04
 Lại nữa, Thiện Hiện! Đại              Bồ-tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải xa lìa mười pháp.              Những gì là mười? Một là phải xa lìa nhà ở, hai là phải xa lìa              Bí-sô-ni, ba là phải xa lìa nhà keo kiệt, bốn là phải xa lìa chúng              hội tranh cãi, năm là phải xa lìa sự khen mình chê người, sáu là              phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, bảy là phải xa lìa sự tăng              thượng kiêu mạn ngạo nghễ, tám là phải xa lìa sự điên đảo, chín là              phải xa lìa sự do dự, mười là phải xa lìa tham, sân, si.               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát              khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải thường xa lìa mười pháp              như vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi              trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp. Những gì là              sáu? Một là phải viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa, hai là phải viên mãn              tịnh giới Ba-la-mật-đa, ba là phải viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa,              bốn là phải viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa, năm là phải viên mãn              tịnh lự Ba-la-mật-đa, sáu là phải viên mãn Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Lại              phải xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải xa lìa tâm              Thanh-văn, hai là phải xa lìa tâm Độc-giác, ba là phải xa lìa tâm              nhiệt não, bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng bực bội lo lắng,              năm là bỏ vật sở hữu tâm không lo buồn hối tiếc, sáu là đối với kẻ              đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ              sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp như vậy và phải xa lìa sáu              pháp như vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi              trụ ở bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp. Những gì              là hai mươi? Một là phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp              cái biết, chấp cái thấy, hai là phải xa lìa chấp đoạn, ba là phải xa              lìa chấp thường, bốn là phải xa lìa chấp tướng, năm là phải xa lìa              chấp nhơn kiến, sáu là phải xa lìa chấp danh sắc, bảy là phải xa lìa              chấp uẩn, tám là phải xa lìa chấp xứ, chín là phải xa lìa chấp giới,              mười là phải xa lìa chấp Thánh đế, mười một là phải xa lìa chấp              duyên khởi, mười hai là phải xa lìa chấp trụ trước ba cõi, mười ba              là phải xa lìa chấp tất cả pháp, mười bốn là phải xa lìa chấp như lý              và chẳng như lý của tất cả pháp, mười lăm là phải xa lìa kiến chấp              nương vào Phật, mười sáu là phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp,              mười bảy là phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, mười tám là phải              xa lìa kiến chấp nương vào giới, mười chín là phải xa lìa sự sợ hãi              pháp không, hai mươi là phải xa lìa sự trái chống tánh không. Lại              phải viên mãn hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải viên              mãn sự thông đạt cái không, hai là phải chứng đắc sự viên mãn vô              tướng, ba là phải viên mãn sự hiểu biết vô nguyện, bốn là phải viên              mãn ba luân thanh tịnh, năm là phải viên mãn tâm bi mẫn hữu tình và              đối với hữu tình không có sự chấp trước, sáu là phải viên mãn cái              thấy bình đẳng về tất cả các pháp và ở trong đó không có sự chấp              trước, bảy là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả hữu tình và              ở trong đó không có sự chấp trước, tám là phải viên mãn sự thông đạt              lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước, chín là phải              viên mãn cái trí Vô-sanh-nhẫn, mười là phải viên mãn cái thuyết tất              cả pháp đều qui lý nhất tướng, mười một là phải viên mãn sự diệt trừ              phân biệt, mười hai là phải viên mãn sự xa lìa các tưởng, mười ba là              phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp, mười bốn là phải viên mãn sự              xa lìa phiền não, mười lăm là phải viên mãn sự Sa-ma-tha,              Tỳ-bát-xá-na (chỉ quán), mười sáu là phải viên mãn sự điều phục tâm              tánh, mười bảy là phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh, mười tám là              phải viên mãn tánh vô ngại trí, mười chín là phải viên mãn sự không              ái nhiễm, hai mươi là phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi              Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ              bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp như vậy và phải viên mãn              hai mươi pháp như vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi              trụ ở bậc thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là              bốn? Một là phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hạnh của tất cả hữu tình,              hai là phải viên mãn các thần thông du hý, ba là phải viên mãn cái              thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các cõi              Phật, bốn là phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn,              đối với thân Như Lai, quán sát như thật.               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc              thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp như vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi              trụ ở bậc thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là              bốn? Một là phải viên mãn vế cái trí căn cơ thắng, liệt của các hữu              tình, hai là phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật, ba là phải viên              mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định, bốn là phải viên              mãn sự tùy theo  thiện căn thuần thục của các hữu tình mà nhập vào              các cõi, tự hiện hóa sanh.              Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc              thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp như vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi              trụ ở bậc thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp. Những              gì là mười hai? Một là phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ              sở, tùy theo sở nguyện đều được viên mãn, hai là phải viên mãn cái              trí biết âm thanh của các loài khác nhau như là chư thiên, long,              dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc,              Mạc-hô-lạc-già, nhơn, phi nhơn v.v... ba là phải viên mãn trí biện              thuyết vô ngại, bốn là phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo, năm là              phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo, sáu là phải viên mãn gia tộc              hoàn hảo, bảy là phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo, tám là phải viên              mãn quyến thuộc hoàn hảo, chín là phải viên mãn sanh thân hoàn hảo,              mười là phải viên mãn xuất gia hoàn hảo, mười một là là phải viên              mãn trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo, mười hai là là phải viên mãn sự              hoàn thành tất cả công đức hoàn hảo.              Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc              thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp như vậy. Thiện              Hiện! Nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng              các Như Lai phát ra lời nói không khác.              Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch              Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ý lạc thù              thắng thạnh tịnh?               Phật dạy: Thiện Hiện: Nếu đại Bồ-tát              lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, tu tập tất cả thiện căn, thì              đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ý lạc thanh tịnh thù thắng.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp của tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy tâm              tương ưng trí nhất thiết trí dẫn phát bốn thứ vô lượng: Từ, bi, hỷ,              xả, thì đó là của đại Bồ-tát tu sửa nghiệp tâm bình đẳng đối với tất              cả hữu tình.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp bố thí?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất              cả hữu tình không có phân biệt mà hành bố thí, thì đó là đại Bồ-tát              tu sửa nghiệp bố thí.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp thân cận thiện hữu?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thấy các              thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến họ tu tập trí nhất thiết trí,              liền thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thăm hỏi,              thọ lãnh chánh pháp, ngày đêm vâng lời, phụng sự, tâm không lười              mỏi, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp cầu pháp?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy tâm              tương ưng trí nhất thiết trí, cần cầu Chánh pháp Vô Thượng của Như              Lai, chẳng rơi vào các bậc Thanh-văn, Độc-giác,  thì đó là đại              Bồ-tát tu sửa nghiệp cầu pháp.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp thường ưa xuất gia?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tất, ở tất              cả nơi chốn sanh ra, thường chán sự tạp nhạp ồn ào của lao ngục gia              cư, thường ưa vui với Phật Pháp, thanh tịnh xuất gia, không gì có              thể ngăn trở, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp ưa mến thân Phật?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chỉ thoáng              thấy hình tượng Phật rồi cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao              tột, hoàn toàn chẳng xả tác ý nghĩ nhớ đến Phật, thì đó là đại              Bồ-tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp triển khai giáo pháp?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi Phật              còn tại thế và sau khi nhập Niết-bàn, vì các hữu tình truyền khai              giáo pháp, lúc đầu khoảng giữa và sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu,              thuần nhất viên mãn, phạm hạnh trong sạch, đó là khế kinh, ứng tụng,              ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, thí dụ, bổn sự, bổn              sanh, phương quảng, hy pháp, luận nghĩa, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa              nghiệp triển khai giáo pháp.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường giữ              sự khiêm tốn, cung kính điều phục tâm kiêu mạn, do đó chẳng sanh vào              giòng họ hạ tiện, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu              mạn.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu              sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nói ra              tương xứng với sự hiểu biết, lời nói và việc làm hợp nhau, thì đó là              đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              giữ cấm giới thanh tịnh?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng khởi              tác ý Thanh-văn, Độc-giác và các việc khác về phá giới, chướng ngại,              giác ngộ, thì đó là đại Bồ-tát giữ cấm giới thanh tịnh.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              tri ân báo ân?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu              hành Bồ-tát hạnh, đối với việc được một ơn nhỏ còn chẳng quên báo              đáp, huống là đối với ân huệ lớn mà chẳng báo đền, thì đó là đại              Bồ-tát tri ân báo ân.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              trụ sức an nhẫn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dù có các              hữu tình đến xúc phạm, hủy nhục, nhưng đối với họ không có tâm tức              giận, làm hại, thì đó là đại Bồ-tát trụ sức an nhẫn.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              thọ hoan hỷ thù thắng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát việc giáo              hóa hữu tình đã được thành thục, thân tâm vui vẻ, hưởng niềm hoan hỷ              thù thắng, thì đó là đại Bồ-tát thọ hoan hỷ thù thắng.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              chẳng bỏ hữu tình?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát cứu độ hữu              tình, tâm hằng chẳng bỏ, thì đó là đại Bồ-tát chẳng bỏ hữu tình.