thình lình các Tỉ kheo đem đốt một khúc cây                              lớn rổng ruột. Nhưng trong cây ấy vốn có một con rắn                              lớn. Vì bị lửa nóng nên nó chui ra, ngẩng đầu lên,                              đuổi theo các Tỉ kheo. Do đó, các Tỉ kheo kêu gọi                              nhau ôm sồm: "rắn bò ra, rắn bò ra". Lúc ấy, Phật                              biết nhưng vẫn hỏi các Tỉ kheo: "Vì sao mà kêu la ôm                              sồm như thế?".                              - Bạch Thế Tôn, vì bị cơn mưa                              lạnh thình lình các Tỉ kheo niên thiếu đem đốt một                              cây rổng ruột. Trong cây ấy có con rắn, do bị lửa                              nóng nên nó bò ra đuổi các Tỉ kheo. Các Tỉ kheo thấy                              vậy nên mới kêu gọi nhau ôm sòm như thế.                              - Ði gọi các Tỉ kheo ấy đến                              đây.  Khi họ đến rồi, Phật bèn nói                              với các Tỉ kheo: "Ðốt lửa có bảy sự tai hại, đó là:                              1. Làm hư mắt; 2. Làm hư nhan sắc; 3. Làm cho thân                              tiều tụy; 4. Y phục bị dơ bẩn, hư hại; 5. Làm hư                              hỏng giường nệm; 6. Sinh ra cơ hội phạm giới; 7. Làm                              tăng thêm sự bàn tán về chuyện đời. Có bảy điều tai                              hại như thế, nên từ nay về sau, Ta không cho phép                              đốt lửa".                               Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Ðức Thế Tôn vì năm                              việc lợi ích nên cứ năm hôm đi quan sát phòng của                              các Tỉ kheo một lần, Ngài thấy một Tỉ kheo bị bệnh                              ghẻ ngứa, Phật biết nhưng vẫn hỏi:                              - Này Tỉ kheo, có dễ chịu                              không? Không khổ đấy chứ?                              - Con bị bệnh ghẻ ngứa không                              được vui, nếu được hơ lửa thì thấy dễ chịu, nhưng                              Thế Tôn chế giới không cho đốt lửa, nên không được                              dễ chịu.                               - Từ nay về sau, Ta cho phép Tỉ                              kheo bị bệnh được phép đốt lửa.                               [365a] Lại nữa, khi Phật trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các tôn                              giả Nan đề, Kim Tì Lô, Bạt đề an cư tại núi tháp vừa                              xong, bèn đi đến thành Xá Vệ để đảnh lễ thăm viếng                              Thế Tôn. Thấy các vị mặ áo bị thấm mưa, màu nhuộm                              phai lạt, Phật biết mà vẫn hỏi:                              - Này các Tỉ kheo, vì sao lại                              mặc áo bị thấm nước mưa (màu phai lạt)?                              - Bạch Thế Tôn, vì Thế Tôn chế                              giới không được đốt lửa, nên chúng con không dám nấu                              thuốc nhuộm để nhuộm lại.                              - Từ nay về sau, trừ có lý do                              chính đáng (thì được đốt lửa).                              Thế rồi Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá vệ phải tập họp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo không có bệnh                              mà tự đốt cỏ, cây, phân bò, hoặc sai người khác đốt,                              thì phạm Ba dạ đề, ngoại trừ có lý do chính đáng.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: Như trên                              đã nói.                               Bệnh: Như ghẻ lở,                              ghẻ ngứa, lác, bệnh phong... có các loại bệnh cần                              đến lửa như vậy mới dễ chịu, thì cho phép đốt lửa.                              Cỏ: tất cả các                              thứ cỏ và lau, sậy, trúc...                              Cây: Tất cả các                              loại cây hoặc đã bị đốn chặt, hoặc còn nguyên vẹn.                              Phân bò: Hoặc tự                              mình đốt, hoặc sai người đốt, ngoại trừ có lý do                              chính đáng thì Thế Tôn bảo không có tội.                              Lý do: Hoặc trực                              nguyệt (chịu trách nhiệm trong tháng), hoặc phải                              chăm sóc việc ăn uống, hoặc đến phiên mình phải đốt                              lửa, đốt đèn, hoặc đốt lò sưởi cho ấm trong phòng,                              hoặc đốt lửa cho Hòa thượng, A xà lê, hoặc đun nước                              nóng, hoặc xông bát, hoặc nhuộm y... đốt lửa thì                              không có tội. Nếu không có lý do thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Nếu cầm cây củi có lửa để trên                              đống củi, trên cỏ, trên phân bò, trên ghế gỗ, trên                              đống rác thì phạm ba dạ đề. Như vậy, cho đến nếu cầm                              nắm rác có lửa để trên củi, trên cỏ, trên phân bò,                              trên ghế gỗ cũng như vậy.                              