XX. PHẨM VÔ SANH
                           02   
 Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là pháp              đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tịnh              giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là pháp đã              sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                             Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn vô lượng,              bốn định vô sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì              tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là pháp đã              sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tám thắng              xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn              nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là pháp đã              sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn chánh              đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi              thánh đạo là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự              tánh là không.               Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.              Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là pháp đã sanh, tôi chẳng              muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là pháp đã              sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Sáu phép              thần thông là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự              tánh là không.               Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là pháp              đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn              điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,              đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn              nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là pháp đã              sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn chúng nó              sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là pháp              đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tánh              luôn luôn xả là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự              tánh là không.               Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là              pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.              Tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn chúng nó              sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.               Xá Lợi Tử! Phàm phu là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp phàm phu              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                           Xá Lợi Tử! Dự-lưu là pháp đã sanh, tôi              chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Dự-lưu là pháp              đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Nhất-lai là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Nhất-lai              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                           Xá Lợi Tử! Bất-hoàn là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bất-hoàn              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là              không.               Xá Lợi Tử! A-la-hán là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp A-la-hán              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là              không.               Xá Lợi Tử! Độc-giác là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Độc-giác              là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là              không.               Xá Lợi Tử! Bồ-tát là pháp đã sanh, tôi              chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bồ-tát là pháp              đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Như Lai là pháp đã sanh,              tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Như Lai là              pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.                           Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay              Ngài vì muốn khiến pháp sanh nó sanh, hay vì muốn khiến pháp bất              sanh nó sanh?              Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến              pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh. Vì              sao? Xá Lợi Tử! Vì pháp sanh cùng với pháp bất sanh, hai pháp ấy đều              chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu              sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến,              chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là              vô tướng.              Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi              cũng chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp              bất sanh nó sanh.              Khi ấy Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Đối              với pháp vô sanh đã nói, Ngài ưa biện thuyết tướng vô sanh chăng?              Thiện Hiện đáp: Đối với pháp vô sanh              đã nói, tôi cũng chẳng ưa biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Vì hoặc              là pháp vô sanh, hoặc là tướng vô sanh, hoặc là ưa biện thuyết, tất              cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng,              chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng              phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một              tướng, gọi đó là vô tướng.              Xá Lợi Tử hỏi: Đối với pháp bất sanh,              khởi lên lời nói bất sanh, thì lời nói bất sanh này cũng bất sanh              chăng?              Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Vì              sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc bất sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng bất              sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.              Xá Lợi Tử! Nhãn xứ bất sanh; nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là              không.               Xá Lợi Tử! Sắc xứ bất sanh; thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh              là không.               Xá Lợi Tử! Nhãn giới bất sanh; sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Nhĩ giới bất sanh; thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Tỷ giới bất sanh; hương              giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh              ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Thiệt giới bất sanh; vị              giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                           Xá Lợi Tử! Thân giới bất sanh; xúc              giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Ý giới bất sanh; pháp giới,              ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng              bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Địa giới bất sanh; thủy,              hỏa, phong, không, thức giới cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản              tánh là không.               Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ bất sanh;              Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh              là không.               Xá Lợi Tử! Vô minh bất sanh; hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là              không.               Xá Lợi Tử! Cái không nội bất sanh; cái              không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn,              cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không              rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không              không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không              cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được,              cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự              tánh cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa bất              sanh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự bất sanh; bốn              vô lượng, bốn định vô sắc cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh              là không.               Xá Lợi Tử! Tám giải thoát bất sanh;              tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất sanh. Vì sao?              