Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn du hành trong nước         Kosala cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một làng Bà-la-môn của         dân chúng Kosala, tên là Opasada. Thế Tôn trú tại Opasada, tại rừng chư Thiên         (Devavana), rừng cây sala (salavana), phía Bắc làng Opasada. Lúc bấy giờ,         Bà-la-môn Canki trú ở Opasada, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước,         lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi, vua nước Kosala cấp, một         ân tứ của vua, một tịnh ấp. Các Bà-la-môn gia chủ ở Opasada được         nghe: "Sa-môn Gotama... (như kinh Ratthapala, số 82, trang 497-498 thay chữ         Thullakotthita bằng chữ Opasada)... được yết kiến một vị A-la-hán như vậy".         Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Opasada, từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi         ra khỏi Opasada và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây sala.         Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Canki đi lên trên lầu để nghỉ trưa. Bà-la-môn         Canki thấy các Bà-la-môn gia chủ ở Opasada từng đoàn, từng đoàn lũ lượt         đi ra khỏi Opasada và đi đến ngõ phía Bắc rừng chư Thiên, rừng cây         sala. Thấy vậy, Bà-la-môn Canki bèn gọi người gác cửa: – Này người Gác cửa, vì sao các         Bà-la-môn gia chủ ở Opasada từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi         Opasada và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây sala như vậy ? – Thưa Tôn giả Canki, có Sa-môn         Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca đang du hành trong nước         Kosala... (như kinh Ratthapala số 82, trang 497) Phật, Thế Tôn. Nay những người         ấy đi đến yết kiến Tôn giả Gotama. – Này người Gác cửa, hãy đi đến         các Bà-la-môn gia chủ ở Opasada, khi đến nơi, hãy nói với những         Bà-la-môn gia chủ: "Bà-la-môn Canki có nói: "Này các Hiền giả,         hãy chờ đợi. Bà-la-môn Canki sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn         Gotama". Lúc bấy giờ, có khoảng năm trăm         Bà-la-môn, từ nhiều địa phương khác nhau, đến tại Opasada vì một vài         công vụ. Những Bà-la-môn nghe: "Bà-la-môn Canki sẽ đi yết kiến Sa-môn         Gotama". Những Bà-la-môn ấy đến Bà-la-môn Canki, khi đến xong, liền         thưa với Bà-la-môn Canki: – Có phải Tôn giả Canki sẽ đến         yết kiến Sa-môn Gotama ? – Này các Hiền giả, đó là ý định         của ta. Ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama. – Tôn giả Canki, chớ có đến yết         kiến Sa-môn Gotama. Thật không xứng đáng cho tôn giả Canki đến yết kiến         Sa-môn Gotama; trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Tôn         giả Canki. Lại nữa, Tôn giả Canki thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ,         huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ         nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì         Tôn giả Canki thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh         cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một         chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Do điểm này, thật         không xứng đáng cho Tôn giả Canki đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại,         thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiết Bà-la-môn Canki. Lại nữa,         Tôn giả Canki là nhà giàu có, đại phú, sung túc... (như trên)... Lại nữa,         Tôn giả Canki là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với         danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ         năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế luận và         Đại nhân tướng. Tôn giả Canki đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng người,         với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu         cao thượng. Tôn giả Canki có giới hạnh, trưởng thành trong giới hạnh,         thành tựu sự trưởng thành trong giới hạnh. Tôn giả Canki thiện ngôn,         dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không         bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác. Tôn giả Canki là bậc         Tôn sư của hàng Tôn sư nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng         đọc chú thuật. Tôn giả Candi được vua Pasenadi xứ Kosala kính trọng,         tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn giả Canki được Bà-la-môn         Pokkarasati kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn         giả Canki sống ở Opasada, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây,         ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí         địa, một ân tứ của vua Pasenadi nước Kosala. Vì rằng Tôn giả Canki sống         ở Opasada... (như trên)... Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả         Canki đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn         Gotama đến yết kiết Tôn giả Canki. Nghe nói vậy, Bà-la-môn Canki nói với         những vị Bà-la-môn ấy: – Các Hiền giả hãy nghe ta giải         thích, vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama;         trái lại, thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta.         Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và         phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một         vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ         sanh. Do điểm này thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến         chúng ta, trái lại, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn         Gotama. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia, từ bỏ rất         nhiều vàng bạc, bỏ cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt         đất. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên,         tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất         gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Hiền giả, thật vậy         Sa-môn Gotama, dầu song thân không đồng ý, khóc than, nước mắt thấm ướt         cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình,         sống không gia đình. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp         trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với màu da thù thắng, khôi ngô         tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng. Này các Hiền giả, thật         vậy, Sa-môn Gotama có giới hạnh, gìn giữ giới hạnh của bậc Thánh, có         thiện đức, đầy đủ thiện đức. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn         Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch,         giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác. Này         các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư các hàng Tôn sư của         nhiều người. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ         tham dục, đã diệt được mọi xao động của tâm. Này các Hiền giả, thật         vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt         trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn. Này các Hiền         giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ         Sát-đế-lỵ thanh tịnh. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất         gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn. Này các Hiền giả,         thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển (băng qua nhiều địa phương,         băng qua nhiều quốc độ) đến hỏi đạo Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả,         thật vậy, có hàng ngàn Thiên nhân đến quy y Sa-môn Gotama. Này các Hiền         giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn         Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh         Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,         Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn         Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại nhân. Này các         Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisara nước Magadha, cùng với vương tử,         cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, thật vậy,         vua Pasenadi nước Kosala, cùng với nương tử, cung phi, thị tùng đều quy y         Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasati cùng với         các con, vợ, thị giả đều quy y Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, thật vậy,         Sa-môn Gotama đã đến Opasada, nay đang ở tại Opasada về phía Bắc Opasada,         trong rừng chư Thiên, rừng cây sala. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến ruộng         làng chúng ta đều là khách của chúng ta. Đối với khách, chúng ta phải         kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Này các Hiền         giả, nay Sa-môn Gotama đã đến Opasada, hiện ở tại Opasada, về phía Bắc         Opasada, trong rừng chư Thiên, rừng cây sala. Như vậy Sa-môn Gotama là khách         của chúng ta. Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm         ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Do điểm này, thật không xứng đáng cho         Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại, thật xứng đáng cho         chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama. Này các Hiền giả, đó là những         ưu điểm mà ta được biết về Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama không phải         có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm. Này các Hiền giả, chỉ với một         ưu điểm thôi, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến         chúng ta; thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama. Vậy         tất cả chúng ta hãy đi đến yết kiến Tôn giả Gotama. Rồi Bà-la-môn Canki, cùng với đại         chúng Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những         lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những người chào đón hỏi thăm         thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi và         nói lên với những Bà-la-môn trưởng thượng những lời thân hữu về vấn         đề này, vấn đề khác. Khi ấy có thanh niên Bà-la-môn tên Kapathika, trẻ         tuổi, đầu cạo trọc, mới có mười sáu tuổi, từ khi sanh, thông hiểu         ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử         truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về         Thuận thế luận và Đại nhân tướng, thanh niên này đang ngồi giữa hội         chúng ấy. Thanh niên này thỉnh thoảng cắt đứt cuộc đàm luận giữa Thế         Tôn và các vị Bà-la-môn trưởng thượng. Rồi Thế Tôn khiển trách thanh         niên Bà-la-môn Kapathika: – Hiền giả Bharadvaja, chớ có cắt         ngang cuộc đàm luận của các Bà-la-môn trưởng thượng. Hiền giả         Bharadvaja hãy chờ cho đến khi câu chuyện chấm dứt. Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Canki bạch         Thế Tôn: – Tôn giả Gotama, chớ có khiển         trách thanh niên Bà-la-môn Kapathika. Thanh niên Bà-la-môn Kapathika là Thiện         nam tử. Thanh niên Bà-la-môn Kapathipa là bậc đa văn. Thanh niên Bà-la-môn         Kapathika phát ngôn thiện xảo. Và thanh niên Bà-la-môn Kapathia là bậc có         trí. Và thanh niên Bà-la-môn Kapathika có thể đàm luận với Tôn giả Gotama         trong vấn đề này. Thế Tôn nghĩ như sau: "Thật sự         thanh niên Bà-la-môn Kapathika này đã thông hiểu ba tập Veda, và các         Bà-la-môn tôn trọng người này". Và thanh niên Bà-la-môn Kapathika nghĩ         như sau: "Khi nào Sa-môn Gotama lấy mắt nhìn con mắt ta, ta sẽ hỏi         Sa-môn Gotama". Rồi Thế Tôn với tâm tư của mình biết được tâm tư         của thanh niên Bà-la-môn Kapathika liền lấy mắt nhìn thanh niên Bà-la-môn         Kapathika. Thanh niên Bà-la-môn Kapathika suy nghĩ: "Sa-môn Gotama chăm chú         nhìn ta, vậy ta hãy hỏi Sa-môn Gotama một câu hỏi". Rồi thanh niên         Bà-la-môn Kapathika bạch Thế Tôn: – Thưa Tôn giả Gotama, câu chú thuật         (mantapadam) của các cổ Bà-la-môn y cứ tiếng đồn, truyền thống và         Thánh tạng. Và ở đây, các vị Bà-la-môn chắc chắn đi đến kết luận:         "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Ở đây, Tôn         giả Gotama đã nói gì ? – Nhưng này Bharadvaja, có một         Bà-la-môn nào giữa các vị Bà-la-môn đã nói như sau: "Tôi biết việc         này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". – Thưa không, Tôn giả Gotama. – Nhưng này Bharadvaja, có một vị         Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, cho đến vị Tôn sư của các vị Tôn sư         trở lui cho đến bảy đời, các vị Đại Tôn sư đã nói như sau: "Chỉ         đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". ? – Thưa không, Tôn giả Gotama. – Nhưng này Bharadvaja, thuở xưa những         vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà         tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh         cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, nói lên, đọc lên giống         như các vị trước đã làm. Như là Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vessamitta,         Yamatagggi, Angirasa, Bharadvaja, Vasettha, Kassapa, Bhagu, những vị ấy đã nói như         sau: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". ? – Thưa không, Tôn giả Gotama. – Như vậy này Bharadvaja, không có         một Bà-la-môn nào nói như vậy với một Bà-la-môn: "Tôi biết việc         này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".         Không có một vị Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, một vị Đại Tôn sư,         cho đến bảy đời, vị Đại Tôn sư đã nói như sau: "Tôi biết việc         này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".         Thuở xưa những vị ẩn sĩ, giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú         thuật, những nhà tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu         tầm những Thánh cú và nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng đã hát lên,         nói lên giống như các vị trước đã làm. Như là Attaka, Vamaka, Vamadeva,         Vessamitta, Yamataggi, Angirasa, Bharadvaja, Vasettha, Kassapa, Bhagu, những vị ấy         không có nói như sau: "Chúng tôi biết việc này, chúng tôi thấy việc         này. Chỉ có đây là sự thật, ngoài ta đều là sai lầm". Ví như này,         Bharadvaja, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người         giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy; cũng vậy, này         Bharadvaja. Ta nghĩ rằng, lời nói của các Bà-la-môn cũng giống như chuỗi         người mù: người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người         cuối cùng cũng không thấy. Này Bharadvaja, Ông nghĩ thế nào ? Sự kiện là         như vậy, có phải lòng tin của các vị Bà-la-môn trở thành không có căn         cứ ? – Thưa Tôn giả Gotama, các         Bà-la-môn không phải chỉ dựa trên lòng tin, các Bà-la-môn ở đây còn dựa         trên điều nghe (tùy văn: anussava). – Trước hết, này Bharadvaja, Ông         đi đến lòng tin, nay Ông nói đến tùy văn. Này Bharadvaja, năm pháp này có         hai quả báo ngay trong hiện tại. Thế nào là năm? Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân         nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Này Bharadvaja, năm pháp         này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Tuy vậy, này Bharadvaja, có điều         được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái         lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không         thay đổi. Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo tùy hỷ... (như trên)...         được khéo tùy văn... (như trên)... được khéo cân nhắc suy tư... (như trên)...         được khéo chấp nhận có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái         lại, có điều không được khéo chấp nhận có thể là thật, chân, không         thay đổi. Hộ trì chân lý, này Bharadvaja không đủ để một người có         trí đi đến kết luận một chiều là: "Chỉ đây là sự thật, ngoài         ra đều là sai lầm" – Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến         mức độ nào là hộ trì chân lý ? Cho đến mức độ nào, chân lý được         hộ trì ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về hộ trì chân lý. – Này Bharadvaja, nếu có người có         lòng tin và nói: "Đây là lòng tin của tôi", người ấy hộ trì         chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ         đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Cho đến như vậy, này         Bharadvaja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ         trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng         ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý. Này Bharadvaja, nếu có người có         lòng tùy hỷ, này Bharadvaja, nếu có người có lòng tùy văn; này Bharadvaja,         nếu có người có sự cân nhắc suy tư các lý do; này Bharadvaja, nếu có người         chấp nhận một quan điểm và nói: "Đây là sự chấp nhận quan điểm         của tôi", người ấy hộ trì chân lý. Nhưng người ấy không đi đến         kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm".         Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, này         Bharadvaja, chúng tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này         Bharadvaja, chúng tôi chủ trường hộ trì chân lý. Nhưng ở đây chưa phải         sự giác ngộ chân lý. – Cho đến như vậy, thưa Tôn giả         Gotama là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chân lý         được hộ trì. Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama chúng con nhìn thấy         thộ trì chân lý. Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là         giác ngộ chân lý? Cho đến mức độ nào chân lý được giác ngộ? Chúng         con hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân lý? – Ở đây, này Bharadvaja, Tỷ-kheo         sống gần một làng hay một thị trấn. Một gia chủ hay con trai một gia chủ         đi đến vị ấy và tìm hiểu vị ấy trong ba pháp, tức là tham pháp, sân         pháp, si pháp. Người này nghĩ rằng: "Không hiểu vị Tôn giả ấy có         tham ái hay không, do những tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi         dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói:         "Tôi thấy," hay xui khiến người khác có những hành động khiến         người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi         xem xét vị ấy, người này biết như sau: "Vị Tôn giả ấy không có         những tham pháp, do những tham pháp này tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi         dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói:         "Tôi thấy"; hay xui khiến người khác có những hành động khiến         người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của         vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người         không có lòng tham. Còn Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy,         khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị,         được người trí chấp nhận; pháp ấy không thể do một người có lòng         tham khéo giảng". Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch         không có những tham pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các sân         pháp: "Không hiểu vị Tôn giả ấy có sân pháp hay không, do những sân         pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói:         "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui         khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh         phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi xem xét vị ấy, người này biết         như sau: "Tôn giả ấy không có những sân pháp, do những sân pháp này,         tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết",         dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác         có những hành động, khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau         khổ lâu dài. Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy,         là hành động của một người không có lòng sân. Còn Tôn giả ấy thuyết         pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt         ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận, pháp ấy         không thể do một người có lòng sân khéo giảng". Sau khi xem xét vị         ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những sân pháp, người kia lại         xem xét thêm vị ấy về các si pháp: "Không hiểu tôn giả ấy có si         pháp hay không, do những si pháp này, tâm của vị ấy bị chi phối đến nỗi         dầu không biết, vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói:         "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có hành động khiến người         ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi xem xét vị         ấy, người này biết như sau: "Tôn giả ấy không có những si pháp, do         những si pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết, vẫn         nói: "Tôi biết", dầu không thấy, vẫn nói: "Tôi thấy",         hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được         hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu         hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng si. Còn         Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh,         thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp         nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng si khéo giảng". Sau         khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những si pháp, người         này sanh lòng tin đối với vị ấy, với lòng tin sanh, người này đến gần,         khi đến gần liền thân cận giao thiệp, do thân cận giao thiệp, nên lóng         tai, lóng tai, người ấy nghe pháp, sau khi nghe, liền thọ trì pháp, rồi         tìm hiểu ý nghĩa các pháp được thọ trì; trong khi tìm hiểu ý nghĩa, các         pháp được hoan hỷ chấp nhận; khi các pháp được hoan hỷ chấp nhận,         ước muốn sanh, khi ước muốn sanh, liền cố gắng, sau khi cố gắng liền         cân nhắc, sau khi cân nhắc, người ấy tinh cần. Trong khi tinh cần, người         ấy tự thân chứng ngộ tối thượng chân lý, và khi thể nhập chân lý         ấy với trí tuệ, người ấy thấy. Cho đến mức độ này, này Bharadvaja         là sự giác ngộ chân lý, cho đến mức độ này, chân lý được giác ngộ,         và cho đến mức độ này, chúng tôi chủ trương sự giác ngộ chân lý, nhưng         như vậy chưa phải là chứng đạt chân lý. – Cho đến như vậy, thưa Tôn giả         Gotama, là giác ngộ chân lý, cho đến như vậy, chân lý được giác ngộ,         và cho đến như vậy chúng con thấy giác ngộ chân lý. Nhưng thưa Tôn giả         Gotama, cho đến mức độ nào là chứng đạt được chân lý, cho đến mức         độ nào chân lý được chứng đạt. Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về sự         chúng đạt chân lý. – Này Bharadvaja, chính nhờ luyện         tập, tu tập và hành tập nhiều lần, chân lý mới được chứng đạt.         Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy,         chân lý được chứng đạt, cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương sự         chứng đạt chân lý. – Cho đến như vậy, thưa Tôn giả         Gotama, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy chân lý được chứng đạt,         và cho đến như vậy, chúng con thấy chứng đạt chân lý. Nhưng trong sự         chứng đạt chân lý, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều         ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự chứng đạt chân lý, pháp nào được         hành trì nhiều. – Trong sự chứng đạt chân lý,         này Bharadvaja tinh cần được hành trì nhiều. Nếu không tinh cần (theo đuổi)         chân lý thì không thể chứng đạt chân lý. Nhưng nếu tinh cần thì chứng         đạt được chân lý. Do vậy, trong sự chứng đạt chân lý, tinh cần được         hành trì nhiều. – Trong sự tinh cần, thưa Tôn giả         Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong         sự tinh cần, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự tinh cần, này         Bharadvaja, sự cân nhắc được hành trì nhiều. Nếu không cân nhắc thì         không thể tinh cần (theo đuổi) chân lý. Nếu có cân nhắc sẽ được tinh         cần; do vậy, trong sự tinh cần, cân nhắc được hành trì nhiều. – Trong sự cân nhắc, thưa Tôn giả         Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong         sự cân nhắc, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự cân nhắc, này         Bharadvaja, cố gắng được hành trì nhiều. Nếu không cố gắng thì không         thể cân nhắc. Nhưng nếu có cố gắng thì có cân nhắc; do vậy trong sự         cân nhắc, thì cố gắng được hành trì nhiều. – Trong sự cố gắng, Tôn giả         Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong         sự cố gắng, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự cố gắng này         Bharadvaja, ước muốn được hành trình nhiều. Nếu ước muốn đối với         chân lý ấy không khởi lên thì không có cố gắng. Vì ước muốn có khởi         lên nên có cố gắng, do vậy, trong sự cố gắng, ước muốn được hành         trì nhiều. – Trong ước muốn, thưa Tôn giả         Gotama pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con muốn hỏi Tôn giả Gotama,         trong ước muốn, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong ước muốn, này Bharadvaja,         hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì nhiều. Nếu không hoan hỷ chấp         