Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Bốn                                                                                          NÓI RÕ PHẦN THỨ BA CỦA PHÁP ÐƠN ÐỀ     8. GIỚI:                              NÓI TỘI NẶNG CỦA TỲKHEO KHÁC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một                              cư sĩ mời các Tỷ Kheo quen biết đến nhà. Trong số đó                              có một Trưỡng Lão Tỷ Kheo đang thi hành pháp Ma-Na-Ðỏa                              nên ngồi ở hàng dưới. Ưu bà di đàn việt thấy thế,                              liền hỏi: "Tôn giả trước kia ngồi ở trên, nay vì sao                              lại ngồi ở chỗ này?".                              Thầy đáp: "Gặp                              đâu thì ngồi đó mà, cần chi phải hỏi?".                              Ưu bà di nói:                              "Con biết chỗ ngồi của tôn giả đúng ra tại chỗ này,                              con cũng biết chỗ ngồi của các tôn giả khác".                              Khi ấy Nan Ðà nói                              với Ưu bà di: "Vì sao bà lại bảo thầy của bà lên                              ngồi ở chỗ trên? (337 c)Vì thầy của bà vẫn chưa bỏ                              tính bông đùa của thời niên thiếu đó mà".                              Ưu bà di nghe thế,                              lòng không vui, liền suy nghĩ: "Vì thầy ta đang phạm                              các tội nhỏ nên phải ngồi ở chỗ dưới này", liền ném                              giỏ cơm xuống đất rồi bỏ đi nói: "Tôn giả hãy tự lấy                              thức ăn ở trong đó mà ăn". Nói thế rồi, bà liền vào                              trong phòng đóng lại một cánh cửa, rồi đọc kệ:                              "Xuất gia đã lâu                              ngày   Các Tỷ Kheo liền                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi                              Nan Ðà đến.                               Khi thầy đến rồi,                              Phật hỏi: "Ông có thật như vậy không?".                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy, bạch Thế Tôn".                              Phật liền quở                              trách Nan Ðà: "Ðó là việc xấu. Người tu phạm hạnh có                              lúc phóng dật, sau đó sẽ sống như pháp, vì sao nói                              với người chưa thọ giới cụ túc về tội lỗi của người                              ấy?                              Từ nay trở đi ta                              không cho phép (các tỷ kheo) nói với người chưa thọ                              giới cụ túc về thô tội của người khác".                              Lại nữa khi Phật                              an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ                              có Tỷ Kheo khất thực, đến giờ thầy bèn khoác y, cầm                              bát vào thành tuần tự khất thực, đến một nhà kia,                              lúc ấy nghe người đàn ông nói với người nữ: "Ngươi                              bố thí thức ăn cho người xuất gia".                              Người phụ nữ hỏi:                              "Xuất gia theo đạo nào?".                              Ðáp: "Xuất gia                              theo dòng họ thích".                              - Tôi không cho                              thức ăn .                              - Vì sao không                              cho?                              - Ðó là người phá                              phạm hạnh, nên tôi không cho.                              Tỷ kheo liền nói                              với người phụ nữ ấy: "Này bà chị, tôi là người phạm                              hạnh"                              Người phụ nữ nói:                              "Tôn giả Ca Lô là hàng đại danh đức mà còn không thể                              tu phạm hạnh, nay vì sao ông lại tự nói mình là                              ngưòi phạm hạnh?".                              Tỷ kheo nghe lời                              nói ác ấy, cảm thấy sầu não trong lòng, nên không                              khất thực mà trở về lại tịnh xá, tuyệt thực một                              ngày.Vì tuyệt thực nên thân thể rũ rượi, thầy bèn đi                              đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng                              hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: "Nay ông vì sao                              mà thân thể rũ rượi như vậy?".                               Thầy liền đem sự                              việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật nói: "Này tỷ                              kheo, vì sao ông không nói với họ rằng: giả sử Tỷ                              kheo Ca Lô chẳng phải là người phạm hạnh, thì có                              phương hại gì đến việc tu phạm hạnh của tôi?".                              Thầy đáp: "Bạch                              Thế Tôn, con có thể nói với bà ấy, nhưng vì Thế Tôn                              chế giới không cho phép nói với người chưa thọ giới                              cụ túc về thô tội của người khác, cho nên con không                              nói".                              Phật nói: "Lành                              thay! lành thay! Này thiện nam tử! Ông không vì mạng                              sống mà vi phạm lời dạy dỗ của Phật".                               Thế rồi, Phật nói                              với các Tỷ Kheo: "Những người tại gia, xuất gia đều                              biết Tỷ kheo Ca Lô ấy [338a] phi phạm hạnh, vậy tăng                              nên trao cho ông ta phép yết ma phi phạm hạnh. Người                              làm yết ma nên nói như sau:                              "Xin đại đức tăng                              lắng nghe! Những người tại gia, xuất gia đều biết Tỷ                              kheo Ca Lô ấy phi phạm hạnh, nếu thời gian thích hợp                              đối với Tăng, Tăng cho phép nói về phi phạm của Tỷ                              kheo Ca Lô". Bạch như vậy, rồi bạch ba lần yết ma.                              Sau đó Phật hỏi                              các Tỷ kheo: "Ðã làm pháp yết ma cho phép nói về                              việc phi phạm hạnh của Tỷ kheo Ca - Lô chưa?".                              Các Tỷ kheo đáp:                              "Ðã làm rồi".                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỷ kheo sống tại Thành Xá Vệ                              phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới                              cho các Tỷ Kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu Tỷ                              Kheo biết Tỷ Kheo khác phạm thô tội mà đem nói với                              người chưa thọ giới cụ túc - trừ Tăng yết ma cho                              phép - thì phạm Ba dạ đề".                              Giải thích                              Thô tội:                              Như bốn tội (Ba la di), mười ba tội (Tăng Tàn) .                              Chưa thọ                              giới cụ túc:                              Trừ Tỷ kheo, Tỷ kheo ni. Nhưng Tỷ kheo ni dù đã thọ                              giới cụ túc cũng không được nói với họ .                              Nói:                              Nói cho người ở trước mặt mình biết; ngoại trừ                              trường hợp Tăng yết ma cho phép                               Yết ma:                              Nếu tác bạch không hợp lệ, chúng Tăng không hợp lệ,                              thể thức yết ma không hợp lệ, thì cũng không được                              gọi là yết ma . Trái lại, tác bạch hợp lệ, chúng                              Tăng hợp lệ, thể thức yết ma hợp lệ,thì được gọi là                              yết ma . Ðức Thế Tôn bảo yết ma đó không có tội.                              Nếu Tỷ kheo biết                              người khác phạm thô tội, mà Tăng chưa làm yết ma cho                              phép, thì không được nói thô tội của người ấy. Nếu                              có ai hỏi: "Tỷ kheo mỗ giáp phạm giới dâm, giới uống                              rượu phải không?". Thì nên đáp: "Thầy ấy sẽ tự biết".                              Nếu Tăng đã làm                              yết ma rồi, cũng không được đem rêu rao với xóm làng.                              Nếu có ai hỏi: "Tỷ kheo ấy phạm giới dâm,giới uống                              rượu phải không?", thì Tỷ kheo (được hỏi) nên hỏi                              lại người ấy: "Ngươi nghe ở đâu?".                               Nếu họ đáp: "Tôi                              nghe tại nơi đó", thì Tỷ kheo nên trả lời: "Tôi cũng                              nghe tại nơi đó".                              Nếu Tỷ kheo nói                              với người chưa thọ giới cụ túc về việc Tỷ kheo khác                              phạm bốn Ba la di, mười ba Tăng Tàn, thì phạm Ba dạ                              đề. Nếu nói về ba mươi pháp Ni Tát Kì, chín mươi hai                              pháp Ba dạ đề, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu nói về                              bốn Ba la đề đề xá ni, chúng học, oai nghi, thì phạm                              tội Việt tì ni tâm niệm sám hối. Nếu nói về tám Ba                              la di, mười chín Tăng Tàn của Tỷ kheo ni, thì phạm                              tội thâu lan (giá). Nếu nói về ba mươi pháp Ni Tát                              kì, một trăm bốn mươi mốt Ba dạ đề, Tám ba la đề đề                              xá ni, chúng học, oai nghi (của Tỷ kheo ni) thì phạm                              tội việt tỳ ni tâm niệm sám hối .                              Nếu nói về mười                              giới của Sa Di, sa di ni, thì phạm Việt tỳ ni. Sau                              cùng cho đến nói về năm giới của người thế tục, thì                              phạm tội Việt tỳ ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như                              trên).                                                                                                                                                  9. GIỚI: ÐỒNG Ý YẾT-MA, SAU PHỦ NHẬN.                              [338b].Khi Phật                              an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ                              tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử được Tăng làm yết ma cử                              thầy trông coi chín việc, như trong mười ba việc (giới                              Tăng Tàn) đã nói rõ. Lúc ấy có y phấn tảo xá na,                              không thể phân chia được nên thầy bạch với Tăng rằng:                              "Y phấn tảo xá na này không thể chia được, nên cho                              Trưỡng lão Ma Ha Ca Diếp được không?".                               