Nếu Tỉ kheo dẫm trên đống lửa                              bằng cỏ cây, có cái đã cháy, có cái chưa cháy, thì                              phạm Ba dạ đề.                              Nếu dẫm trên lửa làm cho lửa                              văng ra mà chưa cháy đất, thì phạm tội Việt tì ni                              (?). (Khi ấy) được cầm cây sắt, gạch, ngói mà dập                              đống lửa thì không có tội.                              Nếu cầm lửa xoay thành vòng                              tròn thì phạm tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo ngắt cỏ ném về phía                              lửa hoặc ném trên lửa, thì tùy ngắt bao nhiêu cộng,                              phạm bấy nhiêu tội Ba dạ đề.                              Nếu đốt cháy cây cỏ thì phạm Ba                              dạ đề.                               Nếu đốt cháy thân cây nảy mầm                              thì phạm hai tội Ba dạ đề. Vì phạm tội đốt lửa và                              làm hại mầm cây.                              Nếu vì muốn phá (vật gì đó),                              hoặc hỏa tịnh (dùng lửa đốt đồ ăn để đồ ăn hợp lệ),                              hoặc vì lý do chính đáng mà đốt thì không có tội.                              Nếu đốt buội lúa đã có hạt hoặc                              bông lúa đã có hạt thì phạm hai tội Ba dạ đề. Một                              tội đốt lửa và một tội làm hại mầm sống. Nhưng nếu                              cần dùng lửa để tác tịnh (như nghĩa hỏa tịnh) hoặc                              có lý do mà đốt, thì không có tội.                              Nếu đốt tóc, đốt lông ngựa,                              lông lạc đà ..., thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu đốt da thì phạm tội Việt tì                              ni.  Nếu đốt bánh thì phạm tội Việt                              tì ni.                               Nếu đốt thuốc độc và than thì                              phạm tội Việt tì ni.                              [365b] Nếu ăn không tiêu được                              dùng miếng sắt nung nóng áp trên bụng, thì không có                              tội.  Nếu dùng giày da dẫm trên lửa                              thì phạm tội Việt tì ni.                              Thế nên nói (như trên).                              40. GIỚI: NGỦ QUÁ THỜI HẠN                              CHO PHÉP.                              Khi Phật an trú tại tịnh xá                              Khoáng Dã, nói rộng như trên. Bấy giờ Tỉ kheo quản                              sự thuê thợ trộn hồ đúc gạch. Người thợ ấy khi thì                              ngủ trong phòng trai đường của Tăng, khi thì nghỉ                              trong phòng Thiền, khi thì nghỉ trong phòng sưởi,                              ông khạc nhổ đồ dơ bẩn, hoặc đại tiểu tiện nơi Này                              nơi kia, làm cho ô uế, phương hại đến sự tọa thiền,                              hành đạo của các Tỉ kheo. Các Tỉ kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ                              kheo quản sự đến. Khi thầy đén rồi, Phật bèn hỏi:                              "Có thật ông thuê người làm công về làm cho ô uế nơi                              này nơi kia, khiến phương hại đến sự tọa Thiền, hành                              đạo của các Tỉ kheo hay không?".                              - Có thật như vậy, bạch Thế                              Tôn.  - Vì sao như vậy?                              - Con muốn sai người thợ ấy                              buổi mai làm, buổi chiều nghỉ, làm sao vừa đủ số                              tiền thuê thì thôi.                              - Tuy vậy, nhưng từ nay về sau                              (Tỉ kheo) không được ngủ chung phòng với người chưa                              thọ giới Cụ túc.                              Lại nữa, khi Phật còn là Bồ                              tát, ở nhà phụ vương rất yêu quí, vì sợ mất giống                              Chuyển luân vương nên ưu sầu khóc lóc không cho Bồ                              tát xuất gia. Ðến khi (Gia du) hoài thai La Hầu La                              thì (Bồ tát) mới bỏ nhà xuất gia được. Thế rồi, Phật                              nói với các Tỉ kheo: "Như Lai nhu nhuyến làm vui                              lòng người không thể nào hơn được phụ vương, vì Ngài                              đã xây ba cung điện phù hợp cho ba mùa Xuân, Hạ,                              Ðông, như trong kinh Nhu Nhuyến Tuyến đã nói rõ,                              (cho đến) Như Lai được thành Ðẳng Chánh Giác".                              Các Tỉ kheo bạch với Phật:                              - Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn                              phải tu khổ hạnh đến sáu năm như vậy?                              - Không phải chỉ có ngày nay                              (tu khổ hạnh) như trong kinh Ðiểu Bản Sinh đã nói                              rõ.  - Bạch Thế Tôn, vì sao ma Ba                              tuần thường muốn làm não loạn phá hoại Thế Tôn?                              - Không phải chỉ có ngày nay                              (phá hoại), như trong kinh Miết Bản Sinh đã nói rõ                              về sự kiện cha con gặp nhau tại nước Ca Duy La Vệ.                              