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              hằng khởi đại bi?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu              hành Bồ-tát hạnh, khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì nhiêu ích tất cả              hữu tình, giả sử trải qua vô lượng vô số trăm ngàn kiếp, ở trong đại              địa ngục chịu các khổ kịch liệt, hoặc thiêu hoặc nấu, hoặc chém hoặc              chặt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu vô lượng sự khổ              như vậy. Cho đến vì muốn khiến họ nương nơi Phật thừa mà nhập              Niết-bàn, thế giới của tất cả hữu tình như vậy mà hết, nhưng tâm đại              bi chưa từng mệt mỏi chán nản, thì đó là đại Bồ-tát hằng khởi đại              bi.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              đối với các Sư trưởng đem tâm kính tín, thăm hỏi, phụng sự, cúng              dường tưởng như phụng sự Phật?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì cầu quả              vị giác ngộ cao tột, cung thuận Sư trưởng, không để tâm đến điều gì              khác, thì đó là đại Bồ-tát đối với các bậc Sư trưởng lấy tâm kính              tín, thăm hỏi phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              cần cầu tu tập Ba-la-mật-đa?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các              Ba-la-mật-đa chuyên tâm cầu học, xa lìa các việc khác, thì đó là đại              Bồ-tát cần cầu tu tập Ba-la-mật-đa.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối pháp              được nghe chẳng đắm vào văn tự?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát khởi              sự siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Đối với Chánh pháp của Phật ở cõi              này hoặc chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới đã nói, ta đều              nghe, tu tập đọc tụng, thọ trì, nhưng đối với những giáo pháp ấy,               chẳng đắm trước văn tự, thì đó là đại Bồ-tát cần cầu đa văn, thường              không chán nản, không cho là đủ, đối với pháp đã nghe, chẳng đắm              trước văn tự.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng              chẳng tự cao?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì các hữu              tình tuyên thuyết chánh pháp còn chẳng tự duy trì thiện căn này hồi              hướng quả Giác ngộ, huống là cầu việc khác, tuy hóa đạo nhiều mà              chẳng tự thị, thì đó là đại Bồ-tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp              thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát vì              nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy để hồi hướng nhưng              chẳng tự đề cao?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dõng mãnh              tinh tấn tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm các cõi Phật thanh              tịnh và làm thanh tịnh tâm của mình và người, tuy làm việc như vậy              mà chẳng tự cao, thì đó là đại Bồ-tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng              các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát vì              giáo hóa hữu tình, tuy chẳng chán nản mệt mỏi với sanh tử vô biên,              nhưng chẳng tự cao?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn              thành thục tất cả hữu tình, trồng các căn lành, nghiêm tịnh cõi              Phật, cho đến khi chưa được viên mãn trí nhất thiết trí, tuy chịu sự              cần khổ của vô biên sanh tử, nhưng không chán nản mỏi mệt, cũng              chẳng tự cao, thì đó là đại Bồ-tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng              mệt mỏi chán nản với vô biên sanh tử, nhưng chẳng tự cao.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chuyên cầu              quả vị giác ngộ cao tột, đối với ý nghĩ Thanh-văn, Độc-giác đầy đủ              tàm quí, hoàn toàn chẳng móng khởi, nhưng ở trong đó, cũng không đắm              trước, thì đó là đại Bồ-tát, tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì cầu quả              vị giác ngộ cao tột, vượt lên các bậc Thanh-văn, Độc-giác v.v...              thường chẳng rời bỏ nơi thanh vắng, thì đó là đại Bồ-tát trụ nơi              thanh vắng thường chẳng rời bỏ.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              thiểu dục?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với quả              vị Giác ngộ còn chẳng tự mong cầu, huống là muốn tiếng khen lợi              dưỡng v.v… của thế gian, thì đó là đại Bồ-tát thiểu dục.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát hỷ              túc?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chỉ vì              chứng đắc trí nhất thiết trí, nên đối với các việc khác không đắm              trước, thì đó là đại Bồ-tát hỷ túc.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường đối              với pháp thâm diệu, khởi lên sự kiên nhẫn, quán sát kỹ lưỡng, thì đó              là đại Bồ-tát, thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              đối với các học xứ chưa từng xả bỏ?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              giới đã học, giữ vững chẳng sai lệch, nhưng ở trong đó, thường chẳng              chấp tướng, thì đó là đại Bồ-tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với dục              lạc ngọt ngào hấp dẫn, chẳng khởi dục tâm, thì đó là đại Bồ-tát, đối              với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt được              tất cả pháp nhưng không hề khởi tác, thì đó là đại Bồ-tát thường hay              phát khởi tâm tịch diệt vốn có.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát bỏ              các sở hữu?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              pháp nội ngoại, không hề chấp thủ, thì đó là đại Bồ-tát bỏ các sở              hữu.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát              tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các              thức đã trụ chưa từng khởi tâm, thì đó là đại Bồ-tát tâm chẳng ngưng              trệ chìm đắm.              Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát,              đối với các vật sở hữu, không tham luyến đoái hoài?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất              cả vật, không có sự tư duy, thì đó là đại Bồ-tát đối với các sở hữu              không có sự tham luyến đoái hoài.