Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười                                                             NÓI VỀ PHẦN HAI CỦA BA MƯƠI PHÁP NI-TÁT-KỲ BA-DẠ-ÐỀ                                    17. GIỚI: CẦM CỦA TIỀN                              VÀNG BẠC.                               Khi Phật an trú tại                              vườn Trúc Ca-lan-đà ở thành Vương Xá, nói rộng như                              trên, bấy giờ thôn trưởng của thôn Châu-la đi đến                              chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi đứng                              qua một bên, bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Trước                              đây các vị đại thần, Bà-la-môn, Cư sĩ, Trưởng giả                              họp tại cung điện Vua cùng nhau nghị luận. Có người                              thì nói Sa-môn Thích tử nên cất giữ vàng bạc. Có                              người thì nói không nên cất giữ . Vậy ai nói thật,                              nói đúng pháp, nói tùy thuận pháp, nghị luận không                              trái nghịch với phép tắc hiện tại?"                                                           Phật đáp: "Sa-mônThích                              tử không nên cất giữ vàng bạc. Nếu có ai nói nên cất                              giữ, thì đó là phỉ báng ta, không thật, không đúng                              pháp, không tùy thuận, là lời nghị luận trái với                              phép tắc hiện tại. Vì sao vậy? Vì nếu được cất giữ                              vàng bạc thì cũng được duy trì ngũ dục. Ngũ dục là:                              Mắt phân biệt sắc pháp sinh ra ái nhiễm, cho đến                              thân xúc chạm sinh ra ái nhiễm. Phải biết rằng đó                              không phải là pháp của Sa-mônThích Tử".                                                           Vị Thôn trưởng nói:                              "Thật là kỳ lạ, Bạch Thế Tôn! Chưa từng có việc như                              thế. Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói Sa-môn Thích tử                              không nên cất giữ vàng bạc. Nếu cất giữ vàng bạc thì                              không phải pháp của Sa môn, không phải pháp của dòng                              họ Thích. Vì thế, nay con xin quy y Phật, quy y pháp,                              quy y Tăng. Con là đệ tử tại gia của Phật, xa lìa                              sát sinh, Thế Tôn hãy chứng minh cho con. (nói như                              thế 3 lần) cho đến: Không uống rượu. Trước đây con                              đã suy nghĩ: Sa-môn Thích tử không nên cất giữ vàng                              bạc. Nếu ai cất giữ thì chẳng khác gì người hưởng                              thụ ngũ dục".                                                           Bấy giờ Thế Tôn liền                              tùy nghi thuyết pháp chỉ dạy Thôn trưởng khiến ông                              được lợi ích, hoan hỉ, giống như tấm lụa sạch dễ                              thấm màu nhuộm. Ông liền thấy được lý Tứ Ðế ngay tại                              chỗ ngồi, bèn bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Người                              thế tục có nhiều công việc, con xin từ biệt trở về".                                                           Phật nói: "Ông nên                              tự biết đúng lúc".                                                           Ông liền đứng dậy                              đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải rồi ra đi.                                                           Sau khi ông đi không                              bao lâu Phật bèn đến chỗ có đông Tỉ-kheo trải tọa cụ                              ngồi, nói với các Tỉ-kheo: "Vừa rồi thôn trưởng Thôn                              Chu La đến chỗ ta (như trên đã nói cho đến) nhiễu                              bên phải rồi ra đi".                                                            Ðoạn Phật nói với                              các Tỉ-kheo: "Các thầy (311a) phải học như sau:                              "Không được cất giữ vàng bạc. Ta không có lý do gì                              được phép cất giữ vàng bạc".                                                                                        Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Thế Tôn vì                              năm việc lợi ích nên cứ năm hôm đi thị sát phòng ở                              của các Tỉ-kheo một lần. Ngài đến chỗ ở của Nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà. Khi ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà vừa đếm                              tiền nên tay bị dính đất, liền đi đến đảnh lễ dưới                              chân Phật, rồi đứng qua một bên. Phật biết nhưng vẫn                              hỏi: "Tay các thầy vì sao dính đất như thế?"                                                           Họ liền đáp: "Bạch                              Thế Tôn! Con vừa đếm tiền, nên tay bị dính đất".                                                           Phật liền nói với                              Nan-đà: "Vì sao các thầy lại dùng tay để cầm "sinh                              sắc", "tợ sắc"? Từ nay ta không cho phép các thầy tự                              tay cầm "sinh sắc""tợ sắc".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại tinh xá có lầu gác trong rừng nơi Tì-xá-li,                              nói rộng như trên. Khi ấy, Ưu-đà-diđến giờ khất thực,                              bèn khoác y, cầm bát đi tới nhà một người thợ hồ.                              Nhà ông Này vừa làm lễ khánh hạ xong, bà vợ bèn bước                              ra nghênh đón làm lễ, hỏi: "Tôn giả, hôm qua vì sao                              không đến? Nếu đến thì đã được thức ăn uống ngon rồi".                                                           Thầy liền đáp: "Hôm                              qua, bữa nay thì có sao đâu? Nếu có thức ăn ngon thì                              hãy mang ra đây".                                                           Bà liền nói: "Thức                              ăn ngon hết rồi, nay con xin gởi tiền để tôn giả đến                              quán ăn mua thức ăn ngon khác".                                                           Thầy nói: "Ðức Thế                              Tôn chế giới, không cho ta tự tay cầm tiền. Bà hãy                              đem tiền buộc vào chéo y của ta".                                                           Bà theo lời chỉ bảo,                              đem tiền buộc vào chéo y, rồi thầy ra đi, đến một                              quán bán bánh, nói với chủ quán: "Lão trượng, hãy                              mang bánh cho tôi".                                                           Ông ta nói: "Tôn giả                              cho tôi xem tiền đã".                                                           Ưu-đà-dinói: "Ông                              chỉ cần đưa bánh cho ta, ta sẽ trao tiền cho ông                              ngay tại đây thôi".                                                           Ông liền nói: "Tôn                              giả hãy đưa bát ra".                                                            Thế rồi, ông liền                              đem các thứ bánh bỏ vào đầy bát, và nói: "Xin đưa                              tiền cho tôi".                                                           Ưu-đà-dibảo: "Ông                              hãy mở chéo y của tôi ra mà lấy".                                                           Ông chủ quán muốn                              đùa cợt nên không chịu mở, nói: "Ông hãy tự mở lấy                              đưa cho tôi".                                                           Ưu-đà-diđáp: "Phật                              không cho phép tôi cầm sinh sắc, tợ sắc, ông hãy tự                              mở lấy".                                                           Ông ta bèn mở lấy.                              Lấy xong, chê trách: "Vì sao Sa-môn Thích tử lại                              dùng phương tiện sơ sài này, xem đây là thanh tịnh!                              Chúng ta cũng ít khi dùng tay cầm nắm và đặt vào                              trong miệng, cũng chẳng khi nào buộc vào chéo áo                              hoặc bỏ vào trong túi. Thế này thì mất hết phép tắc                              Sa môn, nào có đạo hạnh gì?"                                                           Thế rồi,                              Ưu-đà-dimang bánh về phòng, mời các Tỉ-kheo khác                              cùng ăn. Các Tỉ-kheo hỏi: "Thứ bánh này rất ngon, ở                              đâu mà có được vậy? Loại này không phải là bánh làm                              ở nhà".                                                           Ưu-đà-diđáp: "Này                              các trưởng lão! Trong đây lợi ít mà lỗi nhiều!"                                                           Các Tỉ-kheo bèn hỏi:                              "[311b] Vì sao nhiều lỗi?"                                                           Ðáp: "Tôi tạo nhân                              duyên như vậy như vậy cho nên nhiều lỗi".                                                            Các Tỉ-kheo bèn đem                              việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Ưu-đà-diđến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông                              có làm như vậy thật chăng?"                                                           Thầy đáp: "Có thật                              như vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật khiển trách: "Ðó                              là việc xấu. Từ nay về sau, dùng tiền buộc vào chéo                              y, Ta cũng không cho".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Ca-duy-la-vệ, nói rộng như trên. Vì                              năm việc lợi ích, nên Thế Tôn cứ năm hôm đi quan sát                              phòng ở của các Tỉ-kheo một lần, bỗng thấy một                              Tỉ-kheo mang bệnh huỳnh đãng ốm yếu. Phật biết mà                              vẫn hỏi: "Tỉ-kheo! thầy có kham nhẫn nỗi khổ được                              chăng? Thầy có sống yên ổn chăng?"                                                           Thầy ấy đáp: "Bạch                              Thế Tôn! Con không được yên ổn, bị bệnh tật khổ não".                                                           Phật liền hỏi thầy:                              "Ông không thể đòi hỏi thức ăn hợp với bệnh, thuốc                              hợp với bệnh được sao?"                                                           Thầy đáp: "Con nghe                              Thế Tôn chế giới Tỉ-kheo không được tự tay cầm sinh                              sắc, tợ sắc, lại không có ai đưa cho con, nên con                              phải chịu khổ não".                                                           Phật liền nói: "Từ                              nay về sau, ta cho phép người bệnh được quyền sai                              tịnh nhân cất tiền bạc, nhưng chớ có tham trước".                                                            Thế rồi, Phật truyền                              cho các Tỉ-kheo tại thành Ca-duy-la-vệ phải tập họp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các                              Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                            --"Nếu Tỉ-kheo tự                              tay cầm sinh sắc, tợ sắc hoặc sai người cầm nắm với                              ý tham trước thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            (Một số từ đã được                              giải thích ở trước)                                                           - Sinh sắc:                              Chỉ cho vàng.                                                           - Tợ sắc:                              Chỉ cho bạc.                                                           - Sinh sắc tợ                              sắc: Chỉ cho các loại tiền tệ dùng ở thị                              trường.                                                           - Cầm:                              Hoặc tự mình cầm, hoặc bảo người khác cầm.                                                           - Nắm:                              Hoặc tự mình nắm, hoặc bảo người khác nắm.                                                           - Tham trước:                              Suy nghĩ như sau: "Ta sẽ dùng vật này để đạt được                              năm thứ dục lạc như: Sắc, thanh, hương, vị, xúc". Ðó                              gọi là tham trước.                                                           - Không tham                              trước: Như vị Tỉ kheo trì giới thanh tịnh tự                              gánh lương thực như bún, bánh, gạo, bột gạo.v.v.,                              khi ấy suy nghĩ: "Ta không có phương tiện nào khác                              nên bất đắc dĩ phải dùng đến thức ăn Này". Trái lại,                              nếu đối với các vật bất tịnh Này mà tưởng là những                              vật thanh tịnh, như sau: "Ta sẽ thọ dụng những thứ                              Này", thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           - Ni-tát-kì                              Ba-dạ-đề: Các thứ tiền, vàng bạc Này phải                              đem thí xả giữa chúng Tăng, rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.                              Nếu không thí xả [311c] mà sám hối thì phạm tội Việt                              tì-ni .                                                           Các thứ vàng bạc hay                              tiền, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc thuần, hoặc tạp,                              hoặc đã làm thành dụng cụ, khi đem thí xả giữa chúng                              Tăng, thì Tăng không nên cho lại Tỉ-kheo ấy, cũng                              không được phân chia. Nếu nhiều thì nên bỏ vào quỹ                              tiết kiệm. Sau khi bỏ vào quỹ tiết kiệm, nếu sinh                              lợi tức, thì được dùng nó làm phòng xá, sắm y, mà                              không được mua sắm thức ăn.                                                           