Trong đó còn nói rõ về trường hợp Ðại Ái Ðạo, Da                              thâu Ðà La, La Vân xuất gia. Lại còn nói rõ trường                              hợp Phật vì thân quyến nên trở về nước Ca Duy La Vệ.                              Bấy giờ, những người có lòng tin bèn làm cầu tiêu                              cho Phật. Tuy Phật không cần, nhưng vì thuận theo                              người đời nên đã nhận. Thế rồi, một hôm, tôn giả La                              Hầu La nằm ngủ ở ngoài trời, đêm ấy trời bỗng đổ mưa                              gió. Thầy liền đi đến trước phòng tôn giả Xá Lợi                              Phất, gõ cửa. Xá Lợi Phất hỏi: "Ông là ai?".                              - Bạch Hòa Thượng, con là La                              Hầu La.                               - Ông hãy đứng ngoài đó.                              La Hầu La bèn đến trước phòng                              tôn giả Ðại Mục Liên, gõ cửa. Mục Liên hỏi:                              - Ông là ai?                              - Thưa A xà lê (thầy giáo thọ),                              con là La Hầu La.                              - Ông hãy đứng ngoài đó.                              Cứ như thế, La Hầu La lại đến                              các phòng khác, nhưng ai cũng bảo phải đứng ở ngoài                              phòng. Lúc ấy, La Hầu La bèn đi vào trong cầu tiêu                              của Thế Tôn, gối đầu trên thềm cầu mà nằm. [365c]                              Thế rồi, có một con rắn đen, vì sợ mưa gió nên cũng                              định vào trong cầu tiêu. Phật thường quan sát chúng                              sinh, thấy con rắn đen ấy muốn vào trong cầu tiêu,                              vì sợ nó làm hại La Hầu La, nên người phóng ra ánh                              sáng, rồi đi đến nhà cầu, cất tiếng hỏi: "Ông là                              ai?"  - Bạch Thế Tôn, con là La Hầu                              La.  - La Hầu La, chẳng lẽ ông đang                              ở đấy sao?                               - Bạch Thế Tôn, con được chỗ                              này đã may mắn lắm rồi!                              Phật liền dùng bàn tay sắc vàng                              mềm mại đỡ La Hầu La lên, rồi phủi bụi bám trên                              mình, đoạn, dẫn vào phòng mình chỉ cái giường ở                              trước, nói: "Ông hãy nghỉ trên giường này".                              Vì khi ấy, Như Lai đã chế giới                              cho các đệ tử, nên phải tuân hành theo giới ấy. Do                              đó, Thế Tôn ngồi kiết già trên đất. Lúc ngồi Thiền                              xong, Phật liền nói với các Tỉ kheo: "Như Lai vì                              lòng từ, nhân chuyện La Hầu La, nên muốn cho các đệ                              tử được an lạc, từ nay về sau Ta cho phép người chưa                              thọ giới Cụ túc được ngủ chung phòng (với Tỉ kheo)                              trong ba đêm, đến đêm thứ tư, nên ngủ riêng".                              Các Tỉ kheo bèn bạch với Phật:                              "Bạch Thế Tôn, vì nguyên nhân gì mà La Hầu La ở                              trong thai sáu năm?"                              Phật nói với các Tỉ kheo: "Ngày                              xưa có một tiên nhân tên Lê Ba Ðô, di đến nhà vua                              xin yết kiến. Vua bèn báo tin cho tiên nhân: "Ông                              hãy ở tạm trong vườn Vô Ưu, chốc lát rồi Ta sẽ cho                              gặp". Nhà vua ra lệnh thế rồi, nhưng đến sáu hôm mà                              chưa cho tiên nhân gặp". Ông vua khi ấy nay là La                              Hầu La, vì nguyên nhân đó mà phải ở trong thai đến                              sáu năm, như trong Sanh kinh đã nói rõ". Thế rồi,                              Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại Ca                              Duy La Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích                              mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo ngủ chung một                              phòng với người chưa thọ giới Cụ túc quá ba đêm thì                              phạm Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: Như trên                              đã nói.                               Chưa thọ Cụ túc:                              Trừ Tỉ kheo, Tỉ kheo ni, nhưng Tỉ kheo ni tuy thọ Cụ                              túc cũng không cho phép ở chung ba đêm.                              Ngủ ba đêm: Giới                              hạn được ngủ ba đêm.                              Cùng một phòng:                              Nếu cùng ngủ chung trong một phòng có cùng một mái,                              cùng một bức tường thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Nếu một phòng mà có cửa riêng,                              có ngăn cách thì không có tội.                              Nếu khác phòng mà cùng một cửa                              thì phạm Ba đạ đề.                              