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát xa lìa              nhà ở?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ý chí muốn              đi đến các cõi Phật, tùy theo nơi sanh ra, thường ưa xuất gia, cạo              bỏ râu tóc, thọ trì bình bát, khoác ba pháp y, hiện làm Sa-môn, thì              đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa nhà ở.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa Bí-sô-ni?               Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát, thường              phải xa lìa Bí-sô-ni, chẳng cùng ở chung dù trong khoảnh khắc, đối              với họ cũng lại chẳng khởi dị tâm, thì đó là lý do của đại Bồ-tát              phải xa lìa Bí-sô-ni.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa nhà keo kiệt?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ: Ta nên ở trong đêm dài tăm tối, làm việc lợi ích an lạc cho              tất cả hữu tình, khiến các hữu tình này do phước lực của họ mà cảm              được nhà thí chủ tốt đẹp, cho nên ta ở trong đó, chẳng nên tham lam,              tật đố, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa nhà keo kiệt.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chúng hội tranh chấp giận dữ?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Nếu ở trong chúng hội, mà trong chúng đó, hoặc có              Thanh-văn, Độc-giác, nói thừa ấy là tương ưng với pháp yếu, khiến ta              thối thất tâm Đại Bồ-đề, vì thế nhất định phải xa lìa chúng hội; lại              khởi lên ý nghĩ thế này: Các kẻ tranh chấp giận dữ có thể khiến hữu              tình phát khởi sân hại, tạo tác đủ các loại nghiệp ác bất thiện,              việc ấy còn trái với đường thiện, huống là đại Bồ-đề, vì thế nhất              định phải xa lìa sự tranh chấp giận dữ, thì đó là lý do đại Bồ-tát              phải xa lìa chúng hội tranh chấp.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa việc tự khen mình chê người?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              pháp nội, ngoại, đều không thấy có, nên xa lìa việc khen mình chê              người, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa việc tự khen mình chê              người.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Mười pháp ác này, còn trở ngại đường thiện, Nhị-thừa,              Thánh-đạo, huống là vị đại Giác ngộ, cho nên phải xa lìa, thì đó là              lý do đại Bồ-tát phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa sự ngạo mạn tăng thượng?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng thấy              có pháp có thể khởi ngạo mạn, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa              sự ngạo mạn tăng thượng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa điên đảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán việc              điên đảo hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa điên đảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa do dự?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán việc              do dự hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát              nên xa lìa do dự.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tham, sân, si?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoàn toàn              chẳng thấy có việc tham, sân, si, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa              lìa tham, sân, si.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát viên mãn              sáu phép Ba-la-mật-đa, vượt lên các bậc Thanh-văn và Độc-giác, lại              trụ sáu phép Ba-la-mật-đa này, Phật và Nhị-thừa có khả năng vượt qua              năm thứ bờ biển sở tri. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị              lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết, thì đó là              lý do đại Bồ-tát phải viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tâm Thanh-văn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm của các Thanh-văn chẳng phải thứ tâm chứng đạo đại              Giác ngộ Vô thượng, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ-tát              phải xa lìa tâm Thanh-văn.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tâm Độc-giác?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm của các Độc-giác nhất định chẳng có khả năng chứng              đắc trí nhất thiết trí, cho nên ta nay phải xa lìa nó, thì đó là lý              do đại Bồ-tát phải xa lìa tâm Độc-giác.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tâm nhiệt não?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm sợ hãi sanh tử nhiệt não, chẳng phải là tâm chứng              đắc đạo Giác ngộ cao tột, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa tâm nhiệt não.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát thấy              kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm nhàm chán lo lắng này đối với đại Bồ-đề, chẳng có              khả năng chứng đạo, nên ta nay nhất định phải xa lìa, thì đó là lý              do đại Bồ-tát thấy kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát bỏ các              vật sở hữu không có tâm hối tiếc?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm hối tiếc này đối với việc chứng đắc quả vị giác              ngộ cao tột, nhất định là chướng ngại nên ta phải bỏ, thì đó là lý              do đại Bồ-tát phải bỏ các vật sở hữu, không có tâm hối tiếc.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát đối              với người đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu mạn, dối gạt?                            Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý              nghĩ thế này: Tâm kiêu mạn dối gạt này, nhất định chẳng phải là đạo              Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì đại Bồ-tát khi mới phát tâm cầu quả vị              giác ngộ cao tột, có phát lời thề rằng: Hễ ta có vật gì đều cho              người đến xin, tùy theo ý muốn, không làm lơ, nhưng tại sao bây giờ              lại kiêu ngạo, dối gạt họ, thì đó là lý do đại Bồ-tát đối với người              đến xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy?                           Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán ngã,              hữu tình cho đến cái biết, cái thấy, rốt ráo chẳng thể nắm bắt được,              thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho              đến chấp cái biết, cái thấy.