Các Tỷ kheo đều                              đồng tình bảo: "Ðược". Thế nhưng, Ðà Phiêu sợ về sau                              có lời tranh cãi, bèn xướng giữa tăng rằng: "Y phấn                              tảo xá na này cho Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp", như vậy                              ba lần .                              Xướng vừa xong,                              nhóm sáu Tỷ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy nói: "Ai nói                              cho? Nhóm sáu Tỷ kheo đã chịu cho chưa? Ông xướng                              như vậy là không có tâm bình đẳng. Ông vì thân tình                              riêng mà đem vật của chúng Tăng ra cho họ".                              Các Tỷ kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền                              hỏi: "Các ông có thật như vậy chăng?".                               Họ đáp:"Có thật                              như vậy bạch Thế Tôn".                               Phật liền khiển                              trách: "Ðó là việc ác. Bậc phạm hạnh như vậy, nếu                              cần đến da thịt máu tủy của các ông, cũng nên đem                              cho, huống gì chiếc y phấn tảo ấy không thể chia                              được, nay đã tuyên bố cho giữa Tăng mà ngăn cản. Khi                              các ông im lặng bằng lòng cho thì giống như tướng                              mạo của bậc quí nhân. Giờ lại ngăn cản, thì giống                              như bộ dạng của kẻ bần tiện. Ðó là việc phi pháp,                              phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để                              nuôi lớn thiện pháp".                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                               --"Nếu Tỷ kheo,                              khi Tăng đem chia phẩm vật, đã hòa hợp bằng lòng cho                              người khác nhưng sau đó ngăn cản, thì phạm Ba - Dạ -                              Ðề".                              Giải thích:                              Trước đã                              bằng lòng:                              Trước đó trong Tăng chia phẩm vật, mình cùng hòa hợp                              bằng lòng cho.                              Sau đó ngăn                              cản:                              Nói như sau: "Trưởng lão tùy theo chỗ thân tình mà                              đem vật của Tăng cho riêng", thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu khi Tăng đem                              chia các vật cần phải chia, như: Y - Tăng - Già - Lê,                              Uất - Ða - La - Tăng, An - Ðà - Hội, hoặc tọa cụ, áo                              che ghẻ, áo tắêm mưa, dây thắt lưng, tô, chén nhỏ,                              thau đồng, quạt, dù che, bình đựng dầu, túi da, dao                              con, giày da, bình đựng nước .v.v. Tất cả các vật                              đáng chia như vậy khi chia cho mình thì nên lấy .                              Nếu không muốn lấy, nên bảo họ đi qua . Nếu họ hỏi:                              "Vì sao thầy không lấy?", thì nên đáp: "Cái này tôi                              không cần, tôi muốn lấy vật khác ", rồi sau đó, khi                              cần mình lấy, thì không có tội. Nếu người chia vật                              tuyên bố: "Các vị tùy ý mà lấy", thì Tỷ kheo lúc ấy                              tùy theo những gì mình cần tự ý lấy, [338c] không có                              tội.                              Ngăn cản:                              Có ba trường hợp: hoặc cho rồi mà ngăn cản: hoặc lúc                              đang cho ngăn cản ; hoặc khi chưa cho ngăn cản.                              Khi cho rồi mà                              ngăn cản thì phạm Ba dạ đề. Lúc đang cho mà ngăn cản,                              thì phạm tội Việt tì ni. Lúc chưa cho mà ngăn cản                              thì phạm tội việt tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên                              nói (như trên).                                                                                                                                                  10. GIỚI: HUỶ BÁNG GIỚI PHÁP.                              Khi Phật an trú                              tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Tăng                              chúng cứ nửa tháng tụng Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa (giới), khi                              tụng đến bốn việc (Ba la di) thì nhóm sáu Tỷ kheo im                              lặng, đến mười ba việc (Tăng Tàn), thì họ nổi giận ;                              khi tụng đến ba mươi việc (Ni-Tát -Kì), thì họ làm                              ồn; khi tụng đến chín mươi hai việc (Ba-dạ-đề), thì                              họ bèn đứng đậy, nói như sau: "Này các Trưởng lão,                              ai giữ được những giới ấy mà tụng làm chi? Họa có                              chư Thiên mới giữ được những giới ấy chăng? Chỉ làm                              cho các Tỷ kheo sinh nghi ngờ hối hận mà thôi". Lúc                              ấy người tụng Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa đâm ra hổ thẹn .                              Các Tỷ kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn . Phật liền bảo                              gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến . Khi họ đến rồi, Phật liền                              hỏi: "Các ngươi có thật như vậy không".                              Họ đáp:"Có thật                              như vậy bạch Thế Tôn".                              Phật liền khiển                              trách: "Ðó là việc xấu. Như Lai vì muốn được lợi ích                              cho các đệ tử nên quy định cứ nửa tháng tụng                              Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa. Vì sao các ông coi thường, trách                              cứ, ngăn cản việc tụng giới? Ðó là hành vi phi pháp,                              phi luật, trái lời Phật dạy, không thể dùng việc ấy                              để nuôi lớn thiện pháp được". Thế rồi Phật truyền                              lệnh cho các Tỷ kheo sống tại Thành Xá Vệ phải tập                              họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các                              Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu vào                              dịp nửa tháng tụng Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa mà Tỷ kheo nào                              tỏ ra khinh thường chê trách giới nói như sau: "Trưởng                              lão, cứ nửa tháng tụng các giới tạp nhạp nhỏ nhặt                              làm gì, khiến cho các tỷ kheo sinh nghi ngờ hối hận",                              thì phạm Ba-dạ-đề".                              Giải thích                              Nửa tháng:                              Hoặc mười bốn ngày, hoặc mười lăm ngày .                                                           Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa :                              Mười giới tánh vậy .                              Tụng:                              Tăng hòa hợp cứ nửa tháng, nửa tháng tụng .                              Giới nhỏ                              nhặt tạp nhạp:                              Chỉ cho các Thiên giới khác, ngoại trừ bốn việc (Ba-la-di),                              mười ba việc (Tăng Tàn) .                              Khiến các                              Tỷ kheo sinh nghi ngờ hối hận:                              (Ai nói như thế) thì phạm Ba-dạ-đề.                              Khinh                              thường, chê trách:                              có ba trường hợp: hoặc chê trách lúc chưa tụng ;                              hoặc chê trách lúc đang tụng ; hoặc chê trách lúc                              tụng xong.                               Chê trách                              lúc chưa tụng:                              Trước khi tụng nói như sau: "Trưởng lão chớ có tụng                              các giới nhỏ nhặt ấy làm gì. Tôi muốn tụng xong cho                              thật nhanh". Ðó là chê trách khi chưa tụng .                              Chê trách                              lúc đang tụng:                              Lúc thuyết giới nói như sau: "Trưởng lão thuyết các                              giới nhỏ nhặt ấy làm gì, khiến cho các Tỷ kheo nghi                              ngờ, hối hận". Ðó gọi là lúc đang tụng mà chê trách                              .                              Chê trách                              lúc tụng xong:                              Lúc tụng xong liền nói như sau: "Vừa rồi thầy tụng                              chi các giới nhỏ nhặt ấy. Thầy tụng đầy đủ các giới                              làm chi khiến tôi ngồi lâu mỏi mệt muốn chết!".[339a]                              Ðó gọi là chê trách khi tụng xong .                              Chê trách lúc                              chưa tụng thì phạm tội Việt tì ni. Chê trách lúc                              đang tụng thì phạm tội Ba-dạ-đề. Chê trách lúc tụng                              xong thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế                              nên nói:                              "Vọng ngữ và                              chủng loại                                                                                                                       11. GIỚI: CHẶT PHÁ CÂY SỐNG.                              Khi Phật trú tại                              tịnh xá Khoáng Dã, nói rộng như trên. Bấy giờ, thầy                              Tỷ kheo quản sự tự tay chặt cây, bẻ cành lá hoặc hái                              hoa quả, nên bị người đời chê trách như sau: "Các                              người xem kìa! Sa môn Cù Ðàm dùng vô lượng phương                              tiện khiển trách sát sinh, khen ngợi không sát sinh,                              thế mà giờ đây tự tay chặt cây, hái hoa, giết hại                              mạng sống thực vật, mất hết phép tắc Sa môn, có đạo                              nào như thế?".                              Các Tỷ kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo                              gọi Tỷ kheo quản sự đến. Khi thầy đến rồi Phật hỏi:                              "Này Tỷ kheo, ông có làm việc đó thật chăng?".                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy bạch Thế Tôn".                              Phật liền khiển                              trách: "Ðó là việc xấu . Trong đó tuy không có mạng                              sống, nhưng không nên làm cho người ta sinh ác cảm.                              