Tỉ-kheo khi nhận                              được tiền, và sau mùa an cư xong nhận được tiền sắm                              y, không được đưa tay cầm lấy mà phải nhờ tịnh nhân                              lấy giúp.                                                           Nếu không có tịnh                              nhân thì hãy bảo thí chủ bỏ dưới đất bên cạnh chân                              mình. Sau đó, mình dùng cỏ, lá, gạch, ngói tủ lên                              trên, đợi tịnh nhân đến, chỉ cho họ thấy để họ cầm                              lấy. Nếu tịnh nhân không đáng tin cậy, thì bảo họ đi                              trước mình, và bảo để tiền tại nơi nào đó.                                                           Nếu Tỉ-kheo làm tri                              sự trông coi việc của Phật, của Tăng có nhiều tiền                              vàng bạc để tại chỗ sinh địa thì nên chỉ cho tịnh                              nhân biết. Nếu để chỗ tử địa kín đáo thì hoặc tự                              mình đào lấy, hoặc sai Tỉ-kheo trẻ tuổi đào lấy. Nếu                              tịnh nhân không đáng tin, thì nên dùng khăn bịt mắt                              họ ba vòng, rồi mới dẫn đến chỉ cho họ biết chỗ đất,                              sau đó chỉ cho biết hầm để tiền, và cứ để mắt bị bịt                              như thế bảo đi khỏi nơi đó. Nếu tiền rơi trên bờ hầm,                              thì được dùng ngói gạch gạt cho tiền rớt xuống hầm,                              và được tự tay đậy nắp hầm lại. Sau đó khi cần lấy,                              nếu là chỗ sinh địa thì chỉ cho tịnh nhân biết; nếu                              là chỗ tử địa thì được tự tay đào lên cho đến khi                              gặp tiền, bèn sai tịnh nhân đến lấy. Nếu tịnh nhân                              không đáng tin thì phải bịt mắt y 3 vòng rồi dẫn đến                              lấy. Nếu trong cái khăn gói để trên đầu cây gậy có                              vàng, bạc, tiền thì không được tự tay cầm lấy mà nên                              bảo cho tịnh nhân biết. Nếu tịnh nhân bé nhỏ không                              sờ tới thì được bồng y lên khiến y lấy. Khi bồng y                              nên nói như sau: "Tôi bồng tịnh nhân, tôi bồng tịnh                              nhân". Lúc đem gói đồ xuống rồi phải bảo y mở ra.                              Nếu y không biết mở thì được phép cầm tay y chỉ cho                              y mở. Khi mở xong bảo y đếm. Nếu y không biết đếm                              thì được phép cầm tay y mà đếm. Khi đếm xong, số còn                              thừa bảo y bỏ lại vào túi. Nếu y không biết cầm bỏ                              vào túi, thì được phép cầm [312a] tay y dạy y bỏ vào                              túi. Khi bỏ vào túi xong nên bảo tịnh nhân buộc túi                              lại. Nếu tịnh nhân không biết buộc, thì bảo y nâng                              cái đáy túi, rồi Tỉ-kheo tự tay mình buộc. Khi buộc                              xong nên đem để lại trên đầu gậy như trước. Nếu tịnh                              nhân thấp để không tới thì Tỉ-kheo được phép bồng y                              lên.                                                           Nếu kho lẫm, rương,                              tủ để trên gác, trên cột trụ, thì khi lấy, khi mở ra,                              khi đậy lại cũng như thế.                                                           Nếu khi đi đường,                              tịnh nhân mang vàng bạc, mà y còn bé, thì ta được                              phép dùng tay dắt y đi. Nếu khi lội nước, thì ta                              được phép dìu y lội qua, nhưng phải nói: "Tôi dìu                              tịnh nhân, tôi dìu tịnh nhân".                                                           Nếu Tỉ-kheo dẫn tịnh                              nhân theo, lúc đi qua đò mà y còn bé không lên đò                              được, thì Tỉ-kheo được phép đỡ y lên đò, nhưng phải                              nói: "Tôi đỡ tịnh nhân, tôi đỡ tịnh nhân". Khi xuống                              đò, cũng như vậy. Trên đường đi, Tỉ-kheo dừng lại ở                              trên bờ sông, bên giếng hoặc trên ao hồ để ăn uống                              nghỉ ngơi, rồi lúc ra đi, tịnh nhân để quên túi xách.                              Bấy giờ có vị trưởng lão Tỉ-kheo đi sau, xem có ai                              để quên vật gì không, thì thấy có một gói đồ sót lại,                              bèn suy nghĩ: "Cái Này ắt là của vị Tỉ-kheo kia",                              bèn cầm lấy mang đi, khi đi kịp chúng bạn, bèn hỏi:                              "Vật Này của ai vậy?"Lúc ấy có người nói: "Ðó là gói                              đồ của tịnh nhân". Vị trưởng lão bèn bỏ gói đồ xuống                              đất. Bấy giờ, tịnh nhân nên cầm lấy mang đi, nhưng                              không được gọi tên gói đồ.                                                           Nếu Tỉ-kheo cùng đi                              đường với tịnh nhân, khi đêm đến dừng nghỉ tại một                              chỗ, rồi tờ mờ sáng ra đi. Bấy giờ, tịnh nhân cầm                              nhầm gói đồ của Tỉ-kheo, Tỉ-kheo cầm nhầm gói đồ của                              tịnh nhân. Khi đến nơi, Tỉ-kheo mới nhận ra gói đồ                              mình cầm là của Tịnh nhân, thì nên bỏ xuống đất, và                              tịnh nhân phải đến lấy mà không được gọi tên gói đồ                              (tức không được gọi là túi đựng bạc).                                                           Nếu Tỉ-kheo nhiều                              vàng, bạc, tiền bị mất, và nghi bị rơi ở bên cạnh                              giường, nên muốn tìm lại, thì khi rời khỏi giường,                              phạm tội Việt tì-ni . Nếu tìm lại được thì phạm tội                              Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo có nhiều                              tiền bạc, nghi là cất trong mền len, nên định tìm                              kiếm thì khi mở chiếc mền ra, phạm tội Việt tì-ni .                              Khi được tiền, phạm tội Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo có nhiều                              tiền bạc, nghi bị rơi trên đất, muốn tìm kiếm thì                              khi cầm chổi quét đất, phạm tội Việt tì-ni . Nếu tìm                              lại được, thì phạm tội Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo có nhiều                              tiền bạc, nghi bị rơi trong đống rác, nên định tìm                              kiếm, thì khi bươi đống rác, phạm tội Việt tì-ni,                              khi được tiền phạm tội Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo lâm bệnh,                              có đàn việt cúng dường tiền thuốc, vì bệnh nên được                              nhận tiền, đem cất dưới mền. Khi cần tìm lấy, nhưng                              vì trong tối mắt không trông thấy, dùng tay rờ đụng                              tiền, thì không có tội.                                                           Nếu đàn Việt làm                              giường ghế mới bằng vàng bạc, vì có lòng tin, nên                              muốn để Tỉ-kheo sử dụng trước nhất, rồi Tỉ-kheo nói:                              "Tôi là người xuất gia, luật không cho phép dùng".                              Ðàn việt lại nói: "Tôn giả vì tôi mà khai thông có                              được thọ dụng không?" Tỉ-kheo nên nói: "Hãy xếp một                              tọa cụ cho dày lót lên, thì tôi mới ngồi được".                              Nhưng khi Tỉ-kheo ngồi rồi thì không được [312b] lay                              động cái giường, cũng không được khen ngợi.                                                           Nếu đàn việt làm xe,                              máy móc mới bằng vàng bạc, vì có tín tâm nên muốn để                              Tỉ-kheo sử dụng trước tiên, khi ấy Tỉ-kheo nói: "Tôi                              là người xuất gia luật không cho phép sử dụng vật ấy".                              Người kia lại nói: "Tôn giả hãy vì tôi mà phương                              tiện khai thông thọ dụng giúp cho". Tỉ-kheo nên bảo:                              "Nếu trên xe có lót lá cây, hoặc lót tấm vải lên                              trên, thì tôi mới đặt chân lên được". Nhưng sau khi                              đặt chân lên, không nên động chân, cũng không được                              khen ngợi.                                                           Có người đàn việt                              làm cái mâm vàng bạc, vì có tín tâm nên muốn để                              Tỉ-kheo sử dụng trước nhất, Tỉ-kheo nói: "Tôi là                              người xuất gia, không được phép dùng vật ấy".                                                           Người kia nói: "Tôn                              giả có thể vì tôi mà khai thông phương tiện thọ dụng                              được không?"Tỉ-kheo nên nói: "Nếu dùng cỏ, lá cây                              hay tấm vải phủ lên trên đó thì có thể được". Nhưng                              không được dùng tay cầm mà nên bảo họ bưng để xuống                              đất.                                                           Nếu đàn việt làm                              chén bát mới bằng vàng bạc, vì tín tâm nên muốn nhờ                              Tỉ-kheo sử dụng trước nhất. Rồi Tỉ-kheo nói: "Tôi là                              người xuất gia không được phép dùng nó". Người ấy                              lại nói: "Tôn giả có thể vì tôi mà khai thông phương                              tiện thọ dụng được không?"Tỉ-kheo nên đáp: "Ngươi                              nên rửa sạch, đặt trên mâm, đem thức ăn bỏ vào, rồi                              đưa tay chỉ bát nói: "Dùng, dùng... ". Nói 3 lần như                              vậy, đó gọi là dùng. Nhưng khi ăn, Tỉ-kheo chỉ ăn                              thức ăn trong bát, không được động đến xung quanh                              bát.                                                           Nếu ngày mồng tám                              tháng tư hay các ngày đại hội cúng dường, tất cả các                              tháp, tượng Bồ tát, cờ phướn bảo cái, những dụng cụ                              cúng dường ấy có thếp vàng bạc thì Tỉ-kheo không                              được cầm đến mà nên bảo tịnh nhân cầm. Nếu bị rơi                              xuống đất, thì nên cầm chỗ nào không có vàng bạc                              nhặt lên. Nếu được thếp vàng khắp cả thì nên dùng                              vải bọc tay rồi mới cầm. Nếu không có vật gì bọc tay                              mà trên tượng có chỗ chưa thếp vàng thì nên cầm chỗ                              ấy. Tất cả các thứ như lư hương, đèn, cán phất trần                              mà có thếp vàng, đều không được cầm. Khi tắm rửa                              tượng Bồ tát bằng vàng bạc thì không được tự tay                              mình tắm mà phải bảo tịnh nhân làm. Vào những ngày                              đại hội, Tỉ-kheo bảo tịnh nhân lấy ra các tượng bằng                              vàng bạc, Tỉ-kheo chỉ được đỡ giúp tịnh nhân, không                              được cầm. Và trên tượng có thếp vàng, Tỉ-kheo không                              được trước cầm rồi sau thả ra. Tùy theo mỗi nước, có                              nước dùng tiền bằng đồng, hoặc tiền bằng vỏ ốc, hoặc                              tiền bằng sắt, hoặc tiền bằng hồ dao, hoặc tiền bằng                              thẻ tre, hoặc tiền bằng da... Tất cả các loại tiền                              ấy, Tỉ-kheo không được cầm. Hoặc có những nước người                              ta sử dụng tiền tệ mà chưa thành hình tướng của tiền                              tệ, Tỉ-kheo cầm nó thì phạm tội Việt tì-ni . Có                              những nước người ta dùng loại tiền tệ không có hình                              dạng của tiền tệ, mà Tỉ-kheo cầm nó thì phạm tội                              Việt tì-ni . Có những nước người ta dùng loại tiền                              tệ có hình dạng của tiền tệ mà Tỉ-kheo cầm nó thì                              phạm tội Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. [312c] Có những nước                              người ta dùng loại tiền tệ không có hình dáng của                              tiền tệ, Tỉ-kheo xem nó như loại đồng, sắt mà cầm,                              thì không có tội. Thế nên nói (như trên).                                                           (Hết giới Ni-tát-kì                              17)                                                                                                                        18. GIỚI: BUÔN                              BÁN.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá-vệ, nói rộng như trên, bấy giờ, nhóm 6                              Tỉ-kheo mua các thứ sinh tô, dầu, mật, đường phèn,                              sữa, sữa chua tại giữa chợ để dùng, nên bị người đời                              chê trách rằng: "Vì sao Sa-mônthích tử không chịu                              khất thực mà đến các chợ mua thức ăn để ăn, mất hết                              cả phép tắc Sa môn, có đạo nào như thế?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem                              sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Có                              thật các ông mua các thức ăn tại chợ nên bị người                              đời chê trách không?"                                                           Họ đáp:"Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật khiển trách: "Ðó                              là việc xấu, đáng bị người chê trách. Các ông không                              nghe ta thường khen ngợi thiểu dục, khiển trách đa                              dục hay sao?. Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái                              lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện                              pháp".                                                            Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho tất cả các Tỉ-kheo đang sống tại thành                              Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà                              chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi, cũng phải                              nghe lại:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo mua                              bán các thứ thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            - Các thứ:                              Hoặc tự hỏi giá, hoặc nhờ người khác hỏi giá, hoặc                              tự thách giá, hoặc nhờ người khác thách giá, hoặc tự                              hạ giá, hoặc nhờ người khác hạ giá.                                                           - Tự hỏi giá:                              Như hỏi: "Vật này giá bao nhiêu?". Và họ đáp: "Bán                              cho ông giá chừng đó". Rồi hỏi: "Tôi mua với giá đó                              được không?"Vì cách hỏi không thanh tịnh, nên phạm                              tội Việt tì-ni . Nếu mua được vật ấy thì phạm Ni-tát-kì.                                                           - Sai người                              khác hỏi: Như bảo: "Ngươi đến hỏi xem vật ấy                              họ đòi bao nhiêu". Hoặc bảo: "Nếu họ đòi giá chừng                              đó thì ngươi nên trả cho họ". Vì sai người ta hỏi                              những lời bất tịnh nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua                              được vật đó thì phạm Ni-tát-kì.                                                           - Thách giá:                              Chẳng hạn họ hỏi: "Vật Này giá bao nhiêu?" Rồi mình                              đáp: "Tôi bán cho ông với giá đó". Và người kia nói:                              "Tôi muốn mua với giá đó". Do tranh nhau thách trả                              nói những lời bất tịnh nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu                              bán được vật đó, thì phạm Ni-tát-kì.                                                           - Sai người                              thách giá: Như bảo tịnh nhân: "Ngươi đến                              thách giá như vậy. Nếu được giá đó thì bán". Vì nói                              lời bất tịnh nên phạm tội Ni-tát-kì.                                                           - Hạ giá:                              Như hỏi: "Giá vật Này bao nhiêu?"Rồi Họ đáp: "Một                              nghìn", và mình nói: "Tôi trả cho ông 800". Nếu họ                              đòi 900, rồi mình nói: "Tôi trả 700"... cho đến 10.                              Vì mong mua được vật của người ta mà bớt giá một                              cách bất tịnh, nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua                              được thì phạm Ni-tát-kì.                                                           - Sai ngưòi hạ                              giá: Cũng như vậy. Nếu căn cứ theo thời giá                              mà đi mua các vật, như vật dùng ban đêm, [313a] vật                              dùng trong 7 ngày, vật dùng suốt đời, vật tùy thân,                              vật nặng, vật bất tịnh, vật vừa thanh tịnh vừa bất                              tịnh, khi nói thì phạm tội Việt tì-ni, khi mua được                              thì phạm tội Ni-tát-kì. Nếu hỏi mua các vật dùng 7                              ngày, trọn đời, tùy thân, vật nặng, vật vừa thanh                              tịnh vừa bất tịnh ..., thì khi hỏi mua cũng phạm tội                              như vật dùng ban đêm kể trên.                                                           Tại chợ, giá vải đã                              được quy định sẵn, Tỉ-kheo đem tiền đến mua vải, khi                              đặt tiền xuống sạp thì nên nói với chủ sạp: "Ðây là                              giá tiền của tấm vải đó". Nếu không nói (mà đặt tiền                              xong) im lặng cầm vải đi thì phạm tội Việt tì-ni .                              Nếu mua dù lọng, rương, giày da, quạt, mía, cá, sữa                              chua, dầu, mật... các vật ấy cũng như vậy.                                                           Có những quốc gia,                              việc mua bán tại các chợ đã có phép nhất định, người                              mua chỉ cần cầm tiền đặt ở chỗ vật cần mua, và người                              chủ sạp gật đầu, thì biết là đồng ý bán. Nhưng                              Tỉ-kheo khi mua cũng phải nói: "Giá tiền của vật Này                              đây". Người chủ sạp biết hay không biết, đều phải                              nói như thế. Nếu không nói như thế mà im lặng cầm                              món hàng đi thì phạm tội Việt tì-ni .                                                           Nếu món hàng đáng                              giá 50 đồng mà người chủ sạp thách giá 100 đồng, rồi                              Tỉ-kheo nói: "Tôi chỉ trả 50 đồng". Chỉ mong mua với                              giá như vậy, thì không gọi là bớt (hạ) giá.                                                           Nếu Tỉ-kheo biết                              người đứng trước mình đang muốn mua vật nào đó thì                              không được tranh mua mà nên hỏi: "Bà đã thôi                              chưa?"Nếu họ nói: "Tôi đang cố mua với giá đó". Bấy                              giờ Tỉ-kheo không nên xen vào tranh mua với họ. Nếu                              mua thì phạm tội Việt tì-ni . Nhưng nếu người mua                              nói: "Tôi dừng rồi", thì Tỉ-kheo nên nói với người                              chủ sạp: "Tôi muốn mua vật kia với giá đó".                                                           Nếu Tỉ-kheo trao đổi                              y bát với nhau thì không được làm trung gian tranh                              giành. Nếu tranh giành thì Phạm tội Việt tì-ni . Nếu                              người trước đã bỏ cuộc, rồi mình đổi lấy thì không                              có tội.                                                           Nếu bán đồ vật giữa                              chúng tăng thì được phép ra giá, khi bán được thì                              không có tội.                                                           Nếu Hòa thượng, A-xà-lê                              muốn mua lấy thì không được tranh giành. Nếu Tỉ-kheo                              với Tỉ-kheo mua bán đổi chác, nói những lời bất tịnh                              để mua thì không có tội. Ðối với 96 hạng người xuất                              gia, dùng những lời bất tịnh trao đổi với họ để mua                              được vật thì không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo thấy                              người ta bán bát bèn suy nghĩ: "Cái bát Này đẹp, nếu                              đem đến nơi kia bán sẽ được lời", rồi mua, thì phạm                              tội Việt tì-ni . Trái lại, nếu suy nghĩ: "Ta có vật                              Này mà không có tịnh nhân, đây là vật thanh tịnh",                              thì được mua mà không có tội. Khi đến đó, hoặc Hòa                              thượng, A-xà-lê cần đến, hoặc mình bị bệnh, hoặc                              muốn làm công đức, được giá cao bèn bán đi mà không                              vụ lợi, thì không có tội. Ðối với tất cả các vật                              khác cũng như vậy.                                                           Nếu Tỉ-kheo khi cất                              giữ lúa suy nghĩ: "[313b] Loại Này về sau sẽ quí giá",                              thì khi cất giữ phạm tội Việt tì-ni, khi đem bán,                              phạm Ni-tát-kì. Nếu suy nghĩ: "Sợ lúc nào đó giá lúa                              đắt đỏ, bấy giờ ta sẽ bán lúa Này và nhờ đó mà ta                              yên tâm tụng kinh ngồi thiền, hành đạo". Ðến khi đó,                              quả nhiên lúa đắt đỏ, thì hoặc dùng để ăn, hoặc cho                              Hoà Thượng, A-xà-lê, hoặc dùng làm công đức, còn                              thừa ra đem bán được lời, thì không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo cất thảo                              dược với suy nghĩ: "Sau Này giá đắt ta sẽ bán", thì                              phạm tội Việt tì-ni. Về sau đem bán thật thì phạm                              tội Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo mua                              thuốc với suy nghĩ: "Về sau Này khi có bệnh sợ giá                              thuốc đắt đỏ khó mua", nhưng sau đó nếu không bệnh,                              hoặc uống còn thừa đem bán có lợi, thì không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo kinh                              doanh thuê thợ làm đồ gốm, thợ mộc làm việc, nói                              những lời bất tịnh, thì phạm tội Việt tì-ni . Nếu đi                              thuê các loại thợ như thợ hồ, thợ vẽ, thì cũng như                              vậy. Nếu đi thuê xe ngựa, bò, lừa, lạc đà, người,                              thuyền ... cũng như vậy.                                                           Nếu Tỉ-kheo phụ                              trách công việc hằng tháng cho chúng Tăng, ra chợ                              mua các loại sữa, dầu, gạo, đậu, lúa mạch, bún, bột                              mì, khi đi tìm mua các thứ đó, nói những lời bất                              tịnh, thì phạm tội Việt tì-ni . Hoặc tự mua cho                              chính mình các thứ sữa, dầu ... nói những lời bất                              tịnh thì phạm tội Việt tì-ni . Khi đã mua được thì                              phạm Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo lúc đi                              mua đồ khen chê một cách trung thực về những vật ở                              trước người rằng: "Cái Này tốt, cái Này xấu, hoặc                              thô, hoặc tế, hoặc cân lượng lớn, nhỏ, thơm, thối                              ... thì không có tội. Nếu người bán hàng nói: "Tôi                              sẽ cân đo đầy đủ". Tỉ-kheo nên nói: "Ông bán đúng                              với giá Này thì thôi".                                                           Nếu Tỉ-kheo khất                              thực có mì, bún, thừa đem ra cửa hàng đổi sữa, dầu,                              tô lạt, nói những lời bất tịnh thì phạm tội Việt                              tì-ni . Khi đổi được thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           Tỉ-kheo không được                              đến những cửa hàng của những người tại chợ búa ồn                              náo để mua đồ, mà được đến những cửa hàng ít người,                              nói: "Nên biết rằng tôi mua với giá Này đây". Tất cả                              đều nên nói như thế.                                                           Nếu Tỉ-kheo khất                              thực có bún dư thừa, đem cho người khác để nhờ họ                              sửa chữa giày dép, nói những lời bất tịnh thì phạm                              tội Việt tì-ni. Nếu trước đó cho người ta bún, sau                              đó người ta sửa chữa giày giúp, hoặc nguời ta sửa                              chữa trước, sau đó mình cho họ bún thì không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo dùng                              thức ăn thừa trong bát đem thuê người bảo họ sửa chỗ                              đi kinh hành, nói những lời bất tịnh, thì phạm tội                              Việt tì-ni . Chỉ nên nói rằng: "Hãy biết cái Này".                              Nếu trước cho ăn, sau nhờ họ làm, hoặc trước nhờ họ                              làm, sau cho họ ăn, thì không có tội.                                                           Có đàn việt muốn                              giúp đỡ Tỉ-kheo bèn đưa tiền cho chủ quán, nói: "Nếu                              Tỉ-kheo mỗ giáp hằng ngày đến đây có cần thứ gì thì                              tùy ý đưa cho thầy ấy". Về sau, khi cần đến đòi hỏi,                              nói những lời bất tịnh, thì không có tội. Thầy                              Tỉ-kheo ấy đòi đồ vật mà ở sạp hàng không có [313c],                              nên chủ quán đưa tiền cho Tỉ-kheo đến chỗ khác tìm                              mua, rồi Tỉ-kheo đến chỗ khác tìm mua vật mình cần,                              nói những lời bất tịnh, khi được vật thì phạm                              Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           Tỉ-kheo đến cửa hàng                              dùng bất tịnh ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ, hoặc                              tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, hoặc bất                              tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, hoặc tịnh                              ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ.                                                            - Bất tịnh ngữ                              phân biệt giá, tịnh ngữ thủ: Như hỏi người                              chủ sạp: "Vật Này đòi giá bao nhiêu? Tôi muốn biết                              giá của nó".                                                           - Tịnh ngữ                              phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ: Biết vật đó                              đề giá như thế, nhưng trả: "Tôi muốn mua với giá                              đó".                                                           - Bất tịnh ngữ                              phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ: Vật đó họ                              đòi giá như thế, nhưng nói: "Tôi mua với giá đó".                                                           - Tịnh ngữ                              phân biệt giá, tịnh ngữ thủ: Biết vật ấy giá                              chừng đó và mình mua đúng với giá đó.                                                           Hai trường hợp Bất                              tịnh ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ và tịnh ngữ                              phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, phạm tội Việt                              tì-ni. Trường hợp bất tịnh ngữ phân biệt giá, bất                              tịnh ngữ thủ, phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Trường hợp                              Tịnh ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ không có tội.                              Thế nên nói (như trên).                                                           (Hết giới Ni-tát-kì                              18)                                                                                                                        19. GIỚI: MUA BÁN                              VÀNG BẠC.                                                           Khi Phật an trú tại                              tinh xá có lầu gác trong rừng Ðại lâm, nơi thành                              Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà mua vàng từ các nhà hoàng tộc rồi bảo                              thợ kim hoàn của các hoàng tộc làm dụng cụ trang sức                              bằng chuỗi anh lạc. Khi làm xong đem mài giũa phát                              sáng, cất vào trong va li, dùng tấm lụa màu hoa sen                              xanh phủ lên trên, rồi đưa cho Sa-di, dặn rằng: "Ta                              dẫn ngươi đến các nhà hào quí, nếu ta bảo ngươi mở                              nắp va li, thì ngươi chỉ mở lộ ra một góc". Thế rồi,                              họ dẫn Sa-di đến các nhà hào quí. Phụ nữ các nhà ấy                              trông thấy họ đến, liền ra cúi đầu đảnh lễ dưới                              chân, đứng hầu một bên, và hỏi: "Vật gì đựng trong                              va li Này vậy?"                                                           Họ đáp: "Hỏi cái Này                              làm gì? Ðó không phải là điều các người nên hỏi".                                                           Vì không cho xem,                              nên các bà ân cần nói với Sa-di: "[314a] Mở ra cho                              chúng tôi xem với".                                                           Sa-di bèn mở hé ra                              cho xem một góc. Màu xanh càng giúp cho xâu chuỗi                              nổi rõ màu sắc, và ánh mặt trời chiếu vào càng làm                              rực rỡ chói mắt. Mấy bà liền hỏi: "Vật Này của ai                              vậy?"                                                           Họ đáp: "Hỏi cái Này                              làm gì? Ai có vàng đem chế tạo ra tức là chủ nhân".                                                           Mấy bà lại hỏi: "Giá                              vàng bao nhiêu?"                                                           Họ liền đáp đúng như                              thật: "Giá vàng chừng đó, tiền công chừng đó".                                                           Mấy bà liền tán                              thán: "Thực là đại quí!"                                                           Họ nói: "Vì sao bà                              lại "chê"của quí? Tôi đưa cho bà giá tiền chừng đó                              liệu bà có làm được không?"                                                           Trong số đó có người                              thành tín nói: "Ðúng như thầy dạy, làm cũng thật là                              khó, không thể nào làm nhanh được"                                                           Trong số đó có một                              phụ nữ, hoặc là có của riêng hoặc là của của cha mẹ,                              hoặc là tài sản của mẹ chồng, hoặc là tài sản của                              chú Ưu Ba Nan bác, hoặc là tài sản của chồng, hoặc                              là của giữ riêng cho gia đình, bèn lấy mua chuỗi anh                              lạc đó. Vì lúc ấy người Này không mua vàng tại cửa                              hàng, cũng không thuê thợ kim hoàn làm, cho nên chủ                              nhân các tiệm vàng và những thợ kim hoàn đều chỉ                              trích rằng: "Vì sao Sa-mônThích tử lại đoạt mất                              nguồn lợi tức của người ta?"                                                           Các Tỉ-kheo liền đem                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo đi gọi                              Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền                              hỏi: "Có thật các ông mua vàng từ các nhà hoàng tộc,                              rồi bảo thợ kim hoàn làm thành đồ trang sức không?"                                                           Ho đáp: "Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật khiển trách:                              "Ða, đó là việc xấu. Ông không từng nghe ta dùng vô                              số phương tiện chê trách đa dục, ca ngợi thiểu dục                              hay sao? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta                              dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp".                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang ở tại                              Tì-xá-li phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà                              chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải                              nghe lại:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo mua                              bán các thứ sinh sắc, tợ sắc thì phạm Ni-tát-kì                              Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            - Sinh sắc:                              Vàng.                                                           - Tợ sắc:                              Bạc.                                                           Hoặc dùng vàng đổi                              lấy vàng, dùng vàng đổi lấy bạc, dùng vàng đổi lấy                              vàng bạc; hoặc dùng bạc đổi lấy bạc, dùng bạc đổi                              lấy vàng, dùng bạc đổi lấy vàng bạc; hoặc dùng vàng                              bạc đổi lấy bạc, hoặc dùng vàng bạc đổi lấy vàng                              bạc. Hoặc dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy                              loại không thể làm ra vàng; hoặc dùng loại không thể                              làm ra vàng đổi lấy loại làm ra vàng; hoặc dùng loại                              không thể làm ra vàng đổi lấy loại có thể hay không                              thể làm ra vàng; hoặc dùng loại không thể làm ra                              vàng đổi lấy loại làm ra vàng hay không thể làm ra                              vàng.                                                            Dùng loại làm ra                              vàng đổi lấy loại làm ra vàng trong 4 trường hợp;                              dùng loại làm ra vàng đổi lấy loại không thể làm ra                              vàng trong 4 trường hợp; dùng loại làm ra vàng không                              làm ra vàng và làm, hoặc không thể làm ra vàng trong                              4 trường hợp, đều như trên. Hoặc dùng loại không thể                              làm ra vàng đổi lấy loại không thể làm ra bạc, hoặc                              dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại làm ra                              bạc; dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại có                              thể hay không thể làm ra bạc; dùng loại không thể                              làm ra vàng đổi lấy loại làm ra bạc hay không làm ra                              bạc và có thể hay không thể làm ra bạc. Các loại làm                              ra vàng trong 4 trường hợp [314b] làm hay không làm                              ra vàng 4 trường hợp, làm ra vàng hay không làm ra                              vàng và vừa có thể vừa không thể làm ra vàng trong 4                              trường hợp, cũng như trên. Hoặc dùng loại không thể                              làm ra vàng đổi lấy loại không thể làm ra vàng bạc;                              dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại làm ra                              vàng bạc; dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy                              loại có thể hoặc không thể làm ra vàng bạc; dùng                              loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại có thể làm                              và không thể làm ra vàng bạc.                                                            Ngoài ra, làm dụng                              cụ bằng vàng, làm không làm dụng cụ bằng vàng, làm                              thành vàng không làm thành vàng và làm không làm                              dụng cụ bằng vàng 4 trường hợp, đều như trên. Về                              những dụng cụ được làm bằng bạc theo 12 cách trong 4                              trường hợp và những kim hoàn hợp chế bằng vàng bạc                              theo 12 cách trong 4 trường hợp cũng được nói rộng                              như trên.                                                           (Hết phần hai của                              Ni-tát-kì.)                                                                                                                        20. GIỚI: CẤT BÁT                              THỪA QUÁ HẠN.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một                              Tỉ-kheo đến giờ khất thực, liền khoác y, cầm bát đi                              đến nhà một người thợ gốm tên Pháp Dự. Pháp Dự trông                              thấy liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi đứng qua một                              bên. Tỉ-kheo nói:                                                            - Tôi cần bát.                                                            Pháp Dự bèn làm bát                              cúng dường. Bát Này không lớn, không nhỏ, vừa cỡ                              trung bình, được nung chín nhẵn bóng.                                                           Sau khi được bát,                              thầy mang về tinh xá Kỳ Hoàn, các Tỉ-kheo hỏi:                                                            - Trưởng lão, thầy                              được bát đó ở đâu mà không lớn, không nhỏ, vừa trung                              bình, được nung chín nhẵn bóng như thế?                                                           Thầy đáp:                                                            - Thợ gốm Pháp Dự bố                              thí cho tôi đấy.                                                           Các Tỉ-kheo hỏi thế                              rồi, đi đến nhà Pháp Dự xin, đều được tất cả. Quá                              nhiều người đến xin như thế, nên Pháp Dự suy nghĩ:                              "Có nhiều Tỉ-kheo cần đến bát, chi bằng ta mời chúng                              Tăng về nhà cúng dường bát, vì chúng Tăng là phước                              điền tốt nhất, phước báo vô lượng".                                                            Nghĩ thế rồi, ông                              bèn đi đến tinh xá Kỳ Hoàn, tới trước Thượng tọa,                              cúi đầu đảnh lễ dưới chân, quỳ gối chắp tay bạch:                                                            - Con là thợ gốm                              Pháp Dự, xin mời đại đức chúng Tăng tới nhà con nhận                              cúng dường bát. Ai cần thì đến lấy.                                                           Khi ấy, các Tỉ-kheo                              người thì lấy 1 cái, hoặc 2, 3, 4 thậm chí có người                              lấy 10 cái. Pháp Dự cung cấp không đủ. Bấy giờ, tôn                              giả Xá-lợi-phất đến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm                              bát vào thành Xá-vệ tuần tự khất thực, lần lượt đến                              gia đình ấy. Người vợ của Pháp Dự vốn có tín tâm,                              nên rất hoan hỉ, hơn nữa, bà đã từng quen biết Tôn                              giả Xá-lợi-phất từ trước nên đem cái bát bằng đồng                              rửa sạch múc đầy thức ăn, bưng ra sớt vào bát của                              Xá-lợi-phất, rồi cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu                              một bên. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi bà: "Nghề nghiệp                              sinh kế trong nhà thế nào?"                                                           Bà đáp: "Việc sinh                              kế trong nhà không được phát đạt".                                                           Tôn giả hỏi: "Vì sao                              thế?"                                                           Bà đáp: "Chồng con                              mời Chư Tăng về cúng dường bát. Các Tỉ-kheo người                              thì lấy 1 cái, 2 cái thậm chí có người lấy 10 cái.                              Thế nên, làm bát cung cấp không đủ, việc sinh kế                              trong nhà không xoay xở nổi. Tại vì sao? Vì gia đình                              con, lớn nhỏ, ăn uống, trang phục, cung cấp cho vua                              chúa, thuế khoá đều dựa vào nghề làm đồ gốm mà sinh                              hoạt. Thầy là người được gia đình con tôn trọng,                              cúng dường, nên mới dám bộc bạch như thế".                                                           