nhận pháp thì ước muốn không khởi lên. Vì có hoan hỷ chấp nhận pháp         nên ước muốn khởi lên; do vậy, trong ước muốn, hoan hỷ chấp nhận pháp         được hành trì nhiều. – Nhưng trong sự hoan hỷ chấp nhận         pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi         Tôn giả Gotama, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, pháp nào được hành         trì nhiều. – Trong sự hoan hỷ chấp nhận         pháp, này Bharadvaja, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều. Nếu không         tìm hiểu ý nghĩa thì không hoan hỷ chấp nhận pháp. Và vì có tìm hiểu         ý nghĩa nên có sự chấp nhận pháp; do vậy, trong sự hoan hỷ chấp nhận         pháp, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều. – Nhưng trong sự tìm hiểu ý nghĩa,         thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả         Gotama, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự tìm hiểu ý nghĩa, này         Bharadvaja, thọ trì pháp được hành trì nhiều. Nếu không có thọ trì         pháp thì không tìm hiểu ý nghĩa. Và vì có thọ trì pháp, nên có tìm hiểu         ý nghĩa; do vậy, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thọ trì pháp được hành         trì nhiều. – Trong sự thọ trì pháp, thưa Tôn         giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Trong sự thọ trì pháp, chúng         con hỏi Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự thọ trì pháp, này         Bharadvaja, nghe pháp được hành trì nhiều. Nếu không nghe pháp thì không         có thọ trì pháp. Và do có nghe pháp nên có thọ trì pháp; do vậy, trong sự         thọ trì pháp, nghe pháp được hành trì nhiều. – Trong sự nghe pháp, thưa Tôn giả         Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong         sự nghe pháp, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự nghe pháp, này         Bharadvaja, lóng tai được hành trì nhiều. Nếu không có lóng tai thì không         có nghe pháp. Và vì có lóng tai nên có nghe pháp; do vậy, trong sự nghe         pháp, lóng tai được hành trì nhiều. – Trong sự lóng tai, thưa Tôn giả         Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong         sự lóng tai, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự lóng tai, này Bharadvaja,         thân cận giao thiệp được hành trì nhiều. Nếu không có thân cận giao         thiệp thì không có lóng tai. Vì có thân cận giao thiệp nên có lóng tai; do         vậy, trong sự lóng tai, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều. – Trong sự thân cận giao thiệp,         thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả         Gotama, trong sự thân cận giao thiệp, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự thân cận giao thiệp,         này Bharadvaja, đi đến gần được hành trì nhiều. Nếu không đi đến gần         thì không có thân cận giao thiệp. Và vì có đi đến gần nên có thân cận         giao thiệp; do vậy, trong sự thân cận giao thiệp, đi đến gần được hành         trì nhiều. – Trong sự đi đến gần, thưa Tôn         giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama,         trong sự đi đến gần, pháp nào được hành trì nhiều. – Trong sự đi đến gần, này         Bharadvaja, lòng tin được hành trì nhiều. Nếu lòng tin không sanh thì không         đi đến gần. Và vì lòng tin không sanh nên có đi đến gần; do vậy, trong         sự đi đến gần, lòng tin được hành trì nhiều. – Chúng con đã hỏi Tôn giả         Gotama về hộ trì chân lý. Tôn giả Gotama đã trả lời về hộ trì chân         lý. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận, và do vậy, chúng con hoan hỷ. Chúng         con đã hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân lý. Tôn giả Gotama đã trả         lời về giác ngộ chân lý. Chúng con đã tùy hỷ và chấp nhận; do vậy,         chúng con hoan hỷ. Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về chứng đạt chân         lý. Tôn giả Gotama đã trả lời về chứng đạt chân lý. Chúng con tùy hỷ         và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ. Trong sự chứng đạt chân lý,         chúng con hỏi Tôn giả Gotama về pháp nào được hành trì nhiều. Trong sự         chứng đạt chân lý, Tôn giả Gotama đã trả lời pháp nào được hành         trì nhiều. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.         Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về bất cứ điều gì, Tôn giả Gotama đã         trả lời các điều ấy. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng         con hoan hỷ. Thưa Tôn giả Gotama, xưa kia chúng con biết (sự phân biệt) như         sau: "Và ai là những Sa-môn trọc đầu, tiện nô, hắc nô, sanh từ gót         chân của Phạm thiên (?) và ai là những người hiểu biết Chánh         Pháp". Thật sự Tôn giả Gotama đã làm sống dậy nơi con lòng ái kính         Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tin kính Sa-môn đối với các Sa-môn. Thật         vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! ... (như         trên)... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng         chung, con trọn đời quy ngưỡng !