Vì tất cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ bất sanh; bốn              chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám              chi thánh đạo cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                           Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không              bất sanh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng bất sanh. Vì              sao? Vì tất cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Năm loại mắt bất sanh; sáu              phép thần thông cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                           Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật bất sanh;              bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại              hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất sanh. Vì sao? Vì              tất cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết bất sanh;              trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất              cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất bất              sanh; tánh luôn luôn xả cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh              là không.               Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni              bất sanh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất              cả, bản tánh là không.               Xá Lợi Tử! Phàm phu bất sanh; pháp              phàm phu cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Dự-lưu bất sanh; pháp              Dự-lưu cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Nhất-lai bất sanh; pháp              Nhất-lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Bất-hoàn bất sanh; pháp              Bất-hoàn cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! A-la-hán bất sanh; pháp              A-la-hán cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Độc-giác bất sanh; pháp              Độc-giác cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Bồ-tát bất sanh; pháp              Bồ-tát cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.                            Xá Lợi Tử! Như Lai bất sanh; pháp Như              Lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.              Xá Lợi Tử! Thân hành bất sanh; ngữ              hành, ý hành cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả bản tánh là không.              Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên đối              với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, cũng không có nghĩa là              sanh.              Xá Lợi Tử! Vì hoặc pháp sở thuyết,              hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh.              Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện:              Trong những vị thuyết pháp, Ngài là người đệ nhất. Vì sao? Vì tùy              theo sự vặn hỏi đều có thể giải đáp, không bị ngập ngừng lúng túng.              Thiện Hiện nói: Đệ tử của chư Phật,              đối với tất cả pháp đều không có cái nương tựa đắm trước. Do vậy,              nên có khả năng, tùy theo sự vặn hỏi mà tất cả đều được giải đáp tự              tại vô úy. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.              Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì              sao các pháp đều không có chỗ nương?              Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Vì bản tánh              của sắc là không, nên trong, ngoài, hai bên, khoảng giữa, chẳng thể              nắm bắt được; vì bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên, chẳng thể nắm bắt được.              Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhãn xứ là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của sắc xứ là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhãn giới              là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm              bắt được. Vì bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhĩ giới là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các              thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng              giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tỷ giới là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các              thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng              giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của thiệt giới              là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm              bắt được. Vì bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của thân giới              là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm              bắt được. Vì bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng              các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của ý giới là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa,              hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của địa giới là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không,              nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Thánh đế              khổ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của vô minh là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,              thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên trong,              ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của cái không              nội là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại,              cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu              vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới,              cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái              không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái              không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự              tánh, cái không không tánh tự tánh là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều              chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh              tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bốn tịnh lự              là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm              bắt được. Vì bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không,              nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tám giải              thoát là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng              thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bốn niệm              trụ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không, nên trong,              ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của pháp môn              giải thoát không là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên              đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên              đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của năm loại              mắt là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của sáu phép thần thông là không, nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của mười lực              Phật là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của trí nhất              thiết là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể              nắm bắt được. Vì bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của pháp không              quên mất là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng              thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tánh luôn luôn xả là không, nên              trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.                           Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tất cả pháp              môn Đà-la-ni là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều              chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa              là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm              bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của phàm phu là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp phàm phu là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Dự-lưu là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Dự-lưu là không, nên trong, ngoài, khoảng              giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Nhất-lai là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Nhất-lai là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Bất-hoàn là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Bất-hoàn là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của A-la-hán là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp A-la-hán là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Độc-giác là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Độc-giác là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Bồ-tát là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Bồ-tát là không, nên trong, ngoài, khoảng              giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Như Lai là              không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt              được. Vì bản tánh của pháp Như Lai là không, nên trong, ngoài,              khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.               Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói              là các pháp đều không có chỗ nương.     