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp đoạn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán nghĩa              rốt ráo của tất cả pháp là bất sanh, vô đoạn, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa chấp đoạn.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp thường?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của tất cả pháp là vô thường, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa              chấp thường.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tướng tưởng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              tạp nhiễm chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa              lìa tướng tưởng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa kiến chấp về nhân v.v...?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoàn toàn              chẳng thấy có các tánh thấy, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa              kiến chấp về nhân v.v...              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp danh sắc?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của danh sắc hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa các danh sắc.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp uẩn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của năm uẩn hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa chấp uẩn.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp xứ?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của mười hai xứ hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do              đại Bồ-tát phải xa lìa chấp xứ.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp giới?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của mười tám giới v.v... hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là              lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp giới.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp đế?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của các đế hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa chấp đế.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp duyên khởi?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của các duyên khởi, chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa chấp duyên khởi.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp sự trụ trước tam giới?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của tam giới hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa chấp sự trụ trước tam giới.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp tất cả pháp?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của các pháp đều như hư không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì              đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tất cả pháp.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp sự như lý, bất như lý đối với tất cả pháp?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh              của các pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, và tánh của các pháp              không có sự như lý hoặc bất như lý, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải              xa lìa chấp sự như lý, bất như lý của tất cả pháp.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa kiến chấp nương vào Phật?              Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết sự              kiến chấp nương vào Phật, chẳng được thấy Phật, thì đó là lý do đại              Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa kiến chấp nương vào Pháp?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt được              chơn pháp tánh là chẳng thể thấy được, thì đó là lý do đại Bồ-tát              phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa kiến chấp nương vào Tăng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết chúng              hòa hợp là vô tướng, vô vi chẳng thể thấy được, thì đó là lý do mà              đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa kiến chấp nương vào giới?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết tánh              tội phước hoàn toàn chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa              lìa kiến chấp nương vào giới.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa sự sợ hãi pháp không?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán các              pháp không đều không có tự tánh, đối tượng của sự sợ hãi rốt ráo              chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa sự sợ hãi pháp              không.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              xa lìa tánh chống trái cái không?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tự              tánh của tất cả pháp đều không, cái chẳng phải không cùng cái không              có sự chống trái, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa tánh              chống trái cái không.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự thông đạt cái không?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt tự              tướng của tất cả pháp đều là không, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự thông đạt cái không.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự chứng đắc vô tướng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng tư              duy tất cả tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự              chứng đắc vô tướng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              pháp của ba cõi, tâm không có chỗ trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn ba luân thanh tịnh?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thanh tịnh              hoàn toàn mười thiện nghiệp đạo, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải              viên mãn ba luân thanh tịnh.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp              trước?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đã chứng              đắc đại bi và nghiêm tịnh cõi nước, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải              viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp              trước.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả pháp và ở trong đó không              có sự chấp trước?