Khi ấy, tôn giả                              Xá-lợi-phất thuyết pháp rộng rãi cho bà ta sinh tâm                              hoan hỉ, rồi ra về. [314c] Khi về đến tinh xá, tôn                              giả bèn đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền                              bảo gọi các Tỉ- kheo tới. Khi họ tới rồi, Phật hỏi:                              "Các ông có việc đó thật không?"                                                           Họ đáp:"Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật nói với các                              Tỉ-kheo: "Nếu thí chủ không biết tính toán, thì                              người thọ nhận phải biết cân nhắc".                                                            Rồi Phật nói: "Từ                              nay trở đi, Tỉ-kheo có bát thừa, chỉ cho phép cất                              trong một ngày mà thôi".                                                                                        Lại nữa, khi Phật an                              trú tại Tì-xá-li nơi tinh xá có lầu gác trong rừng                              Ðại lâm, nói rộng như trên. Hằng năm, dân chúng tại                              Tì-xá-li thường mời chư Tăng thọ trai rồi cúng dường                              bát. Nhưng các Tỉ-kheo không dám nhận bát, vì Thế                              Tôn chỉ cho phép họ chứa bát thừa trong một ngày,                              nếu để lâu hơn một ngày thì thành ra vật bất tịnh.                              Khi ấy, thí chủ nói: "Chúng con sẽ đến Thế Tôn trình                              bày nguyện vọng Này?".                                                            Thế rồi, họ đi đến                              Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng                              hầu một bên, bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Hằng năm                              chúng con mời chư Tăng thọ trai rồi cúng dường bát,                              nhưng các Tỉ-kheo không thọ nhận và nói: "Tôi nhận                              cái bát Này làm gì, vì chưa dùng đến mà thành ra bất                              tịnh rồi". Lành thay, bạch Thế Tôn! Có phương tiện                              nào giúp khai thông để cho người bố thí được công                              đức, và người thọ dụng được lợi ích hay không?".                                                           Phật nói: "Ta cho                              phép một ngày (đã cho phép) trước kia thêm chín ngày                              nữa".                                                           Thế rồi, các Tỉ-kheo                              chứa bát dư đủ mười ngày, bèn cầm bát đến chỗ Phật                              bạch rằng: "Cái bát Này đã đủ mười ngày, giờ đây                              phải làm sao?"                                                           Phật dạy: "Này các                              Tỉ-kheo, cái bát ấy nên tác tịnh cho các Tỉ-kheo                              quen biết, cứ mười hôm cất cái cũ, dùng cái mới thay                              đổi một lần".                                                            Rồi Phật truyền lệnh                              cho các Tỉ-kheo đang sống tại Tì-xá-li tập họp lại                              tất cả, vì mười việc lợi ích mà chế giới cho các                              Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                            --"Nếu Tỉ-kheo có                              bát thừa được chứa trong mười ngày, nhưng để quá                              mười ngày thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề ".                                                           Giải thích:                                                            - Mười ngày:                              Ðược cất chứa trong khoảng mười ngày.                                                           - Bát thừa:                              Cái bát được phép sử dụng ngoài cái bát (đã qui                              định).                                                           - Bát:                              Có các loại: 1 - bát Tham-bà; 2 - bát                              Ô-ca-tư-ma; 3- bát Ưu-ca-tra-da; 4- bát Ða-kì-da; 5                              - bát Sắt; 6 - bát Trí-diệp-ni; 7 - bát Tất-lệ-thâu;                              8 - bát Thượng; 9 - bát Trung; 10 - bát Hạ; 11 -                              Quá-bát; 12 - Phi-bát; 13 - Tùy-bát.                                                           8- Bát thượng: Tại                              nước Ma-kiệt-đề, cứ một A-la-gạo được nấu thành cơm                              và canh rau thì đựng vừa đầy bát. Một A-la bằng một                              đấu 6 thăng của Trung Quốc.                                                           9- Bát trung: Cứ nửa                              A-la-gạo nấu thành cơm và cả canh rau thì đựng vừa                              đầy bát.                                                           10- Bát hạ: Chứa                              được một Bát-tha-gạo nấu thành cơm và canh rau, cứ 3                              phần cơm thì một phần canh rau.                                                           11- Quá bát: Một                              A-la-gạo được nấu thành cơm [315a] và cả canh rau                              vẫn đựng không đầy bát Này. Ðó gọi là quá bát.                                                           12- Phi bát: Chứa                              không hết một bát tha gạo được nấu thành cơm và canh                              rau. Ðó gọi là phi bát.                                                           13- Tùy bát: Tùy                              theo những thứ cần thiết mà đựng vào trong đó.                                                           Ở đây, nếu cất bát                              thượng, bát trung, bát hạ quá 10 ngày, thì phạm                              Ni-tát-kì Ba-dạ-đề, ngoài ra cất các loại bát khác                              không phạm.                                                           - Ni-tát-kì                              Ba-dạ-đề: Như trên đã giải thích.                                                           Nếu Tỉ-kheo vào ngày                              mồng một đầu tháng nhận được 10 cái bát mà không tác                              tịnh, để qua khỏi ngày thứ 10, thì tất cả các bát ấy                              đều phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Giá như ai không hiểu                              cách thọ trì, không hiểu cách tác tịnh, thì nên dạy                              họ thọ trì như thế, tác tịnh như thế. Nghĩa là như                              trong giới trường y thứ nhất đã trình bày rõ, ở đây                              chỉ khác là bát thay vì y mà thôi. Thế nên nói (như                              trên).                                                           (Hết giới Ni-tát-kì                              20)                                                                                                                        21. GIỚI: BÁT CŨ                              CHƯA HƯ MÀ TÌM BÁT MỚI.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ ở thành Này                              có một người thợ gốm tên Pháp Dự mời chư Tăng về                              cúng dường bát. Các Tỉ-kheo vì ưa đẹp nên đem bát cũ                              đổi bát mới, rất nhiều người làm như vậy. Do đó, thí                              chủ không cung cấp nổi. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất                              đến giờ khất thực, khoác y, cầm bát vào thành tuần                              tự khất thực, đến gia đình Pháp Dự, đứng trước cửa.                              Bà vợ của Pháp Dự với Tôn giả Xá-lợi-phất vốn là chỗ                              quen biết nhau từ trước, bà lại có lòng kính tín,                              nên rất hoan hỉ, cho đến nói: "Thưa tôn giả, chồng                              con mời chư Tăng đến cúng dường bát. Các Tỉ-kheo vì                              thích bát đẹp nên đem bát cũ đến đổi bát mới, khiến                              nhà con chứa bát cũ chất cao như núi. Gia đình con                              là nhà thế tục, bát mới còn không dùng, huống gì là                              bát cũ. Thưa Tôn giả, mọi sinh hoạt trong gia đình                              con chỉ trông cậy vào nghề làm bát".                                                            Thế rồi, Xá-lợi-phất                              tùy thuận thuyết pháp, khiến bà sinh tâm hoan hỉ,                              đảnh lễ dưới chân rồi cáo lui. Ðoạn thầy trở về tinh                              xá, đem sự tình ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bèn                              bảo gọi các Tỉ-kheo đến. Sau khi họ đã đến, Phật                              liền hỏi: "Các ông có làm việc đó thật chăng?"                                                           Các Tỉ-kheo đáp: "Có                              thật như thế, bạch Thế Tôn".                                                           Phật dạy: "Từ hôm                              nay trở đi, ta không cho các Tỉ-kheo xin bát (nơi                              đàn việt)".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có                              60 Tỉ-kheo ở phương Bắc muốn đến tinh xá Kỳ Hoàn                              đảnh lễ Phật, nhưng giữa đường bị bọn cướp lấy mất                              hết bát, nên không có bát để tới Kỳ Hoàn. Lúc ấy,                              các vị phạm hạnh mỗi người cho một cái bát. Khi họ                              được bát rồi bèn đi đến Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ                              chân Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết nhưng vẫn                              hỏi: "Này các Tỉ-kheo, các ông từ đâu đến?".                                                           Họ đáp: "Từ phương                              Bắc đến".                                                           Phật lại hỏi các                              Tỉ-kheo: "Ði đường có an ổn không?"                                                           Họ đáp: "Không an                              ổn, giữa đường gặp bọn cướp nên mất hết bát, [315b]                              do đó, không có bát để đi vào Kỳ Hoàn, may nhờ các                              vị Phạm-hạnh mỗi người cho chúng con một cái bát".                                                           Phật lại hỏi: "Dọc                              đường không có thành ấp xóm làng hay sao?"                                                           Họ đáp: "Có".                                                           Phật lại hỏi: "Vì                              sao không xin bát?"                                                           Họ đáp: "Vì chúng                              con nghe Thế Tôn chế giới không cho xin bát, lại                              không có thí chủ".                                                           Phật tán thán: "Lành                              thay! Lành thay các Tỉ-kheo! Các ông là những người                              có lòng tin xuất gia, đúng phép phải như vậy, dù cho                              mất mạng cũng không được phạm giới. Từ nay trở đi,                              Ta cho phép khi mất bát được quyền xin bát".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ 60                              Tỉ-kheo ở phương Bắc bị mất bát, đi đến Kỳ Hoàn, Tôn                              giả Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà nói với họ: "Các Trưởng                              lão, Ðức Thế Tôn cho phép ai mất bát được quyền xin                              bát, vì sao không xin?"                                                           Họ đáp: "Các vị phạm                              hạnh đã cho chúng tôi bát rồi".                                                           Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà                              lại nói: "Các Vị không xin những gì mình được phép                              xin, thành ra thất lợi".                                                           Họ đáp: "Chúng tôi                              đã được bát rồi, thất lợi với chẳng thất, không                              thành vấn đề".                                                           Nan-đà nói: "Tôi sẽ                              xin giúp cho các vị".                                                           Họ đáp: "Thầy tự                              biết phải làm gì", cho đến Ưu-bà-tắc nói: "Tôn giả                              muốn làm cửa hàng đồ gốm chăng?", như đã được nói rõ                              ở mục xin y.                                                           Các Tỉ-kheo nghe                              việc ấy, bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi:                              "Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà, các ông có việc đó thật                              chăng?"                                                           Họ đáp: "Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật hỏi: "Vì lý do                              gì mà xin?"                                                           Họ đáp: "Con xin cho                              các Tỉ-kheo bị mất bát".                                                           Phật bảo gọi các                              Tỉ-kheo bị mất bát đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi:                              "Các Tỉ-kheo, các ông bảo Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà xin                              bát phải không?"                                                           Các Tỉ-kheo đáp:                              "Không có, bạch Thế Tôn".                                                           Phật nói: "Vậy thì                              vì lý do gì mà xin?".                                                            Họ liền trình bày                              lại sự việc kể trên .                                                           