Các ông cũng có thể tạo ra được một sự nghiệp nhỏ,                              hãy bỏ bớt các việc lặt vặt. Từ nay ta không cho Tỷ                              kheo tự tay chặt đốn cây cối, phá hoại thôn của quỉ".                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống                              tại Khoáng Dã phải tập họp lại tất cả. Vì mười lợi                              ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              --"Nếu Tỷ kheo                              phá hoại mầm sống của cây, phá thôn của quỉ, thì                              phạm Ba-dạ-đề".                              Giải thích:                              Mầm sống                              của cây:                              Gồm có năm loại: 1/ củ,rễ; 2/ thân cây; 3/ đốt cây;                              4/ lõi cây, 5/ chồi cây. Ðó gọi là năm mầm sống của                              cây .                              Thôn của                              quỉ:                              Cây lớn, cây nhỏ, cỏ .                              Phá hoại:                              Ðốn chặt hủy hoại, nếu đốn chặt hủy hoại thì phạm                              Ba-dạ-đề.                              Ba-dạ-đề:                              Như trên đã nói .                              1/ Củ,rễ                              cây:                              Củ gừng, củ sen, củ khoai nước, củ cải, củ hành .                              Các loại củ cây như vậy phải dùng lửa làm cho sạch (nấu                              chín), hoặc dùng dao gọt sạch . Ðó gọi là củ cây .                              2/ Thân cây:                              Như các loại: Ni-Câu-Luật, Bí-sát-la, Ưu-đàm-bát-la,                              dương liễu . Các thân cây như vậy nên dùng lửa làm                              cho sạch, hoặc dùng dao gọt cho sạch . Ðó gọi là các                              loại thân cây .                              3/ Ðốt cây:                              Như trúc, cỏ lau, nứa. Các loại đốt cây như vậy nên                              dùng lửa làm cho sạch, hoặc dùng dao gọt cho sạch,                              hoặc vạc bỏ các mắt cây. Ðó gọi là đốt cây .                              4/ Lõi cây:                              Như củ cải, rau đắng, cây chàm . Các thứ do lõi sinh                              ra nên dùng lửa làm cho sạch, hoặc dùng tay chà cho                              sạch. Ðó gọi là lõi cây.                              5/ Chồi cây:                              Gồm có mười bảy loại hạt giống, như trong giới thứ                              hai đã nói. Các loại chồi cây như vậy nên dùng lửa                              làm cho sạch, hoặc lột vỏ cho sạch. Ðó gọi là chồi                              cây .                              Các giống thực                              vật gồm có: 1) Khỏa hạch chủng ; 2) Phu khỏa chủng ;                              3) [339b] Xác khỏa chủng ; 4) Cối khỏa chủng ; 5)                              Giác khỏa chủng ; 6) Anh vũ trác ; 7) Hoàn xuất ; 8)                              Hỏa thiêu ; 9) Thời chủng ; 10) Phi thời chủng ; 11)                              Thủy chủng ; 12) Lục chủng ; 13) Tiên tác cánh sanh                              chủng ;                              1) Khỏa                              hạch chủng:                              Như-la-lợi-lặc, tỷ-ê-lặc, a-ma-lặc, khước-thù-la,                              toan tảo. Các loại trái như vậy nên dùng móng tay                              cạy hạt bỏ, rồi ăn. Nếu muốn ăn cả hạt thì nên nấu                              chín. Ðó gọi là khỏa hạch chủng.                              2) Phu khoa                              chủng:                              Như Bí-bát-la, phá cầu, Ưu-đàm-bát-la, lợi nại. Các                              loại có vỏ bọc như thế nên dùng lửa làm cho sạch.                              Khi chín, nó tự rơi từ trên cây xuống đất, nếu bị va                              vào cây đá, nó sẽ tróc vỏ như dấu chân muỗi thì được                              xem là sạch. Không được ăn luôn cả hột. Nếu muốn ăn                              cả hột thì phải nấu chín. Ðó gọi là phu khỏa chủng (loại                              hạt có vỏ bọc) .                              3) Xác khỏa                              chủng:                              Như trái dừa, trái hồ đào, trái lựu, các loại trái                              có vỏ cứng như thế nên dùng lửa làm cho sạch, hoặc                              làm vở ra . Ðó gọi là sác khỏa chủng .                              4) Cối khỏa                              chủng: Như                              rau thơm, rau tía tô, đậu, các loại rau như vậy nếu                              chưa ra trái thì dùng tay vò làm cho sạch, nếu đã có                              trái thì dùng lửa làm cho sạch . Ðó gọi là cối khỏa                              chủng .                              5) Giác                              khỏa chủng:                              Như các loại đậu lớn nhỏ, hay đậu ma sa, các loại                              đậu như thế, nếu chưa có hạt, thì dùng tay làm cho                              sạch, nếu đã có hạt, thì dùng lửa làm cho sạch . Ðó                              gọi là giác khỏa chủng .                              6) Anh vũ                              trác:                              Các trái cây bị chim anh vũ mổ vở rơi xuống đất, có                              vết như dấu chân muỗi, thì gọi là sạch (tịnh), bỏ                              hạt được phép ăn . Nếu muốn ăn cả hạt thì phải dùng                              lửa làm cho sạch . Ðó gọi là anh vũ tinh.                              7) Hoàn                              xuất:                              Các loại hạt được bọ ngựa, khỉ ăn vào rồi ỉa ra                              thành phân thì được xem là tịnh (loại hạt hợp lệ).                              Ðó gọi là hoàn xuất .                              8) Hỏa                              thiêu:                              Nếu trái cây bị lửa thiên nhiên đốt cháy, rơi xuống                              đất được xem là tịnh . Ðó gọi là hỏa thiêu tịnh.                              9) Thời                              chủng:                              Vào mùa lúa thường thì cấy lúa thường, mùa lúa mạch                              thì cấy lúa mạch. Những loại hạt lúa này nên dùng                              lửa làm cho sạch. Hoặc bóc vỏ làm cho sạch. Như tại                              nước Câu-lân-đề, khi nông dân thu hoạch lúa đổ thành                              đống, họ sợ loài phi nhân lấy trộm nên dùng tro rải                              lên trên để làm dấu, như thế gọi là tịnh. Như trường                              hợp thầy tri sự có lẫm lúa chưa tác tịnh, sợ Tỷ kheo                              trẻ tuổi không biết thể thức, nên sai tịnh nhân dùng                              lửa tác tịnh, lửa cháy, cháy lan đốt hết lẫm thóc.                              Lúc ấy Tỷ kheo được nói: "Thóc đã đem đi xay hết rồi",                              thì không phạm tội. Ðó gọi là thời chủng .                              10) Phi                              thời chủng:                              Như vào mùa nếp mà gặt lúa mạch, vào mùa lúa mạch mà                              gặt nếp, thì nên dùng lửa tác tịnh. Ðó gọi là phi                              thời chủng .                              11) Thủy                              chủng:                              Như hoa Ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa hương đình,                              củ của các loại hoa ấy nên dùng lửa tác tịnh, hoặc                              dùng dao gọt. Ðó gọi là thủy chủng (thực vật sống                              dưới nước).                              12) Lục                              chủng (*):                              Gồm có mười bảy loại lúa, cần phải bóc vỏ tác                              tịnh,[339c] hoặc dùng lửa tác tịnh. Ðó gọi là Lục                              Chủng (thực vật sống ở đồng bằng).                              13) Tiên                              tác hậu sinh (*):                              Có loại lúa tẻ hoặc là rễ củ cải, nên dùng lửa tác                              tịnh hoặc dùng dao gọt. Ðó gọi là tiên tác . [*sắp                              theo thứ tự ở trên].                              Tóm lại, có các                              trường hợp: hoặc tự mình cắt đứt; hoặc sai người cắt                              đức, hoặc tự mình phá; hoặc sai người phá. Hoặc tự                              mình đập nát; hoặc sai người đập nát; hoặc tự mình                              đốt hoặc sai người đốt, hoặc tự mình lột vỏ, hoặc                              sai người lột vỏ.                              Tự cắt:                              Hoặc tự mình dùng phương tiện cắt năm loại thực vật                              cả ngày không ngừng, thì phạm một tội Ba-dạ-đề. Nếu                              giữa chừng ngừng rồi cắt tiếp, thì cứ một lần ngừng                              phạm một tội Ba-dạ-đề.                              Sai người                              cắt:                              Một lần dùng phương tiện sai người cắt một ngày, thì                              phạm một tội Ba-dạ-đề. Nếu giữa chừng nói: "Cắt                              nhanh lên", thì cứ một lần nói phạm một tội                              Ba-dạ-đề. Tất cả bốn trường hợp kia như phá, đập                              nát, đốt, lột vỏ, hoặc tự mình làm, hoặc sai người                              làm cũng phạm tội như vậy .                              Nếu vì Tăng làm                              tri sự, nhất thiết không được bảo tịnh nhân như:                              "Cắt cây này, phá cây này, đập nát cây này, lột vỏ                              cây này". Nếu nói như thế thì phạm tội. Do đó chỉ                              nên nói: "Hãy biết cây ấy, hãy làm sạch cây ấy", nói                              như thế không có tội.                              Nếu đem năm loại                              thực vật ném vào trong hồ nước, hoặc dưới giếng,                              hoặc trong cầu tiêu, trong đống rác, thì phạm tội                              Việt-tì-ni. Nếu vì thế mà thực vật ấy hư chết, thì                              phạm tội Ba-dạ-đề.                              Nếu Tỷ kheo nào                              muốn cho cỏ không sinh trưởng nên đi qua lại trên                              đó, thì lúc đi phạm tội Việt-tì-ni. Nếu làm tổn                              thương cỏ cây chừng độ vết chân muỗi, thì phạm                              Ba-dạ-đề. Nếu đứng, ngồi, nằêm như trên, cũng đều                              phạm tội như vậy .                              