10
 Xá Lợi Tử! Bản tánh của năm loại mắt              là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào              là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên              nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là năm loại mắt.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của sáu phép thần              thông là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra              nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này,              nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sáu phép thần              thông.               Xá Lợi Tử! Bản tánh của mười lực Phật              là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào              là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên              nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là mười lực của Phật.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn điều không              sợ,  bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,              mười tám pháp Phật bất cộng là không. Nếu bản tánh của pháp là không,              thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị.              Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là              bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.               Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí nhất thiết              là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào              là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên              nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là trí nhất thiết.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì              chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do              duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là              trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.               Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp không              quên mất là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày              ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này,              nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp không quên              mất               Xá Lợi Tử! Bản tánh của tánh luôn luôn              xả là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra              nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này,              nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tánh luôn luôn              xả.               Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp              môn Đà-la-ni là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể              bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ              này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả pháp              môn Đà-la-ni.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp              môn Tam-ma-địa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng              thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên              cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả              pháp môn Tam-ma-địa.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Cực hỷ là              không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là              sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu              là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc Cực hỷ.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Ly cấu,              bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc              Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là không. Nếu              bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là              diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo              chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.                           Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc phàm phu              là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào              là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên              nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc phàm phu.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Chủng tánh,              bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc              Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là không. Nếu bản tánh của pháp là              không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ,              nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng              thể gọi là bậc Chủng tánh cho đến bậc Như Lai.               Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thanh-văn thừa              là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào              là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên              nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thanh-văn thừa.              Xá Lợi Tử! Bản tánh của              Ðộc-giác thừa, Ðại-thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không,              thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị.              Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là              Ðộc-giác thừa, Ðại-thừa.               Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi              nói nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc v.v… vì pháp              không, vô sanh, bất khả thuyết.              Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp              lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói, tôi đâu có              thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo trao              truyền cho các đại Bồ-tát rốt ráo chẳng sanh?              Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là rốt ráo chẳng sanh.              Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa không              hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là              đại Bồ-tát; đại Bồ-tát tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo              chẳng sanh cùng với đại Bồ-tát không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi              nói là tôi đâu có thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh              để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát rốt ráo chẳng sanh.              Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp              lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là lìa rốt              ráo chẳng sanh cũng không có đại Bồ-tát nào có thể tu hành quả vị              giác ngộ cao tột?              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Bát-nhã-ba-la-mật-đa khác với rốt              ráo chẳng sanh, cũng chẳng thấy đại Bồ-tát khác với rốt ráo chẳng              sanh. Vì sao? Vì hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc đại Bồ-tát cùng với              rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức khác với rốt ráo chẳng sanh.              Vì sao? Vì sắc cho đến thức cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai,              không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn xứ khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác với rốt ráo chẳng              sanh. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh              không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc xứ khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác với rốt ráo              chẳng sanh. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ cùng với rốt ráo chẳng              sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn giới khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các              thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì              sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng              với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhĩ giới khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do              nhĩ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì              nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt              ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tỷ giới khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do              tỷ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tỷ              giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thiệt giới khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các              thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì              sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thân giới khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì              sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng              với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy ý giới khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì ý giới              cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng              sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy địa giới khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác với rốt ráo              chẳng sanh. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo khác với rốt ráo chẳng              sanh. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy vô minh khác với rốt ráo chẳng sanh;              cũng chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,              sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não khác với rốt ráo chẳng sanh.              Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với              rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy cái không nội khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái              không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi,              cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái              không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái              không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái              không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự              tánh, cái không không tánh tự tánh khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì              sao? Vì cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với              rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng với rốt ráo chẳng              sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn tịnh lự khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc khác với rốt ráo              chẳng sanh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc              cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tám giải thoát khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tám giải thoát cho              đến mười biến xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai              phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn niệm trụ khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,              bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì              sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không khác với              rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát              không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy sáu phép thần thông khác với rốt ráo chẳng              sanh. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông cùng với rốt ráo              chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực của Phật khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho              đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo chẳng sanh không              hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy trí nhất thiết khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khác              với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không              hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy tánh luôn luôn xả khác với rốt ráo chẳng              sanh. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cùng với rốt              ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni khác với              rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa khác              với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả              pháp môn Tam-ma-địa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai              phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bậc Cực hỷ khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc              Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện              tuệ, bậc Pháp vân khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ              cho đến bậc Pháp vân cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không              hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bậc phàm phu khác với rốt ráo chẳng              sanh; cũng chẳng thấy bậc chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc              Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai              khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bậc phàm phu cho đến bậc Như              Lai cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thanh-văn thừa khác với rốt ráo              chẳng sanh; cũng chẳng thấy Ðộc-giác thừa, Ðại-thừa khác với rốt ráo              chẳng sanh. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa, Ðộc-giác thừa, Ðại-thừa cùng              với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.              Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi              nói lìa rốt ráo chẳng sanh không có Bồ-tát nào có thể tu hành quả vị              giác ngộ cao tột.              Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp              lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu đại              Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng,              chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc,              nên biết đó là đại Bồ-tát có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa              Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy              tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng              vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa hư không, như ảo thành,              như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các              pháp đều không, trong lòng rất hoan hỷ.              Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi              nói là nếu đại Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng,              chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo              buồn, hối tiếc thì nên biết đó là đại Bồ-tát có khả năng tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.  