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất              cả pháp, chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong ấy không thủ, không              trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng              đối với tất cả pháp và ở trong đó không có sự chấp trước.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả hữu tình và trong đó              không có sự chấp trước?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các              hữu tình chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong đó không thủ, không              trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng              đối với tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự              chấp trước?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với lý              thú chơn thật của tất cả pháp, tuy như thật thông đạt nhưng không có              đối tượng thông đạt và ở trong đó không thủ, không trụ, thì đó là lý              do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở              trong đó không có sự chấp trước.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn trí Vô-sanh-nhẫn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chịu đựng              sự không sanh, không diệt, không có sự tạo tác của tất cả pháp và              biết danh sắc rốt ráo chẳng sanh, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải              viên mãn trí Vô-sanh-nhẫn.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất              cả pháp hành, không hai tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải              viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự diệt trừ phân biệt?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất              cả pháp, chẳng khởi sự phân biệt, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải              viên mãn sự diệt trừ phân biệt.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự xa lìa các tưởng?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa tất              cả tưởng lớn nhỏ vô lượng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên              mãn sự xa lìa các tưởng.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự xa lìa các kiến chấp?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa tất              cả kiến chấp của Thanh-văn, Độc-giác v.v... thì đó là lý do mà đại              Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự xa lìa phiền não?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xả bỏ sự              tương tục của tất cả tập khí phiền não hữu lậu, thì đó là lý do mà              đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa phiền não.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn bậc Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu trí nhất              thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì đó là lý do mà đại              Bồ-tát phải viên mãn bậc Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự điều phục tâm tánh?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              pháp của ba cõi, chẳng ưa, chẳng động, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự điều phục tâm tánh.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khéo nhiếp              sáu căn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự tịch tịnh              tâm tánh.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn tánh vô ngại trí?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu hành              chắng đắc Phật nhãn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn              tánh vô ngại trí.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự không ái nhiễm?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với              ngoại lục xứ, có khả năng khéo xả bỏ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự không ái nhiễm.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong              chúng hội của Phật?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu hành              thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính              cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thỉnh chuyển pháp              luân, làm lợi ích tất cả, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên              mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng              hội của Phật.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dùng trí              nhất tâm, biết khắp như thật tâm và tâm sở của tất cả hữu tình, thì              đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất              cả hữu tình.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn các thần thông du hý?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dùng các              thứ thần thông tự tại dạo chơi, để được thấy Phật, từ cõi Phật này              đến cõi Phật khác, cũng lại chẳng sanh ý tưởng về sự dạo chơi cõi              Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn các thần thông du              hý.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn cái thấy các cõi Phật và như cái thấy ấy, mà tự trang              nghiêm các cõi Phật?               Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ ở              một cõi Phật mà có khả năng thấy vô biên các cõi Phật trong mười              phương, cũng có khả năng thị hiện nhưng chẳng từng sanh ý tưởng về              cõi Phật, lại vì thành thục các hữu tình, nên hiện ở trong thế giới              ba lần ngàn, ở ngôi Chuyển luân vương mà tự trang nghiêm, cũng có              khả năng xả bỏ mà không có sự chấp trước, thì đó là lý do mà đại              Bồ-tát phải viên mãn cái thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự              trang nghiêm các cõi Phật.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như              Lai, như thật quan sát?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn lợi              ích cho các hữu tình, nên đối với nghĩa thú của pháp, như thật phân              biệt, như vậy gọi là dùng pháp cúng dường, thừa sự chư Phật, lại              phải quan sát kỹ pháp thân chư Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân              Như Lai, như thật quan sát.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự hiểu biết về cái trí thắng, liệt của căn cơ các hữu              tình?