Nếu dùng bút vẽ                              lên cây làm tổn thương bằng vết chân con muỗi, thì                              phạm Ba-dạ-đề.                              Nếu trên tảng đá                              sinh rêu, rồi Tỷ kheo muốn giặt y trên đó, thì không                              được nhổ bỏ, mà chỉ cho tịnh nhân biết (hàm ý nhờ họ                              dọn sạch), rồi sau đó mới giặt y. Nếu rêu đó bị ánh                              nắng làm cho khô, thì được tự tay gỡ bỏ không có                              tội.                              Nếu sau cơn mưa,                              cây cối ngã trên đất, thì Tỷ kheo không được dùng                              tay đỡ lên ; nếu đỡ lên thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu                              làm tổn thương cây, dù chỉ bằng vết chân muỗi, thì                              phạm Ba-dạ-đề. Nếu tịnh nhân đến đỡ trước rồi Tỷ                              kheo đỡ giúp họ, thì không có tội.                              Nếu các y                              Tăng-già-lê, Uất-đa-la-Tăng, An-đà-hội, hay tọa cụ,                              mền gối, giày dép của Tỷ kheo sinh nấm mốc thì nên                              chỉ cho tịnh nhân biết, để họ đem phơi nắêng cho                              khô, thì Tỷ kheo được dùng tay phủi đi.                              Nếu trên bánh                              sinh mốc, thì nên chỉ cho tịnh nhân biết (hàm ý nhờ                              họ làm sạch mốc), rồi sau đó mới được ăn .                              Nếu khi dọn cơm                              có các thứ như đậu, mè, dưa, mía .v.v. thì thượng                              tọa nên hỏi: "Ðã tác tịnh chưa?". Nếu họ đáp: "chưa                              tác tịnh ", thì bảo họ tác tịnh. Nếu họ nói: "Ðã tác                              tịnh rồi"thì được phép ăn.                              Nếu trong một đĩa                              có nhiều trái cây, mà tác tịnh một trái, thì tất cả                              các trái khác cũng được xem như đã tác tịnh. Nếu                              trái cây đựng từng đĩa khác nhau, thì phải tác tịnh                              từng đĩa một.                              Nếu mía đang còn                              lá thì phải tác tịnh riêng từng cây. Nếu mía không                              có lá, được cột thành bó, thì được tác tịnh như trái                              cây.                               Nếu Tỷ kheo an cư                              mùa hạ tại A-lan-nhã, nơi ấy có cỏ sinh trưởng phủ                              kín đường đi, vì sợ mất đường đi [340a] nên tóm hai                              bụi cỏ cột lại với nhau, thì phạm tội Việt-tì-ni.                              Nếu dùng vật khác cột lại làm dấu mà đi, đến khi trở                              về mở ra, thì không có tội.                              Nếu Tỷ kheo ở                              trong núi, khi mưa, đường sá bùn đất trơn trợt, lúc                              đi trợt chân suýt bị té, bèn nắm cỏ nhưng cỏ đứt,                              lại nắm cái khác thì không có tội.                               Nếu bị nước cuốn                              trôi, nên Tỷ kheo chụp lấy cỏ làm cho cỏ đứt, thì                              cũng không có tội.                              Nếu khi trét phên                              đất mà khát nước, muốn uống nước, nhưng vì tay có                              bùn, thì được dùng lá cây múc nước uống. Nếu không                              có tịnh nhân lấy lá cây, thì được leo lên cây dùng                              lá cây tươi đựng nước uống; ngưng không được bứt đứt                              lá cây. Nếu cây cao sử dụng không được, thì được                              quằn cây xuống, lấy lá khô múc nước uống. Nếu Tỷ                              kheo bứt đứt lá cây xanh non thì phạm Ba dạ đề.                               Nếu làm đứt lá                              cây có nhiều chân cứng, chắc thì phạm Ba- dạ Ðề. Nếu                              bứt đứt lá cây đã úa vàng, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu gió thổi làm rụng ba loại lá cây (tươi, úa và                              khô) rồi lấy dùng, thì không có tội.                              Nếu Tỷ kheo hái                              trái cây tươi, thì phạm Ba dạ đề. Nếu hái trái cây                              sắp chín thì phạm tội Việt tì ni. Nếu hái trái chín                              thì không có tội.                              Nếu Tỷ kheo đi                              đường, ban đêm nằêm ngủ trên cỏ tươi mà tưởng là cỏ                              khô, thì phạm tội Việt tì ni. Hoặc cỏ khô mà tưởng                              cỏ tươi, cũng phạm Việt tì ni. Cỏ tươi mà tưởng cỏ                              tươi thì phạm tội Ba dạ đề. Cỏ khô mà tưởng cỏ khô                              thì không có tội.                              Nếu trong thành                              phố hoặc xóm làng có nhà từ đường, nơi ấy có cây cối                              cành lá, dù là khô cũng không được bẻ lấy. Nếu bẻ                              thì phạm tội Việt tì ni. Về bốn trường hợp đối với                              cây cối cũng như trong vấn đề cỏ tươi đã nói ở trên.                              Nếu Tỷ kheo khi                              đi đại tiểu cần dùng nước phải đi đến hồ lấy nước,                              nhưng trên mặt hồ đầy cả lục bình, thì không được                              dùng tay quạt cho lục bình trôi đi để lấy nước, mà                              phải tìm lối đi của bò, ngựa hoặc rắn, hoặc ếch. Nếu                              không có lối đi, thì cầm cục đất ném trên không rồi                              nói như sau: "Ði lên đến cõi phạm thiên", chờ khi                              cục đất rơi xuống rồi quạt bèo, lấy nước dùng thì                              không có tội. Nhưng nếu làm cho bèo cỏ trong nước bị                              lật úp xuống, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu vớt bèo                              cỏ ném lên bờ thì phạm Ba dạ đề.                              Khi vào hồ nước                              tắm, nếu có cỏ tươi vướng vào mình, nên dùng nước                              xối cho trôi xuống nước. Nếu nhổ nấm buổi mai, thì                              phạm tội Việt tì ni. Khi nhặt phân bò khô mà dính                              luôn cả cỏ tươi thì phạm Ba dạ đề. Thế nên nói (như                              trên).                                                                                                                                                  12. GIỚI: NÓI ÐỂ NHIỄU LOẠN NGƯỜI KHÁC.                               Khi Phật an trú                              tại Câu diệm di, nói rộng như trên. Khi ấy, Tăng tập                              họp định làm yết ma, thì Tôn giả Xiển Ðà không đến.                              Tăng liền sai sứ đi gọi Xiển Ðà nói: "Tăng tập họp                              định làm yết ma, Trưởng lão hãy đến". Xiển Ðà liền                              suy nghĩ: "Nay Tăng cho gọi ta, chính là muốn trị                              tội ta, chứ không có việc gì khác. Nay ta [340b]                              phải nhiễu loạn ai đây để cho tất cả Tăng chúng đều                              rối loạn không thể làm yết ma được? Có lẽ nên nhiễu                              loạn tôn giả Mục Kiền Liên thì mới thoát được việc                              này. Nhưng Mục Kiền Liên có đại thần lực ắt sẽ biết                              việc ta làm, hoặc ông có thể nắêm ta ném đến thế                              giới khác, nên việc này cũng không thể được". Rồi                              lại suy nghĩ: "Nếu nhiễu loạn Ðại Ca Diếp thì có thể                              thoát được việc này. Nhưng Ðại Ca Diếp có uy đức                              lớn, ông có thể chiết phục, làm nhục ta ở giữa chúng                              Tăng, nên việc này cũng không thể được". Rồi lại suy                              nghĩ: "Tôn giả Xá Lợi Phất tâm nhu nhuyến chất trực,                              dễ nói chuyện, nếu nhiễu loạn ông ta thì có thể                              khiến cho Tăng đều rối loạn không thể làm yết ma đối                              với ta".                               Nghĩ thế rồi,                              Xiển Ðà bèn đi đến giữa Tăng, nói như sau: "Thưa tôn                              giả Xá Lợi Phất, tôi muốn hỏi nghĩa kinh".                              Xá Lợi Phất nói:                              "Nay vì việc khác mà tập họp Tăng, lúc này không                              phải là lúc hỏi nghĩa kinh".                              Xiển Ðà lại nói                              với tôn giả Xá Lợi Phất: "Ðối với chánh pháp của                              Phật không có lúc nào là lúc phi thời. Nếu được                              thiện quả ngay trong hiện tại, trừ diệt phiền não,                              các hiền thánh vui vẻ, thì đều không có gì phải chọn                              lựa thời gian".                              Tôn giả Xá Lợi                              Phất nói: "Tôi xin nghe thầy hỏi".                              Xiển Ðà liền hỏi:                              "Ðức Thế Tôn thuyết tứ niệm xứ, vậy thế nào là tứ                              niệm xứ?".                              Khi ấy Tôn giả Xá                              Lợi Phất bèn giảng về tứ niệm xứ cho Xiển Ðà. Xiển                              Ðà lại nói: "Tôi không hỏi tứ niệm xứ, tôi hỏi tứ                              chánh cần. Trưởng lão chỉ nên nói về Tứ Chánh cần                              cho tôi".                              XáLợi Phất nói:                              "Thầy muốn nghe tứ Chánh Cần thì hãy lắng nghe", rồi                              nói về tứ Chánh Cần.                              Xiển Ðà lại nói:                              "Tôi hỏi về Tứ Như Ý Túc". Như vậy lần lượt hỏi đến                              ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, Bát chánh đạo phần                              cũng như tứ niệm xứ, hỏi đi hỏi lại ba lần.                              Lúc ấy các Tỷ                              kheo ngồi lâu mỏi mệt, liền lần lượt bỏ ra, khiến                              Tăng không hòa hợp, chung cục yết ma không thành. Do                              vậy, các Tỷ kheo đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn.                              Phật liền bảo gọi Xiển Ðà đến. Khi thầy đến rồi,                              Phật liền hỏi: "Xiển Ðà, ông có thật như vậy                              không?".                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy".                              