Hoặc một phòng một cửa cũng                              phạm Ba dạ đề.                              Nếu khác phòng, khác cửa thì                              không có tội.                              Nếu (phòng) có tường có mái thì                              phạm Ba dạ đề.                              Nếu có tường mà lợp một nửa thì                              phạm tội Việt tì ni.                              Nếu có tường mà không có mái                              thì không có tội.                              Nếu có mái, có tường thì phạm                              Ba dạ đề.                               Nếu có mái mà tường ngăn một                              nửa thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu có mái mà không có tường                              thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo ngủ trong phòng mà                              người chưa thọ Cụ túc cũng ngủ trong phòng thì phạm                              Ba dạ đề.                               Nếu Tỉ kheo ngủ trong phòng mà                              người chưa thọ giới Cụ túc nằm một nửa thân mình                              trong phòng thì phạm tội Việt tì ni. Nếu nằm hoàn                              toàn ở ngoài thì không có tội.                              [366a] Nếu người chưa thọ giới                              Cụ túc ngủ trong phòng và Tỉ kheo cũng ngủ trong                              phòng thì phạm tội Ba dạ đề.                              Nếu người chưa thọ giới Cụ túc                              ngủ trong phòng, mà Tỉ kheo nằm nửa thân mình trong                              phòng thì phạm tội Việt tì ni. Nếu nằm hoàn toàn ở                              ngoài phòng thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo nằm trước trong                              phòng rồi người chưa thọ giới Cụ túc đến nằm sau thì                              cứ mỗi lần nằm phạm một tội Ba dạ đề. Nếu Tỉ kheo                              hay người chưa thọ Cụ túc nửa đêm dậy đi đại tiểu                              tiện rồi vào ngủ lại, thì cứ mỗi lần trở dậy phạm                              một tội Ba dạ đề.                              Nếu nhiều người chưa thọ Cụ túc                              vào nằm trước, rồi Tỉ kheo đến ngủ sau thì phạm một                              tội Ba dạ đề.                              Nếu nửa đêm dậy đi đại tiểu                              tiện rồi trở vào nằm lại, thì cứ mỗi lần đi lại phạm                              một tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo ngủ cùng phòng với                              người chưa thọ Cụ túc ba đêm, thì đêm thứ tư phải                              đổi sang phòng khác. Nếu ra nằm ngoài trời rồi gặp                              lúc trời mưa gió lạnh lẽo thì nên vào lại trong                              phòng mà ngồi cho đến lúc thấy rõ mặt đất. Nếu Tỉ                              kheo bệnh không thể ngồi được thì nên lấy mền đắp                              lên từ đầu trở xuống hoặc từ nách trở xuống cho tới                              đất và nên dùng một vật dày khít ngăn lại không để                              cho con mèo đi qua được.                              Nếu Tỉ kheo đang lúc đi đường                              có thể ngủ với người chưa thọ giới Cụ túc trong một                              nhà qua ba đêm, đến đêm thứ tư nên ngủ riêng ra. Nếu                              ra nằm ngoài trời mà gặp lúc mưa gió tuyết rơi lạnh                              phải vào trong nhà thì nên dùng cáimền ngăn lại như                              trên đã nói. Nếu không che mền thì phải ngồi cho đến                              lúc thấy rõ mặt đất. Nếu vì già bệnh không ngồi được                              mà người chưa thọ giới Cụ túc kia có thể tin được                              thì nên bảo y: "Ngươi ngủ thì ta phải ngồi". Ðến lúc                              Tỉ kheo muốn ngủ thì nên gọi y dậy, nói: "Khi ta ngủ                              thì ngươi phải ngồi, nếu ngươi cũng ngủ thì không                              được phước đức".                              Tội ngủ chung cùng phòng Này                              nếu chưa sám hối mà lại ngủ chung nữa thì tội càng                              thêm nặng. Nếu sám hối xong, rồi ngủ phòng riêng,                              thì sau đó sẽ được ngủ chung lại. Thế nên nói (như                              trên).                               41. GIỚI: GỞI DỤC RỒI PHỦ                              NHẬN                               Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ                              nói rộng như trên. Bấy giờ Tỉ kheo Tăng tập họp định                              làm yết ma, thì Ưu Ba Nan Ðà không đến. Sứ giả liền                              đến, gọi: "Trưởng lão, Tăng tập họp định làm yết ma,                              cho tôi tới gọi trưởng lão". Ưu Ba Nan Ðà vốn hiểu                              giới luật liền gởi dục yết ma cho sứ giả. Sau khi                              gởi dục yết ma rồi, thầy Tỉ kheo nhận dục nói: "Ông                              đã gởi dục rồi, sau Này chớ nói Này khác". Thế rồi,                              Tăng làm yết ma cử tội người đệ tử thân cận của Ưu                              Ba Nan Ðà. Sau khi bị Tăng làm yết ma cử tội, người                              Này liền đến chỗ Hòa Thượng (Ưu Ba Nan Ðà) nói như                              sau:  - Vì sao Hòa Thượng lại gởi dục                              trong trường hợp này?                              - Có việc gì vậy?                              - Chúng Tăng làm yết ma cử tội                              con.  - Ta đâu có biết.                              Thầy nghe đệ tử nói rồi, bèn                              đến nói với người mình đã gởi dục: "Trưởng lão, tôi                              không gởi dục (trong trường hợp) không tốt như vậy,                              pháp yết ma đó [366b] không thành tựu. Tôi không gởi                              dục về pháp yết ma này".                              Khi đó, các Tỉ kheo nghe thế hổ                              thẹn, không vui, liền đem sự việc ấy đến bạch với                              Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Ưu Ba Nan Ðà đến. Khi thầy                              đến rồi, Phật nói: "...Ðó là việc xấu. Vì sao ông                              gởi dục rồi lại nói không gởi, yết ma không thành                              tựu. Tôi không gởi loại dục như thế. Vì sao ông                              không hỏi trước mà liền gởi dục? Từ nay về sau Ta                              không cho phép Tỉ kheo không hỏi rõ sự việc mà gởi                              dục". Thế rồi Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang                              sống tại thành Xá vệ phải tập hợp lại tất cả, vì                              mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe                              rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo gởi dục rồi,                              sau đó nổi giận không vui, nói như sau: "Tôi không                              gởi dục (về việc) không tốt, pháp yết ma đó không                              thành tựu. Tôi không gởi dục trong trường hợp này",                              thì phạm Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: Như trên                              đã nói.                               Gởi dục: Có hai                              trường hợp: Hỏi rồi mới gởi, không hỏi mà gởi.                              Hỏi rồi mới gởi:                              Tức hỏi người nhận dục: "Làm việc gì vậy?". Rồi                              người ấy đáp: "Làm yết ma chiết phục", thì khi ấy                              gởi dục yết ma chiết phục, cho đến "yết ma cử tội",                              thì gởi dục yết ma cử tội; mỗi thứ, mỗi thứ yết ma                              như vậy hỏi rồi mới gởi dục; đó gọi là hỏi rồi mới                              gởi dục.                               Không hỏi mà gởi:                              như nói: "Tôi gởi dục yết ma". Nói ba lần như vậy.                              Ðó được xem là gởi dục chung cho tất cả pháp yết ma,                              chỉ trừ Bồ tát và Tự tứ. Như vậy gọi là không hỏi mà                              gởi dục.                               Thế rồi, sau khi làm yết ma                              xong giận dữ không vui. Giận dữ không vui được gọi                              là chín sự khổ não và nổi giận không đúng chỗ. Sự                              giận dữ thứ mười thì kẻ phàm phu đang học còn mắc                              phải, thậm chí La hán cũng có cái không vui, rồi nói                              như sau: "Tôi không gởi dục (những việc) không tốt,                              pháp yết ma đó không thành tựu. Tôi không gởi thứ                              dục ấy, thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Nếu khi Tỉ kheo Tăng tập họp                              định làm yết ma thì tất cả mọi người phải đến đầy                              đủ. Nếu có duyên sự như xông bát, nhuộm y, hoặc                              bệnh, hoặc bận các việc đối với tháp, với Tăng, thì                              khi ấy phải gởi dục. Nhưng không được gởi rồi, sau                              lại nói: "Theo tôi nghe người kia nói lại thì việc                              đó không nên làm như vậy". Nếu trước đã gởi dục yết                              ma rồi thì sau đó phải tùy hỉ. Nếu ở giữa Tăng đã                              gởi dục rồi mà sau đó làm trái lại, thì phạm Ba dạ                              đề.  Nếu ở giữa nhiều người, hoặc ở                              trước Tỉ kheo trưởng lão, trước Hòa Thượng A xà lê                              gởi dục rồi mà sau đó làm trái lại, thì phạm tội                              Việt tì ni. Thế nên nói (như trên).                                                           42. GIỚI:                              LÀM CHO NGƯỜI KHÁC NHỊN ÐÓI.                               