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát an trú mười              lực Phật, biết rõ như thật, các căn thắng liệt của tất cả hữu tình,              thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự hiểu biết về cái trí              thắng, liệt của căn cơ các hữu tình.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy vô sở              đắc làm phương tiện, nghiêm tịnh tâm hành tất cả hữu tình, thì đó là              lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát trụ đẳng              trì này, tuy có khả năng hoàn thành tất cả sự nghiệp mà tâm chẳng              động, lại tu đẳng trì đến thành thục cùng tột, chẳng khởi gia hạnh              mà luôn luôn hiện tiền, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn              đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình để nhập              vào các cõi, tự hiện hóa sanh?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn              thành thục thiện căn thù thắng của các loài hữu tình, tùy theo điều              kiện thuận tiện của họ nên nhập vào các cõi mà thị hiện thọ sanh,              thì đó là lý do mà đại Bồ-tát tùy theo căn cơ thành thục của các hữu              tình, nhập vào các cõi tự hiện hóa sanh.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều              viên mãn?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì đã tu              đầy đủ sáu phép Ba-la-mật-đa hết sức viên mãn rồi, nên hoặc vì              nghiêm tịnh các cõi Phật, hoặc vì thành thục các loại hữu tình, tùy              sở nguyện của tâm, đều được viên mãn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện              đều viên mãn.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau như chư              thiên, rồng, Dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà,              Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v...?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu tập sự              hiểu biết vô ngại về ngôn từ thù thắng, biết rõ sự sai biệt về âm              thanh ngôn ngữ của hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên              mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau như chư              thiên, rồng, Dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà,              Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... khác nhau.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn trí biện thuyết vô ngại?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu tập sự              hiểu biết vô ngại, biện tài thù thắng, vì các hữu tình thường thuyết              không dừng nghỉ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn trí              biện thuyết vô ngại.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự nhập thai hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tuy đối với              tất cả chỗ sanh ra, sự thật là thường hóa sanh, nhưng vì lợi ích hữu              tình nên hiện nhập thai tạng, ở trong đó, đầy đủ các việc thù thắng,              thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn việc nhập vào thai hoàn              hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sự đản sanh hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào khi              xuất thai, thị hiện các việc thù thắng hy hữu, khiến các hữu tình              thấy đều hoan hỷ, được lợi lạc lớn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát              phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn gia tộc hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoặc sanh              vào nhà thuộc dòng họ lớn Sát-đế-lợi, hoặc sanh vào nhà thuộc dòng              họ lớn Bà-la-môn, việc nương vào cha mẹ để ra đời không thể chê              trách, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn gia tộc hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn chủng tánh hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường hội              nhập trong chủng tánh các đại Bồ-tát ở quá khứ mà sanh ra, thì đó là              lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn quyến thuộc hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường lấy              vô lượng vô số Bồ-tát làm quyến thuộc, chẳng phải là các loại hỗn              tạp tầm thường, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn quyến              thuộc hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn sanh thân hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào lúc sơ              sinh, thân thể hoàn hảo, tất cả tướng tốt, phóng hào quang lớn,              chiếu khắp vô biên thế giới chư Phật, cũng khiến thế giới ấy, sáu              thứ biến động, hữu tình gặp được đều được lợi ích, thì đó là lý do              mà đại Bồ-tát phải viên mãn sanh thân hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn xuất gia hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào lúc              xuất gia, vô lượng vô số trời, rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v… đi              theo hai bên, đi đến đạo tràng, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, thọ              trì bình bát, hướng dẫn vô lượng vô số hữu tình, khiến nương vào ba              thừa mà hướng đến viên tịch, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên              mãn việc xuất gia hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn việc trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát có thiện              căn thù thắng, nguyện lực rộng lớn, đều được cây Bồ-đề đẹp đẽ như              thế này: Dùng ngọc quí phệ lưu ly làm thân, vàng ròng làm gốc, cành,              lá, hoa, quả đều dùng loại bảy báu hảo hạng làm thành; cây này cao              rộng phủ khắp cõi Phật trong thế giới ba lần ngàn, ánh sáng rực rỡ              chiếu khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, thì đó là lý              do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo.              Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải              viên mãn tất cả công đức hoàn hảo?               Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đầy đủ tư              lương trí tuệ thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật,              thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn tất cả công đức hoàn              hảo.