Phật nói: "Xiển                              Ðà, đó là việc xấu. Ta đã không vì ông mà dùng vô                              lượng phương tiện chê trách những lời nói nhiễu                              loạn, khen ngợi những lời nói tùy thuận hay sao? Nay                              vì sao ông gây ra sự nhiễu loạn? Ðó là việc phi                              pháp, phi luật, trái lời Phật dạy, không thể dùng                              việc đó để nuôi lớn thiện pháp". Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỷ kheo sống tại Câu diệm di                              phải tập họp lại tất cả, vì mười việc lợi ích mà chế                              giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              --"Nếu Tỷ kheo                              nói những lời khác làm não loạn người khác, thì phạm                              Ba-dạ-đề".                              Giải thích                               Nói những                              lời khác làm não loạn người khác:                              Có tám trường hợp . Ðó là: 1. Lúc làm yết ma ; 2.                              Lúc bàn luận như pháp ; 3. Lúc bàn luận về A-Tì đàm                              ; [340c] 4. Lúc bàn luận về tỳ ni ; 5. Không bàn về                              việc khác ; 6. Không bàn với người khác ;7. Ngưng                              luận bàn ; 8. Nói những lời khác làm não loạn người                              khác .                              1) Làm yết                              ma:Tỷ                              kheo tập trung hòa hợp làm yết ma Chiết phục, cho                              đến yết ma biệt trụ . Ðó gọi là làm yết ma .                              2) Bàn luận                              như pháp:                              nói về phi thường (vô thường), phi đoạn (không đoạn                              diệt) . Ðó gọi là bàn luận như pháp.                              3) A tỳ                              đàm:                              Chỉ cho chín bộ kinh . Ðó gọi là A tỳ Ðàm .                              4) Tì ni:                              Nói đủ, hoặc nói tóm lược Ba la đề mộc xoa (giới) .                              Ðó gọi là tì ni.                              5) Không                              bàn về việc khác: Không                              được rời bỏ vấn đề đang bàn luận mà bàn về vấn đề                              khác . Ðó gọi là không bàn về việc khác .                              6) Không                              luận bàn với người khác:                              Không được rời bỏ người vừa hỏi để hỏi người khác .                              Ðó gọi là không bàn luận với người khác .                              7) Ngưng                              bàn luận:                              Lúc đương thuyết pháp liền bảo: "Dừng lại, sau sẽ                              bàn tiếp". Ðó gọii là ngưng bàn luận                               8) Nói                              những lời khác làm não loạn người khác:                              Như tôn giả Xiển Ðà đã nói những lời khác (ngoài mục                              đích yết ma) để làm não loạn người khác.                              Ðó gọi là tám                              trường hợp .                               Trong đây, dùng                              những lời khác làm não loạn người khác, phạm Ba dạ                              đề. Nếu ngoài tám việc trên đây thì không phạm Ba dạ                              đề.                              Nếu có người                              hỏi:                               "Tỷ kheo, Thầy từ                              đâu đến?"  -Thầy sẽ đi về                              đâu?  -Thầy ngủ ở đâu?                              -Hôm nay thầy ăn                              tại đâu?  Nếu hỏi một đằng                              mà đáp một ngã như vậy, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu có bọn cướp                              xâm nhập vào chùa, hỏi Tỷ kheo: "Chỉ cho tôi những                              đồ vật của chư Tăng".                              Khi ấy, Tỷ kheo                              không được chỉ cho họ các thứ châu báu, cũng không                              được nói dối, mà nên chỉ cho họ phòng ốc, giường ghế                              các thứ . Nếu bọn cướp nói: "Chỉ cho tôi những vật                              dụng của tháp", thì cũng không được chỉ cho họ những                              bảo vật của tháp, cũng không được nói dối, mà nên                              chỉ những khí cụ cúng dường ở cạnh tháp .                              Nếu bọn cướp nói:                              "Chỉ cho tôi nhà bếp ", thì Tỷ kheo cũng không được                              chỉ cho họ chỗ cất tiền, mà nên chỉ cho họ chỗ để                              các thứ nồi niêu xoong chảo.                              Nếu súc vật của                              nhà đồ tể chạy thoát, họ đến hỏi Tỷ kheo có thấy                              không, thì Tỷ kheo không được nói dối, cũng không                              được chỉ chỗ, mà nên nói: "Xem móng tay đây, xem                              móng tay đây (tiếng phạn có nghĩa là không thấy)."                              Nếu Tỷ kheo ở tại                              A luyện nhã, có tù nhân đào thoát, rồi quân lính đến                              hỏi thì Tỷ kheo cũng đáp như trường hợp súc sinh                              trên .                              Nếu Tỷ kheo ở                              giữa Tăng mà hỏi một đàng đáp một ngả, thì phạm Ba                              dạ đề. Nếu ở giữa nhiều người, trước Hòa Thượng, A                              xà Lê, trước các trưởng lão Tỷ kheo mà hỏi một đàng                              đáp một ngả, thì phạm tội Việt tì ni. Thế nên nói                              (như trên).                                                                                                                                                  13. GIỚI: CHÊ TRÁCH CHỨC SỰ CỦA TĂNG.                              Khi Phật an trú                              tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ người                              đời có lòng tín kính rất sâu xa, nên họ mang nhiều                              thức ẩm thực đến cúng dường Thế Tôn, rồi cúng chúng                              Tăng, tôn giả Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên. Phần cúng                              dường Phật thì có thị giả thu dọn còn phần cúng                              dường chúng Tăng và Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên                              (341a) thì hoặc dùng hết, hoặc dùng không hết mà                              không có ai thu dọn để đến hôi thối . Bấy giờ tôn                              giả Ðà Phiêu còn ở địa vị đang học, suy nghĩ: "Nếu                              ta đạt được vô học, thì ta sẽ coi sóc công việc của                              Tăng để chư Tăng được an lạc". Suy nghĩ thế rồi, đầu                              đêm, cuối đêm, thầy tinh tấn tu tập nên đắc quả A La                              Hán, đắc tam minh, lục thông. Ðoạn thầy suy nghĩ:                              "Vì sao ta phải làm những việc hữu vi? Ta nên tu tập                              vui sống với thiểu dục, vô sự".                              Phật nói với Ðà                              Phiêu: "Khi còn ở địa vị phải học, ông đã nói như                              sau: "Nếu ta đạt được địa vị vô học, ta sẽ coi sóc                              công việc chư Tăng". Ông có nói như thế không?".                              Thầy đáp: "Có nói                              như vậy, bạch Thế Tôn".                              - Này Ðà Phiêu                              như nguyện vọng của ông trước kia, giờ đây nên làm                              như vậy .                              - Con sẽ làm như                              Thế Tôn dạy .                              Thế rồi chúng                              Tăng cử thầy làm chín việc như trước đây đã nói .                              Lúc ấy, thầy tùy nghi sai phái chúng Tăng đi thọ                              trai . Nếu là trưởng lão thượng tọa thì cho thức ăn                              thượng hạng . Nếu trung tọa thì cho thức ăn trung                              bình . Nếu hạ tọa thì cho thức ăn thô sơ.                              Nhóm sáu Tỷ kheo                              vì đẫ có mối hiềm khích oán hận, nên đem việc ấy đến                              bạch với Thế Tôn. Phật bèn nói với Ðà Phiêu: "Phàm                              là người xuất gia, nguyên tắc phải trao thức ăn bình                              đẳng, ông nên biết: được ít thì không đủ, được nhiều                              cũng không nên chán, được tốt, được xấu, đều không                              chu đáo".                              Do thế, trưởng                              lão Ðà Phiêu bèn phân ra ba loại thực phẩm tinh thô,                              cứ tuần tự giáp vòng rồi trở lại từ đầu. Khi ấy, Nan                              Ðà, Ưu-Ba-Nan-Ðà sáng sớm thức dậy, liền khoác y cầm                              bát, đến nhà cúng dường ẩm thực, nói với ưu bà di:                              "Trao thức ăn cho tôi".                              Ưu bà di nói:                              "Thưa tôn giả, chưa đến giờ ăn. Tôi chưa kịp rửa mặt                              và rửa chén bát, chưa làm được thức ăn cho người                              xuất gia".                              Lúc ấy các thanh                              thiếu nữ trẻ ở nhà đàn việt mới thức dậy, đi tắm rửa                              để lộ thân thể. Tỷ kheo Nan Ðà do không thu nhiếp                              các căn, nhìn chăm chăm vào các cô gái, nên Ưu bà di                              suy nghĩ: "Tỷ kheo này không phải là người trì luật,                              nếu để lâu ở đây có thể sinh ra nhiều tội lỗi. Ta                              hãy đưa thức ăn của người giúp việc để ông ta đi                              ngay cho rồi".                              Suy nghĩ như thế                              rồi bà liền mang thức ăn của người giúp việc đưa cho                              thầy .                              Tỷ kheo ấy nhận                              được thức ăn rồi, liền trở về tịnh xá. Bấy giờ, có                              trưởng lão Tỷ kheo đến giờ khất thực, liền khoác y                              cầm bát đi đến nhà cúng dường thức ăn. Ðàn việt liền                              cúng dường thức ăn ngon lành đày bát, rồi thầy trở                              về. Khi ấy Nan Ðà, Ưu Ba Nan Ðà trông thấy thế, liền                              nói như sau: "Này trưởng lão Ðà Phiêu, đức Thế Tôn                              dạy phải chia thực phẩm bình đẳng. Thầy hãy xem hai                              loại thức ăn này có giống nhau hay không?".                              