                               XXI. PHẨM TỊNH ĐẠO     
                           01                            Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nói với              Xá Lợi Tử: Các đại Bồ-tát, khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa nên sắc              thanh tịnh; nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; nên nhãn xứ thanh              tịnh; nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh; nên sắc xứ thanh              tịnh; nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh; nên nhãn giới              thanh tịnh; nên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên nhĩ giới thanh tịnh; nên              thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm              duyên sanh ra thanh tịnh; nên tỷ giới thanh tịnh; nên hương giới, tỷ              thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh              tịnh; nên thiệt giới thanh tịnh; nên vị giới, thiệt thức giới và              thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh;              nên thân giới thanh tịnh; nên xúc giới, thân thức giới và thân xúc              cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên ý giới              thanh tịnh; nên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên địa giới thanh tịnh; nên thủy,              hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh; nên Thánh đế khổ thanh              tịnh; nên Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh; nên vô minh thanh              tịnh; nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,              sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh; nên cái không nội              thanh tịnh; nên cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không              không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái              không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không              tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự              tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng              thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không              không tánh tự tánh thanh tịnh; nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh;              nên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thanh tịnh; nên bốn tịnh lự thanh tịnh; nên bốn vô lượng, bốn định              vô sắc thanh tịnh; nên tám giải thoát thanh tịnh; nên tám thắng xứ,              chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh; nên bốn niệm trụ thanh              tịnh; nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi              đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh; nên pháp môn giải thoát              không thanh tịnh; nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh              tịnh; nên năm loại mắt thanh tịnh; nên sáu phép thần thông thanh              tịnh; nên mười lực của Phật thanh tịnh; nên bốn điều không sợ, bốn              sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám              pháp Phật bất cộng thanh tịnh; nên pháp không quên mất thanh tịnh;              nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh; nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh              tịnh; nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh; nên trí nhất thiết              thanh tịnh; nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh; nên              đạo Bồ-đề thanh tịnh.              Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Thế              nào là đại Bồ-tát, khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, đạo Bồ-đề              thanh tịnh?              Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sáu phép              Ba-la-mật-đa, mỗi phép đều có hai thứ: Một là thế gian, hai là xuất              thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí              Ba-la-mật-đa thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát là đại              thí chủ, thì luôn luôn bố thí cho tất cả Sa-môn, Bà-là-môn, người              nghèo, người bệnh, người cô độc, người lỡ đường, người hành khất, họ              cần ăn, cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y              phục, cần hương cho hương, cần hoa cho hoa, cần đồ trang sức cho đồ              trang sức, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần thuốc men cho thuốc men, cần              ánh sáng cho ánh sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm, tất cả thứ              ấy, tùy theo nhu cầu về sự sinh sống của họ mà cho đầy đủ. Hoặc lại              có người đến xin con trai, cho con trai, xin con gái cho con gái,              xin vợ cho vợ, xin chức quan cho chức quan, xin đất nước cho đất              nước, xin ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu mắt cho đầu mắt, xin tay              chân cho tay chân, xin các phần trong thân cho các phần trong thân,              xin máu thịt cho máu thịt, xin xương tủy cho xương tủy, xin tai mũi              cho tai mũi, xin tôi tớ cho tôi tớ, xin của báu cho của báu, xin              vàng bạc cho vàng bạc, tất cả các thứ ấy, tùy theo nhu cầu của họ,              các vật ở trong, ngoài đều cho hết. Tuy làm việc bố thí như vậy              nhưng có chỗ nương tựa, nghĩa là nghĩ thế này: Ta cho, người kia              nhận; ta là thí chủ; ta chẳng xan tham; ta nghe theo lời Phật dạy;              có thể xả bỏ tất cả; ta hành bố thí Ba-la-mật-đa. Trong khi kẻ ấy              hành bố thí, vì lấy sở đắc làm phương tiện, nên cùng với các hữu              tình hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột. Lại nghĩ thế này: Ta đem              phước này cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho              đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Kẻ kia chấp trước vào ba luân mà              hành bố thí: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là              tưởng về vật cho. Do chấp trước ba luân này, mà hành bố thí, nên gọi              là thế gian bố thí Ba-la-mật-đa. Vì duyên cớ gì mà sự bố thí này gọi              là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, chẳng đạt đến pháp xuất thế              gian. Như vậy gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí              Ba-la-mật-đa xuất thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi              hành bố thí, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta là người cho,              hai là chẳng chấp kẻ kia là người nhận, ba là chẳng chấp việc bố thí              và kết quả bố thí, thì đó là đại Bồ-tát khi thực hành bố thí, ba              luân thanh tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát lấy đại              bi làm đầu, đem phước bố thí đã tu cho khắp hữu tình, thì đối với              các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình              đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó chẳng              thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố              thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà              việc bố thí này gọi là xuất thế gian. Vì chẳng cùng làm như thế              gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian, nên gọi là bố thí              Ba-la-mật-đa xuất thế gian.              