Khi Phật an trú tại thành Xá                              Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Ưu Ba Nan Ðà- em của                              Nan Ðà- nói với người đệ tử đồng hành của Nan Ðà như                              sau: "Ngươi cùng đi với ta vào thôn xóm [366c], đến                              một nhà kia, ta sẽ cho ngươi thức ăn ngon. Nếu ta có                              làm việc gì trái oai nghi thì ngươi chớ nói với                              người khác. Ta là chú của ngươi (như trong giới ba                              mươi đã nói rõ), cho đến nói với Nan Ðà: "Vì sao đệ                              tử của thầy lại nói lỗi của tôi ở trước mặt những                              người phạm hạnh?". Nan Ðà liền khiển trách đệ tử:                              "Ngươi là vật tồi tệ, vì sao lại nói lỗi của em ta ở                              trước những người phạm hạnh?". Các Tỉ kheo bèn đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Ưu Ba Nan Ðà đến. Khi thầy đến rồi, Phật hỏi:                              - Ông có làm như vậy thật                              chăng?                               - Có thật như vậy, bạch Thế                              Tôn.  - Ưu Ba Nan Ðà, đó là việc ác.                              Vì sao ông lại nói với Tỉ kheo kia rằng: "Ngươi cùng                              đi với ta vào thôn xóm, đến nhà kia, ta sẽ cho ngươi                              thức ăn ngon". Nhưng khi đến đó rồi, lại bảo họ trở                              về. Từ nay về sau Ta không cho phép bảo họ trở về.                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo nói với Tỉ                              kheo khác như sau: "Ngươi cùng vào thôn xóm với ta,                              đến nhà kia, ta sẽ cho ngươi thức ăn", hoặc tự mình                              cho hoặc bảo người khác cho. Rồi sau đó muốn đuổi họ                              đi, nói: "Ngươi đi đi. Ta ở với ngươi, nói chuyện                              với ngươi không vui. Ta sống một mình, nói chuyện                              một mình vui hơn". Chỉ nêu lý do đó mà đuổi chứ                              không có lý do nào khác, thì phạm Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: như trên                              đã nói.                               Thôn xóm: Như                              trong giới ăn trộm trên kia đã nói.                              Sau đó không cho:                              Tự mình không cho cũng không bảo người khác cho, nói                              như sai: "Trưởng lão, ông hãy đi đi. Tôi cùng ở với                              ông, cùng nói chuyện với ông không vui. Tôi sống một                              mình, nói chuyện một mình vui hơn", để mà đuổi, thì                              phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói.                              Nếu vì muốn làm điều trái oai                              nghi ở giữa đường mà lưu giữ người kia ở lại trong                              tịnh xá, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu vì muốn làm điều trái oai                              nghi ở giữa đường, rồi ngay giữa đường sai người kia                              trở về, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu vì muốn làm điều trái oai                              nghi ở trong thôn xóm, rồi ngay tại thôn xóm đuổi                              người kia đi, thì phạm Ba dạ đề.                              Không nên dẫn đi rồi đuổi trở                              về. Nếu khả năng không thể xin đủ hai người ăn, thì                              có thể sai người kia trờ về, không có tội.                              Nếu có thể xin đủ hai người ăn                              thì nên cùng ăn. Nếu sai đi lấy thuốc, mời y sĩ, thì                              không có tội.                              Nếu xin không thể được rồi khi                              ấy định sai đi mà có chỗ mời ăn, thì nên bảo đến chỗ                              mời ăn để người ấy ăn. Nếu không có chỗ mời ăn mà                              trong tịnh xá có thức ăn, thì nên bảo về lại tịnh xá                              để ăn. Nếu không có chỗ nào mời ăn, trong tịnh xá                              cũng không có thức ăn, thì nên nói với người kia ".                              Trưởng lão, ông hãy tự đi tìm thức ăn lấy". Nếu                              người ấy làm điều trái oai nghi, nhìn ngó bất chính,                              thì khiến họ đi không có tội.                              Hoặc sai người ấy làm các việc                              như xông bát, nhuộm y, thì không có tội.                              Tóm lại, nếu đuổi Tỉ kheo thì                              phạm Ba dạ đề, đuổi [367a] Tỉ kheo ni thì phạm Thâu                              lan giá; đuổi Học giới ni, Sa di, Sa di ni thì phạm                              tội Việt tì ni; cuối cùng, nếu đuổi người thế tục,                              thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên                              nói (như trên).                              43. GIỚI: XUYÊN TẠC GIÁO                              PHÁP, KHÔNG NGHE LỜI KHUYÊN.                              