Ðà Phiêu nói:                              "Ông đến quá sớm, chưa tới giờ ăn (nên mới thế)".                              Hôm sau, Nan Ðà                              bèn khoác y, cầm bát vào thành, nhưng ở dọc đường                              thầy xem đấu voi, đấu ngựa và nghe người thế tục                              bình phẩm . Lúc ấy Ưu bà di suy nghĩ : "[341b] Hôm                              qua thầy ấy đến không được ăn, hôm nay phải chuẩn bị                              sớm". Thế rồi bà làm thức ăn xong đã lâu mà chờ mãi                              vẫn không thấy tới, nên suy nghĩ: "Tôn giả hôm qua                              đến sớm, bữa nay vì sao không tới? Hay là ở tinh xá                              Kỳ Hoàn có cúng dường chư Tăng, cho nên không đến?".                              Do vậy, bà cùng với chồng con ăn sạch.                              Lúc đến giờ, Nan                              Ðà mới vội vã đến, nói với Ưu bà di: "Ðưa thức ăn                              cho tôi".                               Ưu bà di nói:                              "Con làm thức ăn từ sớm đợi tôn giả mà không thấy                              đến. Con tưởng hôm nay có người cúng dường chư Tăng                              tại Kỳ Hoàn. Thầy được họ mời rồi chứ? Vì thế phần                              cúng dường cho thầy con đã ăn hết".                              Nan Ðà liền nói:                              "Ngươi định bỏ đói ta sao?".                              Bấy giờ, Ưu bà di                              liền đem thức ăn thừa của người giúp việc ra cho                              thầy. Ðược thức ăn rồi thầy bèn trở về tinh xá, nói                              lại như trước .                              Ðà Phiêu nói:                              "(Hôm nay) thầy lại tới quá trễ". Nói xong tôn giả                              Ðà phiêu liền đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn.                              Phật bèn bảo gọi Nan Ðà tới. Khi thầy tới rồi, Phật                              liền hỏi: "Ông có thật như vậy chăng?".                              - Có thật như vậy                              bạch Thế Tôn .                              - Ðó là việc xấu.                              Ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện chê                              trách đa dục, khen ngợi thiểu dục hay sao? Ðó là                              điều phi pháp, phi luật trái lời Phật dạy, không thể                              dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được.                              Thế rồi Phật                              truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá                              vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười điều lợi ích mà                              chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải                              nghe lại:                              --"Nếu Tỷ kheo                              hiềm trách thầy tri sự thì phạm Ba dạ đề".                              Giải thích:                              Hiềm trách:                              Hoặc bái nhân, bái chúc nhân, bái chúc chúc nhân .                              Bái nhân                              (người được giao việc):                              Như tôn giả Ðà phiêu. Ðó gọi là bái nhân .                              Bái chúc                              nhân (người được giao việc bèn nhờ người khác làm                              giúp):                              Như trường hợp Ðà Phiêu Na La Tử nhờ người khác xử                              lý công việc của Tăng. Ðó gọi là bái chúc nhân .                              Bái chúc                              chúc nhân (người được giao việc nhờ người khác làm                              giúp, rồi người ấy lại nhờ người khác nữa):                              Người được giao việc lại đi nhờ người khác nữa xử lý                              việc của Tăng. Ðó gọi là bái chúc chúc nhân .                              Hiềm trách:                              Người hiềm trách phạm Ba dạ đề.                              Khi Tăng phát các                              thứ bánh, theo thứ tự đến mình, thì mình nên nhận                              lấy. Nếu không muốn lấy thì nên bảo họ đi tiếp. Nếu                              tịnh nhân hỏi: "Vì sao thầy không lấy?".                               Rồi mình đáp:                              "Tôi kiêng cữ không dùng thứ này, muốn lấy thứ                              khác"thì không có tội.                              Khi Tăng đi phân                              phát các loại cháo, như cháo sữa, cháo tô lạc, cháo                              mè, cháo cá .v.v., nếu họ múc đầy giá đưa cho Thượng                              tọa thì Thượng tọa không nên nhận liền mà nên nói:                              "Nên đưa cho bình đẳng". Nếu người trị nhật đi đưa                              thịt, vì vị nể Thượng tọa nên đưa nhiều hơn, thì                              Thượng tọa nên hỏi: "Tất cả đều như thế này chăng?".                              Người trị nhật                              liền đáp: "Chỉ đưa cho Thượng tọa nhiều thôi".                              Thượng tọa nên                              nói: "Nên chia bình đẳng". Thế rồi, nếu không cần                              nhiều [341c] thì hãy lấy một ít. Lấy xong rồi bảo                              đưa bình đẳng cho mọi người.                              Khi có những thức                              ăn ngon như vậy nên đưa cho bình đẳng.                              Lúc sa di đi trao                              đồ ăn, nếu trao cho thầy mình một cách thiên vị, thì                              thầy tri sự nên nói: "Hãy đưa bình đẳng".                               Nếu sa di nói:                              "Sao ông không tự làm đi?". Lúc ấy thầy tri sự nên                              đuổi Sa di đi rồi sai người khác làm .                              Nếu người đi đưa                              thức ăn, thấy có vị đại đức trong Tăng bèn đưa nhiều                              hơn, khiến những người khác bị thiếu, thì thầy tri                              sự nên nói với người ấy: "Trong Tăng không có cao                              thấp, ngươi hãy đưa bình đẳng".                               Nói chung, có các                              trường hợp: hoặc có hiềm mà không trách móc; hoặc có                              trách móc mà không hiềm; hoặc vừa hiềm vừa trách móc                              ; hoặc chẳng hiềm chẳng trách móc .                              Có hiềm mà không                              trách móc: Bưng bát thức ăn của mình đem so sánh với                              bát người bên cạnh rồi nói thế này: "Như thế này có                              bình đẳng không?". Ðó gọi là có hiềm mà không trách                              móc . Cả bốn trường hợp kia nói rộng cũng như vậy.                              Có hiềm mà không                              trách móc thì phạm tội Việt tì ni. Có trách móc mà                              không hiềm cũng phạm tội Việt tì ni. Vừa hiềm vừa                              trách móc thì phạm tội Ba dạ đề. Chẳng hiềm cũng                              chẳng trách móc thì không có tội. Thế nên nói (như                              trên) .                                                                                                                                                  14. GIỚI: TRẢI ÐỒ CỦA TĂNG Ở CHỖ TRỐNG.                              Khi Phật trú tại                              nước Bạt kỳ, Ngài đi du hành trong nhân gian, đến                              bên một con sông kia, thấy các ngư ông đang bủa lưới                              bắt cá. Các Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật:                              "Bạch Thế Tôn! Các ngư ông này làm một việc lẽ ra                              không nên làm". Nhân các Tỷ kheo nói nên Thế Tôn                              liền đọc kệ:                              "Ðã được thân khó                              được   Khi ấy, các ngư                              phủ bủa một mảng lưới lớn, ở bên dưới buột đá, ở bên                              trên cột những cái bầu nổi, thuận theo dòng nước kéo                              lên, mỗi đầu hai trăm năm mươi người, kêu la kéo lên                              bờ ầm ĩ. Các Tỷ kheo thấy thế, liền bạch với Phật:                              "Bạch Thế Tôn! Những người này nếu ở trong Phật pháp                              mà tinh tấn như vậy, thì sẽ được lợi ích lớn". Bấy                              giờ nhân sự việc ấy, Thế Tôn liền đọc kệ:                              "Cái gọi là tinh                              tấn   Như Kinh Bổn Sinh                              Ca-Tỳ-La đã nói rõ .                              Lúc ấy, trong các                              con cá bị mắt lưới, có con cá lớn có hàng trăm cái                              đầu, mỗi đầu đều khác nhau. Thế Tôn thấy vậy liền                              gọi tên nó. Nó liền đáp Thế Tôn. Thế Tôn liền hỏi:                              "Mẹ ngươi ở đâu?".                               Nó đáp: "Ðang làm                              thân giòi trong một cầu tiêu nọ".                              Phật liền nói với                              các Tỷ kheo: "Con cá lớn này vào thời đức Phật Ca                              Diếp, làm [342a] một Tỷ kheo thông tam tạng, vì ác                              khẩu mà chịu quả báo đủ kiểu đầu. Còn người mẹ vì                              thọ lợi dưỡng của y cho nên làm giòi trong cầu                              tiêu".                               Khi Phật kể nhân                              duyên ấy, năm trăm ngư phủ liền bỏ việc kéo lưới,                              xin xuất gia tu hành, và đều đắc quả A La Hán, rồi                              cư trú bên dòng sông Bạt Kỳ.                              Thế rồi Phật bảo                              A nan: "Hãy sửa soạn chỗ ngồi cho các Tỷ kheo khách                              ấy". A nan liền bạch Phật: "Xin Phật an ủi các khách                              Tỷ kheo".                               Phật lại nói với                              A nan: "Ông không biết đó thôi, Ta đã nhập vào Tứ                              Thiền an ủi khách Tỷ kheo rồi".                               Trong khi các                              gường gối bày ra tại chỗ đất trống (không ai dọn                              dẹp), thì tới giờ khất thực, các Tỷ kheo khách liền                              dùng thần lực, người thì đến Uất đơn việt phương                              bắc, kẻ thì đến cõi trời ba mươi ba, người khác lại                              xuống cung long vương khất thực. Do thế các gường                              gối bày ra chỗ trống kia bị nắng táp, gió thổi nên                              bụi bặm bám rất dơ bẩn. Phật biết mà vẫn hỏi. Rồi                              các Tỷ kheo đem nhân duyên trên bạch đầy đủ lên Thế                              Tôn. Phật nói: "Ðợi các Tỷ kheo ấy trở lại đã".                               