Xá Lợi Tử! Thế nào là tịnh giới              Ba-la-mật-đa thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy              thọ trì tịnh giới, mà có chỗ nương, nghĩa là nghĩ thế này: Ta vì lợi              ích của tất cả hữu tình mà thọ trì tịnh giới; ta làm theo lời Phật              dạy, đối với tịnh giới không có gì vi phạm; ta hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa, thì trong khi vị ấy trì giới, lấy hữu sở đắc làm              phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ              cao tột. Lại khởi lên ý nghĩ thế này: Ta đem phước này bố thí cho              các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc              Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà thọ trì giới: Một là              tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về giới. Do chấp              trước ba luân này, mà thọ trì giới, nên gọi là tịnh giới              Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh giới này gọi là thế              gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian,              như vậy gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh giới              Ba-la-mật-đa xuất thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi              thọ trì giới, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta năng trì              giới, hai là chẳng chấp hữu tình được phòng hộ, ba là chẳng chấp              giới và kết quả của giới, thì gọi là đại Bồ-tát khi thọ trì giới, ba              luân thanh tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi              làm đầu, đem phước đã trì giới bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu              tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi              hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một              chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà thọ trì giới, nên              gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh              giới này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có              thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy gọi là tịnh giới              Ba-la-mật-đa xuất thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn              Ba-la-mật-đa thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy tu              an nhẫn, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì sự              lợi ích của tất cả hữu tình mà tu an nhẫn; ta theo lời Phật dạy, đối              với an nhẫn thù thắng, thường tu tập đúng đắn; ta tu hành an nhẫn              Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi tu hành an nhẫn, lấy hữu sở đắc làm              phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ              cao tột; lại khởi lên ý nghĩ thế này: Ta đem phước này bố thí cho              các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc              Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu hành an nhẫn: Một              là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về nhẫn. Do              chấp trước ba luân này, mà tu an nhẫn nên gọi là an nhẫn              Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì mà an nhẫn này gọi là thế              gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian;              như vậy, gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn              Ba-la-mật-đa xuất thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu              hành an nhẫn, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu              nhẫn, hai là chẳng chấp đối tượng nhẫn là hữu tình, ba là chẳng chấp              trước nhẫn và kết quả của nhẫn, thì đó là đại Bồ-tát, khi tu hành an              nhẫn, ba luân thanh tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi              làm đầu, đem phước đã tu hành an nhẫn bố thí khắp hữu tình, đối với              các hữu tình hoàn toàn không sở đắc, tuy cùng với tất cả hữu tình              đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng              thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu an              nhẫn, nên gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì              gọi an nhẫn này là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì              có thể đạt tới pháp xuất thế gian, như vậy gọi là an nhẫn              Ba-la-mật-đa xuất thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn              Ba-la-mật-đa thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy              dốc lòng tinh tấn, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế              này: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà dốc lòng tinh tấn; ta theo lời              Phật dạy, sách tấn thân tâm không hề giải đãi; ta hành tinh tấn              Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi hành tinh tấn, lấy hữu sở đắc mà làm              phương tiện, cùng với các hữu tình hồi hướng về quả vị giác ngộ cao              tột, lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình,              khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y              Niết-bàn. Vị ấy chấp trước vào ba luân mà dốc lòng tinh tấn: Một là              tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tinh tấn. Do              chấp trước ba luân này, mà tu tinh tấn, nên gọi là tinh tấn              Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì tinh tấn này gọi là thế gian?              Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian; như              vậy, gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn              Ba-la-mật-đa xuất thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi              dốc lòng tinh tấn, làm cho ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta              thường tinh tấn, hai là chẳng chấp vào cái vì hữu tình, ba là chẳng              đắm vào sự tinh tấn và kết quả tinh tấn, thì đó là đại Bồ-tát khi              dốc lòng tinh tấn, ba luân thanh tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi              làm đầu, đem phước tinh tấn đã tu bố thí khắp hữu tình, đối với các              hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng              hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy              có một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà lại dốc lòng              tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên              cớ gì tinh tấn này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế              gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tinh tấn              Ba-la-mật-đa xuất thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự              Ba-la-mật-đa thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy tu              tịnh lự, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích              tất cả hữu tình mà tu tịnh lự; ta theo lời Phật dạy, đối với các              đẳng trì thù thắng luôn luôn tu tập đúng đắn; ta hành tịnh lự              Ba-la-mật-đa, thì vị ấy, khi tu định, lấy hữu sở đắc mà làm phương              tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao              tột; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình,              khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y              Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu tịnh lự: Một là tưởng về              mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tịnh lự. Do chấp trước              ba luân này, mà tu tịnh lự, nên gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa thế              gian. Vì duyên cớ gì tịnh lự này gọi là thế gian? Vì cùng làm như              thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tịnh              lự Ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự              Ba-la-mật-đa xuất thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu              tịnh lự, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu định,              hai là chẳng chấp cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào tịnh lự và              kết quả tịnh lự, thì đó là đại Bồ-tát, khi tu tịnh lự, ba luân thanh              tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi              làm đầu, đem phước đã tu tịnh lự bố thí khắp hữu tình, đối với các              hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng              hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy              một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu tịnh lự, nên              gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh lự              này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể              đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa              xuất thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian?              Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu              hành Bát-nhã, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi              ích cho tất cả hữu tình mà tu Bát-nhã; ta theo lời Phật dạy, đối với              Bát-nhã thù thắng, thường tu hành đúng đắn, ta thường ăn năn trừ bỏ              điều ác mình đã làm, ta thấy điều ác kẻ khác, hoàn toàn chẳng chê              trách, ta luôn luôn tùy hỷ sự tu phước của kẻ khác, ta thường thỉnh              Phật chuyển pháp luân nhiệm mầu, ta tùy theo điều đã nghe, luôn luôn              chọn lựa đúng đắn, ta tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi tu              tuệ, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng              hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem              phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an              vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà              tu Bát-nhã: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng              về Bát-nhã. Do chấp trước ba luân này, mà hành Bát-nhã nên gọi là              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì Bát-nhã này gọi là thế              gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian.              Như vậy, gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian.              Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là              Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian?               Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu              hành Bát-nhã, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu              tuệ, hai là chẳng chấp cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào              Bát-nhã-ba-la-mật-đa và kết quả Bát-nhã, thì đó là đại Bồ-tát, khi              tu hành Bát-nhã, ba luân thanh tịnh.              Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi              làm đầu, đem phước đã tu hành Bát-nhã bố thí khắp hữu tình, đối với              các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng              hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy              một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu hành              Bát-nhã, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ              gì Bát-nhã này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian,              vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là              Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian.              Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ-tát khi              tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa làm thanh tịnh đạo Bồ-đề.              Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:              Những gì gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát?              Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Cái không              nội gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; cái không ngoại, cái không nội              ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái              không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không              biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không              bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả              pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái              không tự tánh, cái không không tánh tự tánh gọi là đạo Bồ-đề của đại              Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Chơn như gọi là đạo Bồ-đề              của đại Bồ-tát; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng              đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật              tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì gọi là đạo Bồ-đề của              đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; Thánh đế tập, diệt, đạo gọi là đạo Bồ-đề của              đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa gọi là              đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã-ba-la-mật-đa gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn vô lượng, bốn định vô sắc gọi là đạo Bồ-đề              của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Tám giải thoát gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ              gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm              lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo gọi là đạo Bồ-đề của đại              Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không              gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Năm loại mắt gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; sáu phép thần thông gọi là đạo Bồ-đề của đại              Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật gọi là              đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông              suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng              gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất gọi là              đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tánh luôn luôn xả gọi là đạo Bồ-đề của đại              Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni              gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Tam-ma-địa gọi là              đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng gọi là đạo              Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Xá Lợi Tử! Vô lượng, vô biên các nhóm              công đức lớn như vậy gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.              Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện: Hay              thay! Hay thay! Đúng như Ngài đã nói! Công đức như vậy là do những              thế lực Ba-la-mật-đa nào mà đạt được?              Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Công đức              như vậy đều do thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đạt được. Vì sao?              Xá Lợi Tử! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy luôn luôn là mẹ của tất cả              thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như              Lai đều từ đó mà sanh.              Xá Lợi Tử! Bát-nhã-ba-la-mật-đa này có              khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh-văn,              Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú.              Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, nên đã chứng              đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng              chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến              viên mãn rốt ráo, nên sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển              pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong              mười phương thế giới tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến viên              mãn rốt ráo, nên hiện chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp              luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.