                           XIX. PHẨM QUÁN HẠNH  
                           01                          Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện              Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là sắc; đối với              thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng              trước, cũng chẳng cho là thật có thọ, tưởng, hành, thức.                          Bạch Thế Tôn! Các đại              Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn              xứ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có nhãn xứ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc xứ chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sắc xứ;              đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng              chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn              giới; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng              trước, cũng chẳng cho là thật có sắc giới cho đến các thọ do nhãn              xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhĩ giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhĩ              giới; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do              nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng              trước, cũng chẳng cho là thật có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ              xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tỷ giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tỷ              giới; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước,              cũng chẳng cho là thật có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm              duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thiệt giới chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              thiệt giới; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các              thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp,              chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vị giới cho đến các thọ do              thiệt xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thân giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thân              giới; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do              thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng              trước, cũng chẳng cho là thật có xúc giới cho đến các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với ý giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có ý giới;              đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm              duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng              chẳng cho là thật có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên              sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với địa giới chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có địa              giới; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thọ, chẳng              thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thủy, hỏa,              phong, không, thức giới.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với Thánh đế khổ chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              Thánh đế khổ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thọ, chẳng thủ,              chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có Thánh đế tập,              diệt, đạo.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với vô minh chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vô              minh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,              sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng              chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có hành, cho đến lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với cái không nội chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              cái không nội; đối với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái              không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi,              cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái              không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái              không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái              không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự              tánh, cái không không tánh tự tánh, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp,              chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có cái không ngoại cho đến cái              không không tánh tự tánh.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bố thí Ba-la-mật-đa              chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có bố thí Ba-la-mật-đa; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp,              chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn tịnh lự chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              bốn tịnh lự; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thọ, chẳng              thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn vô lượng,              bốn định vô sắc.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tám giải thoát              chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có tám giải thoát; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng              cho là thật có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn niệm trụ chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              bốn niệm trụ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,              bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng              chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn chánh đoạn cho đến              tám chi thánh đạo.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp môn giải thoát              không chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho              là thật có pháp môn giải thoát không; đối với pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước,              cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với năm loại mắt chẳng              thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có              năm loại mắt; đối với sáu phép thần thông, chẳng thọ, chẳng thủ,              chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sáu phép thần              thông.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với mười lực của Phật              chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có mười lực của Phật; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng              cho là thật có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với chơn như chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có chơn              như; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng              đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế,              cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng thọ, chẳng thủ,              chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến              cảnh giới bất tư nghì.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với quả vị giác ngộ cao              tột chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có quả vị giác ngộ cao tột; đối với trí nhất thiết, trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng              trước, cũng chẳng cho là thật có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp không quên mất              chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là              thật có pháp không quên mất; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng thọ,              chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tánh              luôn luôn xả.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tất cả pháp môn              Đà-la-ni chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng              cho là thật có tất cả pháp môn Đà-la-ni; đối với tất cả pháp môn              Tam-ma-địa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng              chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc. Vì sao? Vì tánh của sắc              là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao?              Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, không sanh diệt.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn xứ. Vì sao? Vì tánh của              nhãn xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân,              ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không              sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc xứ. Vì sao? Vì tánh của              sắc xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không,              không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn giới. Vì sao? Vì tánh của              nhãn giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sắc giới, nhãn thức              giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao?              Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra              là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhĩ giới. Vì sao? Vì tánh của              nhĩ giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức              giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao?              Vì tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra              là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tỷ giới. Vì sao? Vì tánh của              tỷ giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hương giới, tỷ thức              giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì              tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là              không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy thiệt giới. Vì sao? Vì tánh              của thiệt giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy vị giới, thiệt              thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.              Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy thân giới. Vì sao? Vì tánh của              thân giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy xúc giới, thân thức              giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao?              Vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy ý giới. Vì sao? Vì tánh của ý              giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và              ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của              pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, không              sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy địa giới. Vì sao? Vì tánh của              địa giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thủy, hỏa, phong,              không, thức giới. Vì sao? Vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức              giới là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy Thánh đế khổ. Vì sao? Vì tánh              của Thánh đế khổ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy Thánh đế tập,              diệt, đạo. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không,              không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy vô minh. Vì sao? Vì tánh của              vô minh là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hành, thức, danh sắc,              lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu,              não. Vì sao? Vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu,              não là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy cái không nội. Vì sao? Vì tánh              của cái không nội là không, không sanh diệt. Chẳng thấy cái không              ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái              không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt              ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không              đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng              tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái              không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.              Vì sao? Vì tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự              tánh là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao?              Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, không sanh diệt. Chẳng              thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì              sao? Vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã              Ba-la-mật-đa là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn tịnh lự. Vì sao? Vì tánh              của bốn tịnh lự là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn vô lượng,              bốn định vô sắc. Vì sao? Vì tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc              là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tám giải thoát. Vì sao? Vì              tánh của tám giải thoát là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tám              thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ,. Vì sao? Vì tánh của tám              thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, không sanh diệt.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn niệm trụ. Vì sao? Vì tánh              của bốn niệm trụ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn chánh              đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi              thánh đạo,. Vì sao? Vì tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp môn giải thoát không. Vì              sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát không là không, không sanh              diệt. Chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì              tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, không              sanh diệt.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy năm loại mắt. Vì sao? Vì tánh              của năm loại mắt là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sáu phép thần              thông. Vì sao? Vì tánh của sáu phép thần thông là không, không sanh              diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy mười lực của Phật. Vì sao? Vì              tánh của mười lực của Phật là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn              điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,              đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của bốn điều              không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, không sanh              diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy chơn như. Vì sao? Vì tánh của              chơn như là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì,. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư              nghì là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột. Vì              sao? Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không, không sanh diệt.              Chẳng thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng,. Vì              sao? Vì tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              là không, không sanh diệt.               Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không quên mất. Vì sao?              Vì tánh của pháp không quên mất là không, không sanh diệt. Chẳng              thấy tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh của tánh luôn luôn xả là              không, không sanh diệt.              Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni. Vì              sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, không sanh diệt.              Chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tánh của tất cả              pháp môn Tam-ma-địa là không, không sanh diệt.              Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng sanh thì chẳng              phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, thì chẳng phải là              thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cùng với chẳng sanh không              hai, không hai phần. Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng sanh              không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải              một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc              chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng              sanh, thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.               Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ chẳng sanh thì              chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, thì              chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng              với chẳng sanh không hai, không hai phần. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ              cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng              sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải              khác. Cho nên nhãn xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt,              thân, ý xứ.               Bạch Thế Tôn! Sắc xứ chẳng sanh thì              chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, thì              chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cùng              với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì              pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều,              chẳng phải khác. Cho nên sắc xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc              xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.               Bạch Thế Tôn! Nhãn giới chẳng sanh thì              chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là              sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì              nhãn giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Sắc giới              cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh              không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải              một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn              giới chẳng sanh, thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các              thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc              giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới chẳng sanh thì              chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng              các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì              nhĩ giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh giới              cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh              không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải              một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhĩ              giới chẳng sanh, thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các              thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là thanh              giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Tỷ giới chẳng sanh thì              chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các              thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là hương              giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tỷ giới              cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hương giới cho đến              các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai,              không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng              phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỷ giới chẳng              sanh, thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là hương giới cho              đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Thiệt giới chẳng sanh              thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc              cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng              phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì              sao? Vì thiệt giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vị              giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng              sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng              phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên              thiệt giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là              vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Thân giới chẳng sanh thì              chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng              các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì              thân giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Xúc giới              cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh              không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải              một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thân              giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là xúc              giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Ý giới chẳng sanh thì              chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới              cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì ý giới cùng              với chẳng sanh không hai, không hai phần. Pháp giới cho đến các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai              phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai,              chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên ý giới chẳng sanh, thì              chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên              sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra.              Bạch Thế Tôn! Địa giới chẳng sanh thì              chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng              sanh, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao?              Vì địa giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thủy,              hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng sanh không hai, không              hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải              hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên địa giới chẳng sanh,              thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng              sanh, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.                            Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ chẳng sanh              thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh,              thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ              cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thánh đế tập, diệt,              đạo cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp              chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng              phải khác. Cho nên Thánh đế khổ chẳng sanh, thì chẳng phải là Thánh              đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là Thánh              đế tập, diệt, đạo.               Bạch Thế Tôn! Vô minh chẳng sanh thì              chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,              thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, thì              chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao?              Vì vô minh cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hành cho              đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với chẳng sanh không hai,              không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng              phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên vô minh chẳng              sanh, thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não chẳng sanh, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não.               Bạch Thế Tôn! Cái không nội chẳng sanh              thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại, cái không nội              ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái              không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không              biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không              bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả              pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái              không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng              phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì              sao? Vì cái không nội cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.              Cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với chẳng              sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng              phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên              cái không nội chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không nội; cái không              ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng              phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