Khi họ về rồi                              Phật liền hỏi: "Các ông có thật như thế chăng?".                               Họ đáp: "Có thật                              như vậy"                              Phật nói: "Từ hôm                              nay nhân việc của các ông, ta chế giới cho các Tỷ                              kheo".                               Thế rồi Phật                              truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống bên sông Bạt                              Kỳ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỷ Kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              --"Nếu Tỷ                              kheo, ở tại trú xứ của Tăng, mà tự mình hoặc sai                              người khác đem giường nằm, giường ngồi, nệm gối ra                              chỗ đấùt trống, rồi lúc đi không dọn cất, cũng không                              sai người dọn cất, thì phạm Ba Dạ Ðề".                              Giải thích:                              Trú xứ của                              Tăng:                              Hoặc trú xứ tại A luyện nhã, hoặc trú xứ tại thôn                              xóm.                              Giường nằm,                              giường ngồi:                              Có mười bốn thứ:                               1. Giường nằm                              chân tròn ; 2. Giường ngồi chân tròn ; 3. Giường nằm                              bằng nệm ; 4. Giường ngồi bằng nệm ; 5. Giường nằm                              bằng dây ; 6. Giường ngồi bằng dây ; 7. Giường nằm                              bằng ô-na-đà ; 8. Giường ngồi bằng ô na đà ; 9.                              Giường nằm bằng đà di ; 10. Giường ngồi bằng đà di                              (ở đây chỉ có mười thứ).                              Nệm:                              Nệm kiếp bối, nệm lông mịn, nệm len, nệm ca thi, nệm                              cỏ .                              Gối:                              Gối kiếp bối, gối lông mịn, gối len, gối ca thi .                              Trải:                              Hoặc tự mình trải, hoặc bảo người khác trải .                              Ði:                              Ði đến nơi khác .                              Không đem cất:                              không tự mình đem cất, không sai người đem cất, thì                              phạm Ba dạ đề.                              Nếu muốn thuyết                              pháp tại chỗ đất trống, rồi người coi giữ giường nệm                              đem bày giường nệm ra, sau đó bỏ đi cách hai mươi                              lăm khuỷu tay mà không dặn lại người khác đem cất,                              thì phạm Ba dạ đề.                               Nếu cả hai người                              cùng biết (có giường ở ngoài trời) thì khi một người                              ra đi phải dặn người thứ hai. Nếu người thứ hai muốn                              đi, phải đợi người thứ nhất trở lại dặn dò xong mới                              được đi. Nếu đem giường gối ra bày rồi có người đến                              ngồi mà người đem ra biết được họ, thì bỏ đi không                              có tội.                              Nếu vào những                              tháng mùa xuân, Tỷ kheo đem giường nệm để ngoài                              trời, rồi Tỷ kheo trẻ tuổi đến ngồi ngủ trên đó, thì                              người đem ra phải dặn Tỷ kheo ấy đem cất.                              [342b] Nếu Tỷ                              kheo ban đêm đi đại tiểu tiện, đụng nhằm giường của                              Tăng mà trên ấy không có Tỷ kheo rồi bỏ đi, thì tùy                              theo chạm mỗi cái phạm mỗi tội Ba dạ đề. Nếu trên                              giường ấy có Tỷ kheo, bèn dặn họ đem cất thì không                              có tội.                              Nếu thầy tri sự                              của Tăng muốn trao Giường nệm cho ai, rồi lấy ra để                              ngoài trời, bỏ đi cách xa hai mươi lăm khuỷu tay,                              thì phạm Ba dạ đề. Nếu người nhận giường nệm của                              Tăng, rồi để phơi ngoài nắng bỏ đi cách xa hai mươi                              lăm khuỷu tay, cũng phạm Ba dạ đề.                               Nếu Tỷ kheo bị                              bệnh, nằm ngủ ở chỗ trống, đệ tử đến đảnh lễ, nếu                              thấy thầy đứng dậy đi, thì đệ tử phải đem giường ấy                              vào trong phòng cất. Nếu hai người cùng ngồi một                              giường, thì khi Thượng tọa muốn đi phải dặn lại Hạ                              tọa. Hạ tọa muốn đi thì phải bạch với Thượng tọa                              rằng: "Con muốn đi, cái giường này nên cất ở chỗ                              nào?". Nếu Thượng tọa nói: "Ông cứ đi đi, giường này                              ta sẽ cất cho", thì khi ấy Hạ tọa đi, không có tội.                              Nếu Tỷ kheo đem                              giường nệm ra để cho Hòa thượng A xà lê nằm, rồi bỏ                              đi thì phạm tội Việt tì ni. Nếu Hòa thượng A xà lê                              biết đệ tử đem ra cho mình nằm, thì khi ra đi nên                              dặn họ cất, nếu không dặn mà đi, thì phạm tội Việt                              tì ni.                              Nếu Tỷ kheo đặt                              hình tượng trên giường của chúng Tăng, rồi các Tỷ                              kheo khác đến lễ bái, tay chạm vào hình tượng mà                              không đem cất thì phạm Ba dạ đề. Nếu Tỷ kheo theo                              thứ tự đến lễ bái, tay chạm vào hình tượng, thì nên                              dặn người sau cùng đem cất.                              Có các trường                              hợp: Hoặc được dặn dò mà không thuộc trách nhiệm,                              hoặc thuộc trách nhiệm mà không dặn dò; hoặc vừa                              phải dặn dò, vừa thuộc trách nhiệm; hoặc chẳng phải                              dặn dò, cũng chẳng thuộc trách nhiệm.                              Ðược dặn dò                              mà không thuộc trách nhiệm:                              Ðó là trường hợp Sa di.                              Thuộc trách                              nhiệm mà không phải được dặn dò:                              Ðó là trường hợp Tỷ kheo thượng tọa.                              Vừa phải                              dặn dò, vừa thuộc trách nhiệm:                              Ðó là trường hợp Tỷ kheo Hạ tọa.                              Chẳng phải                              dặn dò, cũng chẳng thuộc trách nhiệm:                              Ðó là trường hợp người thế tục.                              Nếu Tỷ kheo có                              đức lớn có nhiều đệ tử, rồi họ trải giường nệm, mà                              thầy biết họ trải cho mình, thì khi đi nên dặn họ                              đem cất, nếu không dặn, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu tại trú xứ                              của chúng Tăng có những giường nệm để ngoài trời, mà                              khi Tỷ kheo ra đi, không đem cất thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu thấy giường                              nệm của chúng Tăng để ngoài trời tại chỗ ở của mình,                              mà khi ra đi không đem cất, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu thấy giường                              nệm của mình đễ ngoài trời tại chỗ ở của chúng Tăng                              mà khi ra đi không đem cất, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu thấy giường                              nệm của mình để ngoài trời tại chỗ ở của mình, mà                              khi ra đi không đem cất, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu thấy giường                              nệm của Tăng để ngoài trời tại nhà bạch y, mà khi ra                              đi không đem cất, thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu thấy giường                              nệm của người thế tục đễ ở ngoài trời, thì khi ra đi                              nên nói cho họ biết. Thế nên nói (như trên).                                                                                                                                                  15. GIỚI: TRẢI ÐỒ CỦA TĂNG Ở CHỖ KHUẤT.                              Khi Phật an trú                              tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Bà la                              môn [342c] mời chúng Tăng ở lại cúng dường ẩm thực                              và dâng y phục. Các Tỷ kheo bày biện các tọa cụ                              trong Tăng phòng không dọn cất mà ra đi. Thế Tôn vì                              năm lợi ích nên cứ năm hôm đi thị sát phòng các Tỷ                              kheo một lần. Ngài thấy trên các tọa cụ ấy có phân                              chuột gián và bụi đất bẩn thỉu, tuy biết nhưng Phật                              vẫn hỏi. Các Tỷ kheo liền đem nhân duyên ấy bạch lên                              Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỷ kheo: "Các ông là                              người xuất gia không có ai lo liệu cho các ông những                              việc trước sau, vì sao lúc ra đi không đem cất đồ                              đạc? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Phật                              dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp                              được". Thế rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo sống                              tại Thành Xá Vệ tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích                              mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                               --"Nếu Tỷ kheo                              tự trải giường nệm hay sai người khác trải giường                              nệm ở trong chỗ che khuất mà khi ra đi không đem                              cất, cũng không sai người đem cất, thì phạm Ba dạ                              đề".                              Giải thích:                              Ở trong:                              Tức là chỗ che khuất .                              Giường ghế:                              Gồm mười bốn loại như trên đã nói.                              Gối nệm:                              Cũng như trên đã nói.                              