Phật nói với các                              Tỉ-kheo: "Hai ông Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà Này việc                              không nên xin lại xin, việc đáng xin lại không                              xin".                                                            Thế rồi, Phật nói                              với Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà: "Ðó là việc xấu, các ông                              không từng nghe ta dùng vô số phương tiện tán thán                              thiểu dục, khiển trách đa dục hay sao? Ðó là việc                              phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng                              việc Này để nuôi lớn thiện pháp được".                                                            Ðoạn Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo dùng                              bát chưa vá đến 5 lần mà vì thích đẹp, xin bát mới,                              thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Cái bát ấy phải thí xả                              giữa chúng Tăng, rồi Tăng đem cái bát chót nhất trao                              cho thầy ấy, dạy như sau: 'Này Tỉ-kheo, thầy hãy                              nhận cái bát này sử dụng cho đến khi vỡ', nguyên tắc                              phải như vậy".                                                           Giải thích:                                                            - Chưa đủ 5                              miếng vá: Nếu có một miếng vá, hoặc [315c]                              từ 2 miếng cho đến 4 miếng thì gọi là chưa đủ 5                              miếng vá.                                                           - Ðủ 5 miếng                              vá: Ðã có 5 miếng vá, và mức độ đã đủ. Mức                              độ ở đây được quy định là chỗ vỡ được vá lại xấp xỉ                              bằng ngón chân cái.                                                           - Bát:                              Như trên đã nói.                                                           - Mới:                              Vừa hoàn thành.                                                           - Lại tìm thêm                              nữa: Hoặc xin, hoặc khuyến hóa, vì thích                              đẹp, rồi chê bát của mình đang dùng là lớn quá, nhỏ                              quá, nặng quá, nhẹ quá, hoặc thô kệch quá ..., tự                              nghĩ: "Ta có đàn việt, có đất sét, có tay nghề, ta                              nên làm cái bát khác cho đẹp". Nếu như thế thì vị                              Tỉ-kheo Này phải cầm cái bát mới ấy đến thí xả giữa                              chúng Tăng. Rồi chúng Tăng chọn một cái bát kém nhất                              đưa cho Tỉ-kheo Này và căn dặn: "Này trưởng lão,                              thầy phải nhận cái bát Này sử dụng cho đến khi vỡ                              không được cố ý đập bể; lại phải sám hối tội                              Ba-dạ-đề". Nếu không đem cái bát mới ấy xả giữa                              chúng Tăng mà sám hối tội Ba-dạ-đề thì phạm tội Việt                              tì-ni .                                                           - Ba-dạ-đề:                              Như trên đã nói. Thầy Tỉ-kheo ấy dùng bát chưa vá                              (hàn) đủ 5 chỗ mà vì thích đẹp, đi tìm bát mới nên                              phạm Ni-tát-kì. Tỉ-kheo ấy phải mời một vị trì luật,                              biết làm Yết-ma và thành tựu 5 pháp, rồi Tăng làm                              Yết-ma cử vị Này đứng ra xử lý công việc. Vị Này                              phải hội đủ 5 yếu tố: Không thiên vị, không giận dữ,                              không sợ sệt, không si ám, ai đưa, ai không đưa đều                              biết. Ðó gọi là 5 yếu tố. Người làm Yết-ma nên nói                              như sau:                                                           "Xin đại đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nếu                              thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng sai                              Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát (giải quyết công                              việc).Ðây là lời tác bạch:                                                            Xin đại đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, Tăng                              nay sai Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát. Các đại                              đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát                              thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Tăng đã                              bằng lòng sai Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát                              xong, vì tất cả đều im lặng. Việc ấy cứ như thế mà                              thi hành".                                                           Khi làm Yết-ma xong,                              nên tuyên bố giữa chúng Tăng: "Những cái bát mà đại                              đức Tăng đang sử dụng phải đem đến tất cả". Nếu                              không tuyên bố như vậy thì phạm tội Việt tì-ni .                                                           Thế rồi, mỗi Tỉ-kheo                              đều phải mang cái bát mà mình đang sử dụng đến. Nếu                              có Tỉ-kheo nào để cái bát mình đang sử dụng ở nhà,                              rồi đem cái bát kém nhất đến, thì phạm tội Việt                              tì-ni . Người làm Yết-ma nên bảo Tỉ-kheo Này đặt cái                              bát ấy xuống, trật vai áo bên phải, quỳ gối bên phải                              xuống đất, nói: "Con là Tỉ-kheo mỗ giáp, dùng cái                              bát chưa đủ 5 miếng vá mà vì ưa đẹp, đi tìm bát mới,                              nay con đem thí xả giữa chúng Tăng".                                                           Vị luật sư nên hỏi:                              "Ông đã sử dụng chưa?" Nếu đáp rằng đã sử dụng thì                              nên nói: "Ông đã sử dụng bát bất tịnh (không đúng                              pháp) nên đã phạm vô lượng tội Việt tì-ni, phải sám                              hối".                                                           Thế rồi, vị Này phải                              nói: "Thưa trưởng lão, [316a] con là mỗ giáp, có cái                              bát dùng chưa đủ 5 miếng vá mà con lại xin bát mới,                              nay đem thí xả giữa chúng Tăng, trong đây phạm tội                              Ba-dạ-đề vì dùng bát bất tịnh, lại phạm vô lượng tội                              Việt tì-ni, con xin sám hối tất cả".                                                           Người làm Yết-ma                              hỏi: "Ông có thấy tội không?"                                                           Ðáp: "Thấy".                                                           - Cẩn thận chớ có                              tái phạm.                                                           - Xin cúi đầu chấp                              hành.                                                           Người hành bát (được                              Tăng sai) phải đem cái bát Này đến đưa cho vị lớn                              nhất trong Tăng (Thượng tọa). Nếu Thượng tọa thứ                              nhất nhận, thì phải đem cái bát của Thượng tọa đưa                              cho Thượng tọa thứ hai, cứ tuần tự như thế cho đến                              vị Tỉ-kheo không có tuổi hạ. Nếu hoàn toàn không có                              ai lấy, thì cái bát kia nên trao lại cho chủ cũ.                              Nhưng nếu cái bát ấy quí giá thì nên đem bán rồi mua                              10 cái, 9 cái đem cất vào nhà bếp của chúng Tăng,                              một cái giao lại cho chủ cũ và bảo: "Thầy hãy sử                              dụng cái bát Này cho đến khi vỡ".                                                           Thầy Tỉ-kheo cầm cái                              bát vá vào thôn xóm khất thực, và khi ăn xong nên gỡ                              miếng vá ra, rồi dùng tro, đất rửa cho sạch. Khi                              rửa, không được dùng vật cứng xoi vào lỗ hủng khiến                              nó bể vỡ, mà nên dùng lông chim xoi vào. Khi rửa                              bát, cũng không được dùng cát chà xát khiến nó phai                              màu mà phải dùng bùn đất để chà, hoặc dùng nước rễ                              cây, nước lá cây, nước trái cây, nước hoa cây để                              rửa. Khi rửa, không được đến trên bờ hố, chỗ nguy                              hiểm, hoặc dưới cây xoài có trái chín, hoặc dưới cây                              dừa, trên tảng đá, trên gạch, chỗ đường đi, chỗ cửa                              mở. Khi rửa xong phải để vào trong túi rồi đem cất                              trên vách, trong tủ, dùng vật gì đậy lên miệng bát.                                                            Nếu có việc gấp gáp                              không rửa sạch được thì nên dùng nước rễ, nước lá                              chùi qua, để khi xong việc sẽ rửa. Sáng sớm, rửa                              xong mới mang vào làng khất thực. Giá như bát vá khó                              dùng, thì mỗi ngày dùng xong phải rửa sạch. Nếu cố ý                              đập bể thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu Hoà thượng,                              A-xà-lê, những bạn bè quen biết suy nghĩ: "Vị                              Tỉ-kheo hiền thiện Này vì việc rửa bát mà phương hại                              đến sự ngồi thiền, trì kinh, tụng kinh". Rồi đập vỡ,                              hoặc đem giấu đi khiến Tỉ-kheo tìm không thấy, rồi                              xin cái khác, thì không có tội. Khi không có bát mà                              xin được môït cái thì phải sử dụng. Nếu xin được 2                              cái, thì dùng một cái, một cái nên đem cất vào nhà                              bếp của chúng Tăng. Thậm chí, nếu xin được 10 cái                              thì nên dùng một cái, cò 9 cái kia nên đem cất vào                              nhà bếp của chúng Tăng.                                                           Nếu Tỉ-kheo không có                              bát rồi đi tìm bát, bèn nhận được giá tiền của một                              cái bát, cũng được xem là có bát. Nếu xin được giá                              tiền của 2 cái bát, thì phải bỏ vào ngân quỹ của                              chúng Tăng giá tiền một cái. [316b] Thậm chí, nếu                              được giá tiền của 10 cái bát, thì nên bỏ vào ngân                              quỷ của chúng Tăng giá tiền của 9 cái. Thế nên nói                              (như trên).                                                           (Hết giới Ni-tát-kì                              21)                                                                                                                        22. GIỚI: CẤT                              THUỐC QUÁ HẠN.                                                           Khi Phật an trú tại                              tinh xá Kỳ Hoàn nơi thành Xá-vệ, nói rộng như trên.                              Vì 5 việc lợi ích nên cứ 5 hôm, Thế Tôn đi thị sát                              phòng xá các Tỉ-kheo một lần, Phật thấy chỗ ở của                              Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà để đầy các bình sữa, dầu, mật,                              đường phèn, nước rỉ ra, và các thứ rễ thuốc, cây                              thuốc, lá thuốc, hoa thuốc và trái thuốc. Phật biết                              nhưng vẫn hỏi: "Này các Tỉ-kheo, chỗ ở của ai đây mà                              để đầy các bình sữa, dầu, mật ... nước rỉ ra khắp cả                              thế này?"                                                           Các Tỉ-kheo đáp:                              "Bạch Thế Tôn! Ðó là chỗ ở của Nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà".                                                           Khi ấy, Thế Tôn nói:                              "Ðợi họ đến ta sẽ hỏi".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại tinh xá có lầu gác trong rừng Ðại Lâm ở                              Tì-xá-li, nói rộng như trên. Ðến giờ khất thực, Thế                              Tôn khoác y cầm bát cùng với nhiều Tỉ-kheo sắp vào                              thành Tì-xá-li khất thực thì thấy Ưu-ba-nan-đà cầm                              một bát mật đầy đi ra. Thấy thế, Phật biết mà vẫn                              hỏi: "Trong bát này đựng thứ gì vậy?".                                                            Thầy đáp: "Bạch Thế                              Tôn! Ðó là mật".                                                           Phật lại hỏi: "Dùng                              để làm gì?"                                                           Thầy đáp: "Nan-đà                              bệnh đang cần nó".                                                           Phật hói: "Nhiều                              quá".                                                           Thầy đáp: "Phải uống                              suốt ngày".                                                           Phật nói: "Vì sao                              chứa thuốc uống suốt ngày? Từ nay trở đi không được                              chứa thuốc để uống suốt ngày nữa".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại tinh xá của dòng họ Thích bên cây                              Ni-câu-luật, trong thành Ca Duy La Vệ, vì 5 việc lợi                              ích nên cứ 5 hôm Thế Tôn đi tuần tra phòng xá các                              Tỉ-kheo một lần. Năm việc lợi ích đó là:                                                            1. Xem các đệ tử                              Thanh văn có bận tâm đến các việc hữu vi không;                                                            Chính vì 5 việc ấy                              mà cứ 5 hôm Như Lai đi xem xét các phòng. Khi ấy                              Phật thấy một Tỉ-kheo đang bệnh, nhan sắc tiều tụy,                              vàng vọt ốm yếu, Ngài biết nhưng vẫn hỏi:                                                            - Tỉ-kheo, ông có                              được điều hòa không?                                                           - Bạch Thế Tôn! Con                              bị bệnh, đau khổ, không điều hòa.                                                           - Ông không thể đòi                              thức ăn hợp với bệnh và thuốc trị bệnh sao?                                                           - Vì Thế Tôn chế                              giới có thuốc phải uống liền không được cất lâu, nên                              con mới bị khổ.                                                           Thế rồi, Phật nói                              với các Tỉ-kheo: "Từ hôm nay trở đi ta cho phép                              Tỉ-kheo bệnh được cất thuốc qua một ngày".                                                           Khi ấy Phật hỏi                              Nan-đà: "Lúc ở Xá-vệ ông thường cất chứa nhiều sữa,                              dầu, mật, đường phèn phải không?"                                                           Thầy đáp: "Có thật                              như vậy, bạch Thế tôn".                                                           Phật liền khiển                              trách: "[316c] Vì sao ông lại đa dục không biết                              chán? Từ nay trở đi Ta không cho phép cất chứa nhiều                              thức ăn".                                                           Lại nữa, khi Phật                              trú tại Ba-la-nại trong vườn nai của tiên nhân, nói                              rộng như trên. Bấy giờ có một y sĩ xuất gia hành                              đạo, chữa bệnh cho 60 Tỉ-kheo đau ốm. Thầy đi đến                              thăm viếng Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi                              đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: "Này Tỉ-kheo                              y sĩ, các Tỉ-kheo bệnh có điều hòa không?                                                           Thầy đáp: "Bạch Thế                              Tôn! Các Tỉ-kheo bệnh an ổn, nhưng con thì lao khổ".                                                           Phật hỏi: "Vì sao                              vậy?"                                                           Thầy đáp: "Bạch Thế                              Tôn! Thành Ba La Nại cách đây nửa do tuần, vì phải                              tìm những thứ cần dùng, hằng ngày con phải đi về, vì                              thế mà lao khổ. Vả lại, Thế Tôn chỉ cho phép Tỉ-kheo                              bệnh cất thuốc trong một ngày mà bệnh tật thì chưa                              khỏi".                                                           Phật lại hỏi Tỉ-kheo                              y sĩ: "Vậy thì nên chứa thuốc chừng bao nhiêu ngày                              là an ổn?"                                                           Thầy đáp: "Bạch Thế                              Tôn! Dùng liên tục 7 ngày thì mới có thể biết rõ                              hiệu lực của thuốc".                                                           Phật dạy: "Từ hôm                              nay trở đi, Ta cho phép được cất thêm 6 ngày nữa,                              với một ngày trước kia, thành ra 7 ngày".                                                           Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại Ba La Nại phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo bị                              bệnh cần phải uống các thứ sữa, dầu, mật, đường                              phèn, sinh tô, mỡ, thì được phép cất 7 ngày để uống.                              Nếu để quá 7 ngày mà còn cất thuốc để uống không xả                              bỏ thì phạm tội Ni-tát-kì Ba-dạ-đề ".                                                           Giải thích:                                                            - Bệnh cần                              uống thuốc: Như sữa, dầu, mật, đường phèn,                              sinh tô, mỡ như đã nói trong giới ăn trộm.                                                           - Bệnh:                              Gồm có 404 bệnh, bệnh phong có 101, bệnh hỏa có 101,                              bệnh thủy có 101 và bệnh tạp cũng có 101. Nếu gặp                              bệnh phong, nên dùng dầu, mỡ để chữa trị; gặp bệnh                              nhiệt, nên dùng sữa để trị; gặp bệnh thủy, nên dùng                              mật chữa trị; gặp bệnh tạp, nên dùng cả 3 loại thuốc                              trên để trị.                                                           - Bảy ngày:                              Mức độ tối đa.                                                           - Cất trong 7                              ngày: Nhận thuốc về dùng trong 7 ngày, nếu                              để quá 7 ngày uống thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề .                                                           - Ni-tát-kì                              Ba-dạ-đề: Thứ thuốc ấy phải đem ra thí xả                              giữa chúng Tăng rồi sám hối tội Ba-dạ-đề. Nếu không                              thí xả mà sám hối, thì phạm tội Việt tì-ni .                                                           - Ba-dạ-đề:                              Như trên đã nói.                                                           Nếu Tỉ-kheo một ngày                              được 10 loại thuốc như sữa, dầu, mật, đường phèn,                              sinh tô và 5 thứ mỡ thì được uống tất cả 7 ngày                              không cần tác tịnh, nếu để quá 7 ngày thì tất cả                              phạm Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo một ngày                              được 10 loại thuốc, một nửa tác tịnh, [317a] một nửa                              không tác tịnh, trong đó, loại được tác tịnh thì                              đúng pháp, loại không tác tịnh mà để quá 7 ngày thì                              phạm Ni-tát-kì.                                                           Nếu Tỉ-kheo một ngày                              được 10 loại thuốc, thì như trong giới y thừa ở trên                              đã nói rõ, trong đây khác nhau là thời gian của                              thuốc chỉ có 7 ngày. Cho đến không nhớ rõ mà tưởng                              nhớ rõ, đó không gọi là tác tịnh. Dầu thắp đèn, dầu                              thoa chân, dầu thoa mình không nhớ rõ, không tác                              tịnh, để quá 7 ngày, phạm Ni-tát-kì.                                                           - Tác tịnh                              không đúng pháp: Nếu tác tịnh với người                              không có tâm ý (không hay biết), để quá 7 ngày phạm                              Ni-tát-kì.                                                           Nên tác tịnh với                              Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di,                              Sa-di-ni, người thế tục, súc sinh .                                                           Có các trường hợp:                              Súc dược lợi, súc dược lợi tương ô; súc dược lợi,                              bất súc dược lợi tương ô; bất súc dược lợi, súc dược                              lợi bất tương ô; bất súc dược lợi, bất súc dược lợi                              bất tương ô; tục nhân dược lợi ô Tỉ-kheo dược lợi;                              Tỉ-kheo dược lợi ô tục nhân dược lợi; tục nhân dược                              lợi ô tục nhân dược lợi; Tỉ-kheo dược lợi ô Tỉ-kheo                              dược lợi; Khách Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi; Cựu                              Tỉ-kheo lợi ô khách Tỉ-kheo lợi; Khách Tỉ-kheo lợi ô                              khách Tỉ-kheo lợi; Cựu Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo                              lợi; Tăng lợi ô Tỉ-kheo lợi; Tỉ-kheo lợi ô tăng lợi;                              Tăng lợi ô Tăng lợi; Tỉ-kheo lợi ô Tỉ-kheo lợi; Hữu                              thực gian, phi thọ gian; hữu thọ gian, phi thực                              gian; hữu thực gian, hữu thọ gian; hữu phi thực                              gian, phi thọ gian; bình đường phèn; dầu thắp đèn;                              sữa lạc; mỡ.                                                           - Súc dược                              lợi, súc dược lợi tương ô: Nếu Tỉ-kheo trước                              bữa ăn được đường phèn, tạp thực còn thừa không tác                              tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn cũng không tác                              tịnh mà lấy cất; đó gọi là súc dược lợi súc dược lợi                              tương ô (thức ăn cất trước, thức ăn cất sau hoen ố                              lẫn nhau).                                                           - Súc dược                              lợi, bất súc dược lợi tương ô: Tỉ-kheo trước                              bữa ăn được đường phèn, tạp thực, bèn ăn không tác                              tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn đem tác tịnh                              rồi lấy cất. Ðó gọi là súc dược lợi bất súc dược lợi                              tương ô.                                                           - Bất súc dược                              lợi, súc dược lợi bất tương ô: Nếu Tỉ-kheo                              trước bữa ăn được đường phèn, không ăn tạp đem tác                              tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn thừa không tác                              tịnh mà nhận lấy. Ðó gọi là bất súc dược lợi súc                              dược lợi bất tương ô.                                                           - Bất súc dược                              lợi, bất súc dược lợi, bất tương ô: Nếu                              Tỉ-kheo trước bữa ăn được đường phèn, không ăn tạp,                              liền đem tác tịnh mà ăn, sau đó lại được đường phèn                              tác tịnh rồi nhận lấy. Ðó gọi là bất súc dược lợi,                              bất súc dược lợi, bất tương ô.                                                           - Tục nhân                              (dược) lợi ô Tỉ-kheo (dược) lợi: Bấy giờ có                              Ưu-bà-tắc đến đảnh lễ [317b] chân Tỉ-kheo, Tỉ-kheo                              có đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn hỏi Ưu-bà-tắc:                              "Ông muốn uống nước đường phèn không?"Ông ta đáp:                              "Muốn uống". Thế rồi, ông ta mang đường phèn ấy đi                              đến đảnh lễ các Tỉ-kheo khác, hỏi: "Tôn giả muốn                              uống nước đường phèn không?"Tỉ-kheo ấy đáp: "Muốn                              uống". Tỉ-kheo Này được đường phèn trong ngày không                              tác tịnh mà lấy. Ðó gọi là tục nhân lợi ô Tỉ-kheo                              lợi.                                                           - Tỉ-kheo                              (dược) lợi ô tục nhân (dược) lợi: Có một                              Ưu-bà - tắc đem đường phèn đến, đảnh lễ chân                              Tỉ-kheo, Tỉ-kheo có đường phèn cất đến ngày thứ 7,                              bèn hỏi Ưu-bà-tắc: "Ông có muốn uống nước đường phèn                              không?". Ông ta đáp: "Muốn uống"liền lấy đổ chung                              vào trong bình rồi đi. Lại có một Ưu-bà-tắc khác đem                              đường phèn đến, hai người gặp nhau giữa đường.                              Ưu-bà-tắc trước hỏi Ưu-bà-tắc sau: "Ông định đi đâu                              đó?". Ông ta đáp: "Tôi muốn đem đường phèn Này đến                              cho Tỉ-kheo mỗ giáp". Ông Này liền nói: "Ông hãy                              mang phần đường phèn Này đến cho Tỉ-kheo mỗ giáp ấy                              giúp tôi". Ông ta liền nhận mang đi. Ðó gọi là                              Tỉ-kheo lợi ô tục nhân lợi.                                                           - Tục nhân                              (dược) lợi ô tục nhân (dược) lợi: Cả 2 người                              đều khác biệt nhau(?)                                                           - Tỉ-kheo                              (dược) lợi ô Tỉ-kheo (dược) lợi: Tỉ-kheo có                              nước đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn hỏi Tỉ-kheo                              khác: "Thầy muốn uống nước đường phèn không? "Thầy                              ấy đáp: ‘Muốn uống". Rồi Tỉ-kheo ấy ngay trong ngày                              được đường phèn, không tác tịnh mà nhận lấy. Ðó gọi                              là Tỉ-kheo lợi ô Tỉ- kheo lợi.                                                           - Khách                              Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi: Tỉ-kheo khách                              có đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn hỏi Cựu                              Tỉ-kheo: "Thầy muốn uống nước đường phèn không?"Vị                              kia đáp: "Muốn uống". Thế rồi, Cựu Tỉ-kheo Này ngay                              trong ngày ấy được đường phèn không tác tịnh mà nhận                              lấy. Ðó gọi là khách Tỉ-kheo lợi ô Cựu Tỉ-kheo lợi.                                                           - Cựu Tỉ-kheo                              lợi ô khách Tỉ-kheo lợi: Có tỉ-kheo khách                              đến, rồi cựu tỉ-kheo có đường phèn cất 7 ngày, nói                              với tỉ-kheo khách: "thầy muốn uống nước đường phèn                              không?". thầy liền đáp: "muốn uống". Thế rồi,                              tỉ-kheo khách Này được đường phèn ngay trong ngày,                              không tác tịnh mà nhận lấy. đó gọi là cựu tỉ-kheo                              lợi ô khách tỉ-kheo lợi.                                                           - Khách                              Tỉ-kheo lợi ô khách Tỉ-kheo lợi: Có 2 khách                              Tỉ-kheo đến một trú xứ, Vị Này có đường phèn để 7                              ngày, bèn hỏi vị kia: "Thầy muốn uống nước đường                              phèn không?"Vị kia đáp: "Muốn uống". Thế rồi, ngay                              trong ngày, thầy được đường phèn, không tác tịnh mà                              nhận lấy. Ðó gọi là khách Tỉ-kheo lợi ô khách                              Tỉ-kheo lợi.                                                           - Cựu Tỉ-kheo                              lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi: Một cựu Tỉ-kheo có                              [317c] đường phèn để 7 ngày, hỏi một cựu Tỉ-kheo                              khác: "Thầy muốn uống nước đường phèn không?". Thầy                              liền đáp: "Muốn uống". Thế rồi, ngay trong ngày,                              thầy được đường phèn, không tác tịnh mà nhận lấy. Ðó                              gọi là cựu Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi.                                                           - Tăng lợi ô                              Tỉ-kheo lợi: Tăng có đường phèn để 7 ngày                              đem chia cho Tỉ-kheo, Tỉ-kheo Này ngay trong ngày                              được đường phèn, không tác tịnh mà thọ nhận. Ðó gọi                              là Tăng lợi ô Tỉ-kheo lợi.                                                           - Tỉ-kheo lợi                              ô Tăng lợi: Tỉ-kheo có đường phèn để 7 ngày                              liền mang đến cúng dường Tăng, Tăng được đường phèn                              ngay trong ngày, không tác tịnh mà nhận lấy. Ðó gọi                              là Tỉ-kheo lợi ô Tăng lợi.                                                           - Tăng lợi ô                              Tăng lợi: Tăng có đường phèn để 7 ngày đem                              ra cúng dường cho Tăng, Tăng Này nhận được đường                              phèn ngay trong ngày, không tác tịnh mà nhận lấy. Ðó                              gọi là Tăng lợi ô Tăng lợi,                                                           - Tỉ-kheo lợi                              ô Tỉ-kheo lợi: Tỉ-kheo có đường phèn để 7                              ngày, rồi hỏi Tỉ-kheo khác: "Thầy có muốn uống nước                              đường phèn không?". Vị Này đáp: "Muốn uống". Thế                              rồi, Tỉ-kheo Này ngay trong ngày nhận được đường                              phèn, không tác tịnh mà nhận lấy. Ðó gọi là Tỉ-kheo                              lợi ô Tỉ-kheo lợi.                                                           - Hữu thực                              gian phi thọ gian: Nếu Tỉ-kheo 7 ngày ăn                              đường phèn, rồi nhận thêm đường phèn nữa, ngày thứ 8                              lại ăn. Vì không để gián đoạn nên phạm tội Việt                              tì-ni . Cần phải để gián đoạn một ngày. Ðó gọi là                              hữu thực gian phi thọ gian.                                                           - Thọ gian phi                              thực gian: Nếu Tỉ-kheo nhận đường phèn để 7                              ngày không ăn, đến ngày thứ 8 lại nhận thêm đường                              phèn khác, không để gián đoạn mà thọ nhận nên phạm                              tội Việt tì-ni . Cần phải để gián đoạn một ngày. Ðó                              gọi là thọ gian phi thực gian.                                                           - Thọ gian                              thực gian: Nếu Tỉ-kheo 7 ngày nhận được                              đường phèn rồi ăn, đến ngày thứ 8 lại nhận được                              đường phèn cũng ăn, như vậy là phạm 2 tội Việt tì-ni                              .                                                           - Phi thọ gian                              phi thực gian: Nếu Tỉ-kheo do tụng kinh                              nhiều bị bệnh phổi, thổ huyết, rồi thầy thuốc bảo:                              "Bệnh Này nên uống thường xuyên đường phèn". Thì                              trước bữa ăn được ăn đường phèn, sau bữa ăn tác tịnh                              rồi cũng được ăn. Ðó gọi là phi thọ gian, phi thực                              gian.                                                           - Bình đường                              phèn: Như ở nước Vũ-La, người muốn thọ giới                              cụ túc, sau khi thọ giới tại giới trường, bèn đem bố                              thí cho chúng Tăng mỗi người một bình đường phèn.                              Các Tỉ-kheo có tín tâm thích làm công đức bèn mang                              bình đường phèn ấy đến cúng dường Thượng tọa. Thượng                              tọa có tín tâm, nên nói: "Tăng là phước điền tốt                              nhất". Thế là vị ấy đem bố thí cho Tăng. Các Tỉ-kheo                              có đường phèn cất 7 ngày, còn lấy thêm đường phèn                              Này. Ðó gọi là ô nhiễm lẫn nhau .                                                           Nếu Tỉ-kheo vào bữa                              ăn nhận được nhiều mía, ăn còn thừa thì được ép ra                              nước để dùng vào buổi tối. Nếu uống không hết thì                              được [318a] đem nấu thành đường phèn để dùng trong 7                              ngày. Ðường phèn Này nếu dùng không hết thì đem đốt                              thành tro để dùng suốt đời. Nếu có việc không ép                              được, thì trước bữa trưa nên dùng nước tác tịnh, nói                              như sau: "Ở trong đây có tịnh vật sinh ra, tôi sẽ                              nhận lấy".                                                           Nếu vào bữa ăn nhận                              được nhiều trái cây, ăn không hết thì được đem ép để                              dùng buổi tối. Nếu có việc không thể ép được thì lúc                              ấy nên nói: "Trong đây có Tịnh vật sinh ta, tôi sẽ                              nhận lấy". Nếu thời gian đã quá hạn (hết ngày), thì                              không nên làm .                                                           - Dầu đốt đèn:                              Nếu tín nữ có lòng tin thuần thành đem cúng dường                              cho Tăng Thức ăn, bằng cách đổ dầu vào đèn đốt lên                              đem cúng dường, thì Tăng không nên nhận khi có ngọn                              đèn sáng, mà nên bảo tịnh nhân nhận lấy. Nếu không                              có tịnh nhân thì nên bảo họ để xuống đất, thổi tắt                              ngọn đèn rồi mới nhận. Nếu người nữ vì có tín tâm,                              quá ân cần, không muốn tắt ngọn đèn, thì có thể nhận                              lấy. Khi nhận xong, nên dùng dao cắt bỏ tim đèn rồi                              mới sử dụng dầu. Ðó là trường hợp dầu thắp đèn.                                                           - Bình sữa lạc:                              Vào bữa ăn nhận được nhiều sữa lạc dùng không hết,                              thì nên đem nấu thành sinh tô để dùng trong 7 ngày.                              Nếu sinh tô còn thừa thì được đem nấu lần nữa thành                              thục tô để dùng trong 7 ngày.                                                           Nếu Tỉ-kheo đi khất                              thực được nhiều sinh tô thì nên dùng miếng lụa sạch                              lọc lấy tô để dùng trong 7 ngày. Nếu có công việc                              không thể làm trước buổi trưa được, thì nên nói:                              "Trong đây sẽ sinh ra tịnh vật, tôi sẽ dùng làm                              thuốc uống trong 7 ngày". Nếu lỡ quên không dùng,                              không tác tịnh, để quá thời hạn thì thành ra bất                              tịnh.                                                           Nếu khi đi khất thực                              được nhiều dầu, thì nên áp dụng như trường hợp tô                              vừa nói ở trên.                                                           Nếu vào bữa ăn nhận                              được nhiều mè, ăn còn thừa thì nên đem ép thành dầu                              để dùng trong 7 ngày. Nếu vì công việc không làm                              được, thì như trường hợp tô đã nói ở trên. Ðó gọi là                              bình sữa lạc.                                                           Mỡ: Nếu Tăng đem                              chia cho mỡ gấu, mỡ cá, mỡ bi, mỡ heo, mỡ                              Thất-tu-ma-la, thì Tỉ-kheo ít có người quen biết có                              thể dùng một miếng lụa mỏng lọc để làm thức ăn dùng                              trong 7 ngày. Nếu bận việc không thể làm được thì                              như trường hợp tô đã nói ở trên.                                                           Khi Tăng đem chia                              dầu, Tỉ-kheo hoặc muốn đem tác tịnh, hoặc dùng làm                              dầu ăn 7 ngày, hoặc dùng làm dầu thắp đèn, hoặc làm                              dầu thoa chân, hoặc dùng thoa mình. Nếu Tăng chia                              dầu ít không đủ dùng, bèn đem đổ dồn một chỗ, thì                              tất cả đều bất tịnh. Nếu có dầu thanh tịnh (hợp lệ)                              thì đổ chung với dầu thanh tịnh trong một bình rồi                              đem rửa bình sạch giao cho tịnh nhân giữ. Cũng vậy,                              dầu dùng 7 ngày nên đổ chung với dầu dùng 7 ngày                              trong một bình, rồi đem rửa bình sạch giao cho tịnh                              nhân cất. Cũng vậy, dầu đốt đèn, dầu thoa chân, khi                              có được cũng nên nhận.                                                           Nếu Tỉ-kheo muốn                              uống bột, uống dầu, thì không được trước uống bột,                              sau uống dầu, vì bột là thuốc dùng trọn đời, còn dầu                              là thuốc dùng 7 ngày. Do đó, nên uống dầu trước, rồi                              rửa tay, súc miệng cho sạch [318b], sau đó mới uống                              bột.                                                           Nếu Tỉ-kheo sau bữa                              ngọ trai có bệnh, nên uống tô trước, vì tô là thuốc                              7 ngày, rồi rửa tay, súc miệng cho sạch mới ăn. Nếu                              Tỉ-kheo có bệnh muốn uống tô thì phải uống vào buổi                              mai, vì tô là thuốc dùng 7 ngày, sau đó ăn cơm xong,                              súc miệng, rửa tay cho sạch rồi mới uống thuốc.                                                           Nếu Tỉ-kheo uống dầu                              xong, còn thừa định dùng đốt đèn hoặc thoa chân,                              nhưng có Hòa thượng, A-xà-lê đến thấy chê dầu nhiều,                              bèn uống nữa thì phạm tội Việt tì-ni .                                                           Nếu Tỉ-kheo ăn đường                              phèn xong rồi muốn uống nước ngọt vào buổi tối, thì                              phải súc miệng cho sạch, rồi mới uống nước ngọt. Nếu                              uống nước ngọt rồi mới ăn đường phèn, cũng như vậy.                                                           Nếu Tỉ-kheo muốn nấu                              đường phèn, nên sai tịnh nhân nấu.                                                           Nếu Tỉ-kheo nhận                              được tô, rồi dùng tô trộn với tô, tô trộn với dầu,                              tô trộn với mật, tô trộn với đường phèn, tô trộn với                              sinh tô, tô trộn với mỡ, cũng vậy, dầu, mật, đường                              phèn, sinh tô, cho đến mỡ trộn với tô, mỡ trộn với                              dầu, mỡ trộn với mật, mỡ trộn với sinh tô, mỡ trộn                              với đường phèn, mỡ trộn với mỡ, cũng như vậy. Thức                              ăn đúng giờ, thức uống buổi tối, thuốc dùng 7 ngày,                              thuốc dùng suốt đời trộn lẫn vào nhau thì được uống                              đúng thời.                                                           Thuốc uống buổi tối,                              thuốc dùng 7 ngày, thuốc dùng suốt đời hòa lẫn vào                              nhau thì được uống vào buổi tối.                                                           Thuốc uống 7 ngày,                              thuốc dùng suốt đời hòa lẫn vào nhau, thì được uống                              trong 7 ngày.                                                           Nếu Tỉ-kheo có ít                              người quen biết khi đi khất thực được muối đỏ, muối                              tía ... thì nên rửa sạch để dùng suốt đời. Nếu được                              hồ tiêu, tất bát, cũng lại như vậy.                                                           Nếu Tỉ-kheo có ít                              người quen biết khi đi khất thực được đường phèn                              đen, đường phèn trắng, nên đem rửa sạch hơi đồ ăn,                              để làm thuốc dùng trong 7 ngày. Thế nên nói (như                              trên). 
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
 
 
 
 
 
2. Xem họ có                              say mê đàm luận các việc thế tục không;                              
3. Xem họ có                              ưa thích ngủ nghỉ, phương hại đến việc hành đạo                              không;                              
4. Nhằm thăm                              bệnh các Tỉ-kheo;                              
5. Nhằm làm                              cho các Tỉ-kheo niên thiếu mới xuất gia trông thấy                              oai nghi của Như Lai mà sinh tâm hoan hỉ.                              