Khi Phật an trú tại thành Xá                              Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả A Lợi Tra                              hủy báng khế kinh như sau: "Theo tôi hiểu các pháp                              do Như Lai thuyết giảng thì những pháp mà Ngài bảo                              là chướng đạo, khi thực hành chúng, chẳng có gì                              chướng đạo cả". Khi ấy, các Tỉ kheo bèn nói: "Trưởng                              lão A Lợi Tra, chớ hủy báng khế kinh. Ðó là ác kiến,                              là kiến giải bất thiện, sẽ đọa vào đường ác, rơi                              xuống địa ngục". Can gián một lần, hai lần, ba lần                              vẫn không chấm dứt, các Tỉ kheo liền đem sự việc ấy                              đến bạch lên Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, A Lợi Tra hủy                              báng khế kinh, nói như sau: "Theo chỗ tôi biết,                              những pháp do đức Như Lai thuyết giảng, thì những                              pháp mà Ngài cho là chướng đạo, khi thực hành chúng,                              chẳng có gì chướng đạo cả". Chúng con đã can gián                              một lần, hai lần, ba lần mà thầy vẫn không chấm                              dứt".  Phật liền nói với các Tỉ kheo:                              "Ông A Lợi Tra ấy hủy báng khế kinh, nói rằng: "Theo                              chỗ tôi biết, các pháp do đức Như Lai thuyết giảng                              thì những pháp mà Ngài cho là chướng đạo, khi thực                              hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả". Rồi được can                              gián một lần, hai lần, ba lần mà vẫn không chấm dứt,                              thì các ông nên đến chỗ vắng can gián ba lần, đến                              giữa nhiều người can gián ba lần, rồi đến giữa chúng                              Tăng can gián ba lần. Khi can gián ở chỗ vắng, nên                              hỏi như sau: "Trưởng lão A Lợi Tra, ông hủy báng khế                              kinh nói như sau: "Theo chỗ tôi biết, các pháp đức                              Như Lai thuyết giảng thì những pháp mà Ngài bảo là                              chướng đạo, khi thực hành chúng chẳng có gì là                              chướng đạo cả", rồi được can gián ba lần mà không từ                              bỏ phải không?". Nếu ông đáp: "Ðúng như vậy". Thì                              bấy giờ nên can gián ở chỗ vắng như sau: "A Lợi Tra,                              ông hủy báng khế kinh, đó là ác kiến, là kiến giải                              bất thiện, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục.                              Trưởng lão, tôi vì từ tâm can gián ông là muốn cho                              ông được lợi ích, vậy ông hãy bỏ việc ấy đi. Lần can                              gián thứ nhất đã xong, còn hai lần can gián nữa, vậy                              ông hãy bỏ việc ấy đi".                              A Lợi Tra nói: "Ðó là kiến giải                              tốt, kiến giải thiện, từ khi tôi chấp hành đến nay,                              cha mẹ bạn bè quen biết của tôi cũng thường áp dụng                              kiến giải này. Nay tôi không thể không hỏi cha mẹ                              bạn bè quen biết mà lại vứt bỏ kiến giải này".                              Thế rồi, nếu can gián đến lần                              thứ hai thứ ba mà vẫn không chấm dứt, cho đến can                              gián ở chỗ nhiều người ba lần cũng không chấm dứt,                              thì phải đến giữa chúng Tăng làm pháp yết ma cầu                              thính (xin được nghe), nói như sau: "Xin đại đức                              Tăng lắng nghe! A Lợi Tra hủy báng khế kinh nói thế                              này: "Theo tôi biết các pháp do Như Lai thuyết                              giảng, những pháp mà Ngài bảo rằng chướng đạo, khi                              thực hành chúng chẳng có gì chướng đạo cả". Ðã được                              can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều người ba                              lần mà vẫn không bỏ việc ấy. Nếu thời gian thích hợp                              đối với Tăng, nay Tăng cũng lại can gián ở giữa Tăng                              ba lần khiến cho bỏ việc ấy".                              Trong chúng Tăng nên hỏi:                              "Trưởng lão A Lợi Tra, có thật ông hủy báng khế kinh                              nói rằng: "Theo tôi biết các pháp do Như Lai thuyết                              giảng, [367b] những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo,                              khi thực hành chúng chẳng có gì là chướng đạo cả",                              rồi được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều                              người ba lần mà vẫn không bỏ việc ấy phải không?".                              Nếu ông đáp: "Ðúng như vậy",                              thì ở giữa chúng Tăng nên can gián. Cách can gián                              phải nói như sau: "A Lợi Tra, ông chớ hủy báng khế                              kinh. Hủy báng khế kinh sẽ đọa vào đường ác, rơi                              xuống địa ngục. Này trưởng lão, Tăng muốn lợi ích                              cho ông, ông phải vâng lời chúng Tăng. Một lần can                              gián đã xong, còn hai lần can gián nữa, ông phải bỏ                              việc ấy đi".                              