Trải:                              Hoặc tự mình trải, hoặc sai người trải.                              Ði:                              Ði đến nơi khác .                              Không tự                              cất:                              Không tự mình đem cất.                              Không sai                              người cất:                              Không sai người khác đem cất thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỷ kheo muốn                              đi nơi khác, thì trước khi đi phải rảy nước quét                              phòng, dùng khăn lau sàn nhà cho sạch, lại phải đem                              mền gối phơi khô, rồi nói với người giữ mền gối như                              sau: "Này trưởng lão đây là giường mền gối ", nhất                              thiết phải dặn dò lại như vậy. Nếu người giữ giường                              nệm là hàng hạ tọa, thì nên đáp: "Tôi sẽ cất giường                              nệm ấy". Nếu người giữ giường nệm là hàng Thượng                              tọa, thì khi người kia trả lại giường nệm, nên đáp:                              "Ðược rồi". Nếu ra đi mà không bạch thì phạm Ba dạ                              đề. Nếu không bạch mà ra đi, rồi có Tỷ kheo khác vào                              ở, phòng ấy không còn trống, thì phạm tội Việt tì                              ni. Nếu khi đi rồi mà để quên y bát, bèn trở lại                              lấy, nhân đó mới bạch, thì không có tội.                              Nếu Tỷ kheo đang                              đi trên đường trong lúc trời u ám sắp mưa, rồi Tỷ                              kheo trẻ tuổi bèn đi trước về tinh xá, lấy giường                              nệm của Hòa thượng A Xà Lê đem cất, thì khi trời                              tạnh muốn ra đi, phải bạch với Hòa thượng, nếu không                              bạch mà đi thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu nhiều Tỷ kheo                              dừng chân nghĩ tại một tinh xá ở thôn xóm, cùng nhận                              lấy giường nệm của chúng Tăng, rồi mọi người đều suy                              nghĩ khi ra đi: "Mỗ giáp sẽ dặn họ cất". Thế rồi đi                              đến nữa đường, người này hỏi người khác, chung cục                              không ai dặn lại cả. Nếu vậy, thì lúc ấy, nên sai                              hai người trở lại dặn họ đem cất.                              Nếu các Tỷ kheo                              đi dường đến nghỉ tại một tinh xá, rồi khi ra đi                              không dặn thầy tri sự cất giường nệm, đến khi đi một                              đoạn đường xa bèn hỏi nhau, thì mới biết không ai                              dặn lại cả. Lúc ấy bỗng gặp [343a] một Tỷ kheo khác                              đi ngược chiều, liền hỏi: "Trưởng lão định đi đâu                              đó?". Nếu người ấy đáp: "Tôi muốn đến nơi đó", thì                              các Tỷ kheo kia nên bạch: "Tối qua chúng tôi nghỉ                              tại đó, nhưng lúc ra đi quên không dặn họ cất giường                              nệm. Vậy trưởng lão đến đó hãy dặn giúp chúng tôi".                              Tỷ kheo ấy cũng nói: "Lúc ra đi tôi cũng quên không                              dặn, vậy các trưởng lão đến tinh xá ấy hãy vì tôi mà                              dặn giúp". Như vậy hai đàng cùng nhờ vả lẫn nhau,                              cho đến khi cả hai cùng vào đến ranh giới của mỗi                              tinh xá, thì được gọi là có dặn dò.                               Nếu Tỷ kheo nghĩ                              tại nhà người thế tục, rồi họ cung cấp cho giường                              nệm tọa cụ, thì lúc ra đi nên nhắc họ đem cất. Nếu                              đó là tọa cụ bằng cỏ, thì khi đi nên hỏi họ: "Nệm cỏ                              này nên cất ở đâu?". rồi tùy chủ nhân chỉ chỗ, ta sẽ                              đem cất tại đó. Nếu đàn việt nói: "Thầy cứ đi đi rồi                              tôi sẽ thu dọn", thì Tỷ kheo nên xếp lại một góc                              nhỏ, rồi đi.                               Nếu Tỷ kheo lúc                              đi đường đến một nơi kia vạch cỏ ra để trải tòa                              ngồi, thì lúc ra đi phải vuốt cho cỏ thẳng lại rồi                              mới đi. Thế nên nói (như trên).                                                                                                                                                  16. GIỚI: LÔI TỶ-KHEO KHÁC RA KHỎI PHÒNG.                              Khi Phật an trú                              tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỷ                              kheo khách đến phòng nhóm sáu Tỷ kheo, nhóm sáu Tỷ                              kheo nói: "Lành thay trưởng lão!"Nói như thế rồi bèn                              đưa nước rửa chân, dầu thoa chân, nước giải khát, để                              nghĩ ngơi. Sau khi nghĩ xong, họ bèn hỏi Tỷ kheo                              khách: "Thưa trưởng lão thầy định nghỉ ở đâu?".                              - Nghỉ trong                              phòng này đây .                              - Ông biết phòng                              này của ai không?                              - Tôi biết đây là                              phòng của chúng Tăng .                              - Tuy phòng này                              là của chúng Tăng nhưng nhóm sáu Tỷ kheo chúng tôi                              đã ở đây trước rồi .                              - Ðây là phòng                              của chúng Tăng bốn phương giả sử có nhóm mười sáu Tỷ                              kheo ở đây trước, ta cũng theo thứ tự mà ở đây,                              huống gì là sáu Tỷ kheo?                              - Nếu trưởng lão                              muốn ở thì cứ ở .                               Khi Tỷ kheo khách                              ở đó rồi, nhóm sáu Tỷ kheo ập đến, kẻ nắm tay chân,                              người tóm lấy đầu, dở cao lên định vứt thầy ấy ra                              khỏi phòng. Khi ấy Thế Tôn dùng thần túc đang lơ                              lửng trên hư không đi đến. Nhóm sáu Tỷ kheo trông                              thấy Thế Tôn, liền ném ông ta xuống đất và bỏ đi.                              Phật liền nói với Tỷ kheo khách: "Ông cứ ở trong                              phòng này đi".                              Lại nữa, Tôn giả                              Nan Ðà là anh của Ưu Ba Nan Ðà. Nan Ðà có người đệ                              tử tùy tùng, người này sau bị đuổi ra khỏi phòng bèn                              la lớn lên. Các Tỷ kheo nghe tiếng la đều thất kinh,                              ra xem nói như sau: "Tỷ kheo này hôm nay mất hai thứ                              lợi: Không được ăn, lại mất phòng". Thế rồi, các Tỷ                              kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              liền bảo gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi,                              Phật bèn hỏi Nan Ðà, Ưu ba Nan Ðà: "Các ông có thật                              như thế chăng?". Họ đáp: "[343b] Có thật như vậy".                              Phật liền khiển                              trách: "Vì sao các ông ở trong phòng của Tăng bốn                              phương, rồi lôi Tỷ kheo khách ra ngoài? Ðó là việc                              xấu. Các ông không từng nghe ta dùng vô lượng phương                              tiện tán thán những người phạm hạnh cần phải tu tập                              tâm từ bi, tu tập khẩu ý từ bi và thường cúng dường,                              cung cấp (cho khách Tăng) hay sao? Ðó là điều phi                              pháp, phi luật trái lời ta dạy, không thể dùng việc                              đó để nuôi lớn thiện pháp được". Thế rồi Phật truyền                              lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi mà chế giới cho các                              Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu Tỷ                              kheo tự mình hoặc sai người khác kéo Tỷ kheo khác ra                              khỏi Tăng phòng, thậm chí nói: "Tỷ kheo ông ra đi",                              thì phạm Ba dạ đề".                              Giải thích                              Tỷ kheo:                              Như trên đã nói .                              Nếu Tỷ kheo lôi                              Tỷ kheo khác ra khỏi phòng, rồi Tỷ kheo ấy hoặc ôm                              cột nhà, hoặc nắm cánh cửa, hoặc tựa vào vách, mà Tỷ                              kheo kéo rời khỏi mỗi chỗ, thì phạm mỗi tội Ba dạ                              đề. Hoặc dùng lời nói trách mắng, xua đuổi Tỷ kheo                              kia, rồi Tỷ kheo kia tùy theo lời trách mắng mà rời                              đi từng chỗ, thì phạm từng tội Ba dạ đề. Nếu dùng                              phương tiện đuổi thẳng ra khỏi cửa, thì phạm một tội                              Ba dạ đề.                              Nếu Tỷ kheo tức                              giận chuột rắn mà đuổi chúng đi, thì phạm tội Việt                              tì ni. Nhưng nếu nói: "đây là vật vô ích ", rồi đuổi                              chúng đi, thì không có tội.                               Nếu lạc đà, bò,                              ngựa đứng trong chùa tháp, rồi Tỷ kheo vì sợ ô uế                              chùa tháp mà đuổi chúng đi thì không có tội.                              Nếu Tỷ kheo này                              đuổi Tỷ kheo khác đi, thì phạm Ba dạ đề. Nếu đuổi Tỷ                              kheo ni đi, thì phạm tội Thâu lan giá.                               Nếu đuổi Thức xoa                              ma na, Sa di, Sa di ni, thì phạm tội Việt tì ni. Sau                              cùng, cho đến đuổi người thế tục, thì phạm tội Việt                              tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên) . 
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
Tu tập nếp phạm hạnh  
Tính trẻ con không bỏ  
Làm sao nhận bố thí?".                             
 
Hai lưỡi cùng khui lại 
Không tịnh (nhân) và cú pháp  
Hơn người (đắc quả) nói thô tội 
Vị tình, khinh chê giới  
Xong phần đầu Bạt-cừ".                             
-Từ quá khứ đến .                             
-Hướng về vị lai mà đi .                             
-Ngủ trên tám loại cây .                             
-Ăn bằng năm ngón tay .                             
Vì sao làm việc ác  
Thân cưu mang ái nhiễm  
Chết rồi vào ác đạo".                             
Không phải là các dục 
Mà là lìa việc ác  
Nuôi mạng sống đúng pháp".                             