A Lợi Tra lại nói: "Ðó là kiến                              giải tốt, kiến giải thiện, từ cha mẹ tôi trở đi đều                              kế thừa áp dụng kiến giải này. Tôi không thể không                              hỏi cha mẹ mà bỏ kiến giải này".                              Tuy được can gián đến lần thứ                              hai, thứ ba mà ông vẫn không bỏ, do đó, các Tỉ kheo                              liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn                              nói với các Tỉ kheo: "Nếu Tỉ kheo A Lợi Tra hủy báng                              khế kinh nói rằng: "Theo tôi hiểu pháp của Như Lai                              thuyết giảng, những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo,                              khi thực hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả", rồi                              được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều người                              ba lần, ở giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không bỏ                              việc ấy, thì các ông nên làm pháp yết ma cử tội Tỉ                              kheo A Lợi Tra".                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo nói thế này:                              "Thưa trưởng lão, tôi biết pháp do Thế Tôn thuyết                              giảng, những pháp mà Thế Tôn bảo là chướng đạo, khi                              thực hành chẳng có gì là chướng đạo", thì các Tỉ                              kheo nên khuyên can Tỉ kheo ấy, nói thế này: "Trưởng                              lão, ông chớ hủy báng Thế Tôn, hủy báng Thế Tôn là                              bất thiện. Thế Tôn không nói như thế. Thế Tôn nói                              pháp chướng đạo thì thật là chướng đạo. Ông hãy bỏ                              việc ấy đi". Nếu các Tỉ kheo khuyên can Tỉ kheo ấy                              mà ông vẫn kiên trì không bỏ, thì nên khuyên can như                              vậy đến lần thứ hai, thứ ba. (Sau ba lần khuyên can)                              mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tăng nên làm yết ma                              cử tội. Sau khi làm yết ma xong, (Tỉ kheo ấy) phạm                              tội Ba dạ đề.                                                           Giải                              thích:                               Tỉ kheo: Như trên                              đã nói.                               Thế Tôn: là bậc                              nhất thiết trí, nhất thiết kiến.                              Pháp: Những điều                              do Thế Tôn nói, những điều được Thế Tôn ấn khả.                              Thế Tôn nói: Thế                              Tôn tự nói.                              Ấn khả: Các đệ tử                              nói rồi Thế Tôn ấn chứng (chuẩn nhận).                              Nói: Nói ra từng                              câu từng câu rõ ràng.                              Biết: Tức là cái                              biết thuộc trí tuệ siêu đẳng.                              Pháp chướng đạo:                              Ðối với ngũ dục mắt thấy sắc sinh ra Aùi luyến nhớ                              nghĩ, tâm sinh ham muốn đắm trước, đối với tai, mũi,                              lưỡi, thân, cảm thọ cũng như vậy.                              Thực hành (tập):                              Làm việc đó.                              Chẳng có gì chướng đạo:                              Không chướng đạo Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ                              thiền và các quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A                              la hán.                               Các Tỉ kheo: Hoặc                              một người, hoặc nhiều người, hoặc Tăng chúng.                              Tỉ kheo ấy:                              [367c] Như Tỉ kheo A Lợi Tra.                              Chớ hủy báng Thế Tôn:                              (chớ) giữ lấy những điều không thật, giữ lấy những                              điều không tốt.                              Can gián ba lần:                              Hoặc (ở chỗ) một người, hoặc (ở chỗ) nhiều người,                              hoặc (ở giữa) chúng Tăng.                              Ba dạ đề: Như                              trên đã nói; cho đến ba lần can gián, nếu bỏ thì                              tốt; cho đến không bỏ thì Tăng nên làm yết ma cử tội                              bắt sám hối Ba dạ đề.                              Thế nên nói (như trên).                              
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
Ăn no khuyên ăn thêm. 
Không nhận phần mà ăn, 
Ăn phi thời, đồ thừa. 
Hai ba bát món ngon, 
Ăn riêng chúng, ăn sau 
Hết Bạt cừ thứ tư".                             
Như voi nơi hoang dã. 
Vui trì giới học tập, 
Cần bè bạn làm gì?"                             
Thân tươi đẹp đẫy đà. 
Mình không bẩn sạch sẽ, 
Sống vui nơi rừng vắng. 
Ðược cam lồ diệu pháp, 
Tướng hảo, thân sung mãn. 
[364a] Tâm trong sạch không bẩn, 
Rời chúng, vui rừng vắng".