XIII. PHẨM MA-HA-TÁT
                           03     
 Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Mãn              Từ Tử: Tại sao, gọi là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên              nương vào Ðại-thừa?              Mãn Từ Tử đáp: Xá Lợi Tử! Nếu đại              Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất              thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương              bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thấy có bố thí, chẳng thấy có bố thí              Ba-la-mật-đa, chẳng thấy có người cho, chẳng thấy có kẻ nhận, chẳng              thấy có vật cho, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát nương bố thí Ba-la-mật-đa.              Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi              làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương tịnh giới              Ba-la-mật-đa, chẳng thấy có tịnh giới, chẳng thấy có tịnh giới              Ba-la-mật-đa, chẳng thấy có người trì giới, chẳng thấy có kẻ phạm              giới, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát nương tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi              làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương an nhẫn Ba-la-mật-đa,              chẳng thấy có an nhẫn, chẳng thấy có an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng              thấy có người nhẫn, chẳng thấy có cảnh để nhẫn, chẳng thấy có pháp              ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát nương an nhẫn              Ba-la-mật-đa.              Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi              làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương tinh tấn Ba-la-mật-đa,              chẳng thấy có tinh tấn, chẳng thấy có tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng              thấy có người tinh tấn, chẳng thấy có kẻ giải đãi, chẳng thấy pháp              ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát nương tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi              làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương tịnh lự Ba-la-mật-đa,              chẳng thấy có tịnh lự, chẳng thấy có tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng              thấy có người tu định, chẳng thấy có kẻ tán loạn, chẳng thấy có cảnh              giới định, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát nương tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi              làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa,              chẳng thấy có bát nhã, chẳng thấy có Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng              thấy có người tu tuệ, chẳng thấy có kẻ ngu si, chẳng thấy pháp quá              khứ, vị lai, hiện tại, chẳng thấy pháp thiện, bất thiện, vô ký,              chẳng thấy pháp dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chẳng thấy pháp học,              vô học, phi học, phi vô học, chẳng thấy pháp kiến sở đoạn, tu sở              đoạn, phi sở đoạn, chẳng thấy pháp thế gian, xuất thế gian, chẳng              thấy pháp sắc, vô sắc, chẳng thấy pháp hữu kiến, vô kiến, chẳng thấy              pháp hữu đối, vô đối, chẳng thấy pháp hữu lậu, vô lậu, chẳng thấy              pháp hữu vi, vô vi, chẳng thấy pháp bị ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử,              đó là đại Bồ-tát nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Xá Lợi Tử! Nên biết, đó là đại Bồ-tát,              vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa?              Lại nữa, Xá Lợi tử! Nếu đại Bồ-tát,              lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở              đắc làm phương tiện, vì chủ động sự tu hành, nên tu bốn niệm trụ, vì              chủ động sự tu hành, nên tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu pháp môn giải thoát không, vì chủ động              sự tu hành, nên tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì này              Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương              vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu bốn tịnh lự, vì chủ động sự tu hành, nên              tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu bố thí Ba-la-mật-đa, vì chủ động sự tu              hành, nên tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã              Ba-la-mật-đa, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc              các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu năm loại mắt, vì chủ động sự tu hành,              nên tu sáu phép thần thông, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì              muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu mười lực của Phật, vì chủ động sự tu              hành, nên tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ,              đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết,              trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì              chủ động sự tu hành, nên tu trí nội không, trí ngoại không, trí nội              ngoại không, trí không không, trí đại không, trí thắng nghĩa không,              trí hữu vi không, trí vô vi không, trí tất cánh không, trí vô tế              không, trí tản không, trí vô biến dị không, trí bản tánh không, trí              tự tướng không, trí cộng tướng không, trí nhất thiết pháp không, trí              bất khả đắc không, trí vô tánh không, trí tự tánh không, trí vô tánh              tự tánh không, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc              các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát,              lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở              đắc làm phương tiện, quán sát như thật: Đại Bồ-tát chỉ có giả danh,              mượn lời nói để trình bày, vì Bồ-đề và Tát-đỏa đều chẳng thể nắm bắt              được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu              tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Sắc chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày,              vì sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì thọ, tưởng, hành, thức, chẳng              thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi              lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Nhãn xứ chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ              chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân,              ý xứ chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì              muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Sắc xứ chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp              xứ chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì thanh, hương, vị,              xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Nhãn giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được; sắc giới, nhãn thức giới              và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn              xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Nhĩ giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được; thanh giới, nhĩ thức giới              và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì thanh giới cho đến các thọ do              nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi              Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào              Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Tỷ giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được; hương giới, tỷ thức giới và              tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả danh,              mượn lời nói để trình bày, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc              làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là              đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Thiệt giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được; vị giới, thiệt thức giới              và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt              xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Thân giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì thân giới chẳng thể nắm bắt được; xúc giới, thân thức giới              và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì xúc giới cho đến các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Ý giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì ý giới chẳng thể nắm bắt được; pháp giới, ý thức giới và ý              xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chỉ có giả danh, mượn              lời nói để trình bày, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm              duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Địa giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì địa giới chẳng thể nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không,              thức giới, chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì thủy, hỏa,              phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử,              đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào              Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Thánh đế khổ chỉ có giả danh, mượn lời nói để              trình bày, vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập,              diệt, đạo, chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì Thánh đế              tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại              Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Vô minh chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì vô minh chẳng thể nắm bắt được; hành, thức, danh sắc, lục              xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não              chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì hành cho đến lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử,              đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào              Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: cái không nội chỉ có giả danh, mượn lời nói để              trình bày, vì cái không nội chẳng thể nắm bắt được; cái không ngoại,              cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng              nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái              không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác,              cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái              không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không              tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì cái không ngoại cho đến cái              không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử,              đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào              Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Chơn như chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình              bày, vì chơn như chẳng thể nắm bắt được; pháp giới, pháp tánh, pháp              định, pháp trụ, tánh ly sanh, tánh bình đẳng, thật tế chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì pháp giới cho đến thật tế chẳng              thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi              lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Bốn tịnh lự chỉ có giả danh, mượn lời nói để              trình bày, vì bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được; bốn vô lượng, bốn              định vô sắc chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì bốn vô              lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Bốn niệm trụ chỉ có giả danh, mượn lời nói để              trình bày, vì bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn,              bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo              chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì bốn chánh đoạn cho              đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Pháp môn giải thoát không chỉ có giả danh, mượn              lời nói để trình bày, vì pháp môn giải thoát không, chẳng thể nắm              bắt được; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chỉ có giả danh,              mượn lời nói để trình bày, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát,              vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: bố thí Ba-la-mật-đa chỉ có giả danh, mượn lời nói              để trình bày, vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được; tịnh              giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có giả              danh, mượn lời nói để trình bày, vì tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó              là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Năm loại mắt chỉ có giả danh, mượn lời nói để              trình bày, vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần              thông chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì sáu phép thần              thông chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát,              vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Mười lực của Phật chỉ có giả danh, mượn lời nói              để trình bày, vì mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được; bốn điều              không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại              xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng chỉ có giả danh, mượn lời nói để trình bày, vì bốn              điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được,              thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình,              nên nương vào Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện,              quán sát như thật: Quả vị giác ngộ cao tột chỉ có giả danh, mượn lời              nói để trình bày, vì quả vị giác ngộ cao tột chẳng thể nắm bắt được;              bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chỉ có giả danh, mượn lời nói              để trình bày, vì bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng thể              nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc              các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Lại nữa, Xá Lợi tử! Nếu đại Bồ-tát,              lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở              đắc làm phương tiện, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị              giác ngộ cao tột, thường tu, hoàn thành thần thông bấ thối, thành              thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật              khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, ở              chỗ các đức Phật, nghe và thọ pháp tương ưng Ðại-thừa; đã nghe và              thọ rồi, như lý tư duy, tinh tấn tu học, thì này Xá Lợi Tử, đó là              đại Bồ-tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Ðại-thừa.              Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy, tuy              nương vào Ðại-thừa, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính              cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, ở chỗ các đức Phật              nghe và thọ Chánh pháp, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật,              nhưng tâm ngay lúc đầu, không có các tưởng về cõi Phật ....              Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy, an trú              trong bậc bất nhị, quán các hữu tình, nên dùng thân nào để được lợi              ích, thì liền hiện thọ ngay thân ấy để khiến hữu tình kia được lợi              ích.               Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy, cho đến              khi chứng đắc trí nhất thiết trí, tùy nơi sanh, chẳng lìa Ðại-thừa.                           Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy, chẳng              bao lâu sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí, vì người, trời v.v… mà              chuyển bánh xe Chánh pháp. Bánh xe pháp ấy, tất cả Thanh-văn,              Ðộc-giác, Sa-môn, Bà-la-môn, Ma-vương, Phạm-vương, Thiên, Long,              Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc,              Mạc-hô-lạc già, nhân phi nhân v.v... tất cả thế gian, đều không có              khả năng chuyển được.               Xá Lợi Tử! Vì các Bồ-tát, do các              phương tiện thiện xảo như vậy, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, mà              nương vào Ðại-thừa, nên còn gọi là Ma-ha-tát. Xá              Lợi Tử! Do vậy, vì muốn lợi lạc các hữu tình, mà nương vào Ðại-thừa.              đại Bồ-tát, khắp vì chư Phật Thế Tôn ở vô số thế giới trong mười              phương, ở giữa đại chúng, hoan hỷ tán thán, nói như thế này: Ở              phương đó, trong thế giới đó, có đại Bồ-tát tên như vậy, vì muốn lợi              lạc các hữu tình, mà nương vào Ðại-thừa, chẳng bao lâu sẽ được chứng              đắc trí nhất thiết trí, vì trời, người v.v... mà chuyển bánh xe              Chánh pháp. Bánh xe ấy, các chúng trời, người, Ma, Phạm, Thanh-văn              v.v... trong thế gian, đều chẳng có khả năng chuyển được. Cứ như              vậy, lời tuyên bố ấy lần lượt lan khắp mười phương, các chúng trời              người ... nghe đều hoan hỷ, cùng nói như thế này: Bồ-tát như vậy,              chẳng bao lâu sẽ được chứng đắc trí nhất thiết trí, chuyển bánh xe              Chánh pháp làm lợi ích, an lạc loài hàm thức.                                   XIV. PHẨM ÁO GIÁO ĐẠI - THỪA       
 01                Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch              Phật: Bạch Thế Tôn! Như nói, đại Bồ-tát là người mặc áo giáp              Ðại-thừa, thì thế nào gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa?                            Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              mặc áo giáp bố thí Ba-la-mật-đa, mặc áo giáp tịnh giới, an nhẫn,              tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì này Thiện Hiện, như              vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, mặc áo giáp bốn tịnh              lự, mặc áo giáp bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì này Thiện Hiện,              như vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, mặc áo giáp bốn niệm              trụ; mặc áo giáp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy              chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi              là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát mặc áo giáp nội không,              ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa              không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tản              không, vô biến dị không, bản tánh không, tự tướng không, cộng tướng              không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự              tánh không, vô tánh tự tánh không, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi              là đại Bồ-tát, mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát mặc áo giáp ngũ nhãn,              mặc áo giáp lục thông, thì này Thiện Hiện, như vậy gọi là đại Bồ-tát              mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, mặc áo giáp mười lực              của Phật, mặc áo giáp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông              suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,              trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì này Thiện              Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, mặc áo giáp các công              đức thân tướng Phật, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ-tát              mặc áo giáp Ðại-thừa.              Lại nữa,Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát,              mặc áo giáp các công đức như vậy, phóng đại quang minh chiếu khắp              thế giới ba lần ngàn, cũng khiến ba trong sáu cõi biến động, trong              đó, những khổ cụ ở địa ngục như lửa v.v... và sự thống khổ thân tâm              của các hữu tình ấy, đều được diệt trừ. Bồ-tát biết họ đã lìa được              các khổ, liền vì họ mà xưng tán công đức Tam-bảo, họ được nghe rồi,              thân tâm an lạc; từ đó chết đi, sanh vào trong cõi trời, người, liền              được phụng sự, hầu hạ chư Phật, Bồ-tát, thân thừa cúng dường, nhận              lãnh Chánh pháp âm; trong đó, bàng sanh tàn hại lẫn nhau, dùng roi              đánh đuổi bức bách, các khổ vô lượng, đều được diệt trừ; đại Bồ-tát              biết họ đã lìa các khổ, cũng vì họ mà xưng tán công đức Tam-bảo; họ              được nghe rồi, thân tâm an lạc. Từ đây chết đi, sanh vào cõi trời,              người, liền được phụng sự, hầu hạ chư Phật, Bồ-tát, thân thừa cúng              dường, nhận lãnh Chánh pháp âm; trong đó, quỷ giới, sự sợ hãi, đói              khát, thân tâm tiều tụy, khổ não, các khổ vô lượng, đều được trừ              diệt. Bồ-tát biết họ đã lìa các khổ, cũng vì họ mà xưng tán công đức              Tam-bảo; họ được nghe rồi, thân tâm an lạc. Từ đây chết đi, sanh vào              trong cõi trời, người, liền được phụng sự chư Phật, Bồ-tát, thân              thừa cúng dường, nhận lãnh Chánh pháp âm, thì này Thiện Hiện, như              vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Nếu đại Bồ-tát, mặc áo giáp các công              đức như vậy, phóng đại quang minh, chiếu khắp vô số thế giới chư              Phật trong mười phương, cũng khiến ba trong sáu cõi của thế giới kia              biến động, trong đó, địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, có các khổ, đều              được trừ diệt; Bồ-tát biết họ đã lìa các khổ, cũng vì họ mà xưng tán              công đức Tam-bảo; họ được nghe rồi, thân tâm an lạc. Từ đây chết đi,              sanh vào trong cõi trời, người, liền được phụng sự, hầu hạ chư Phật,              Bồ-tát thân thừa cúng dường, nhận Chánh pháp âm, thì này Thiện Hiện,              như vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hay đệ tử              của y, ở ngã tư đường, trước đám đông, biến thành vô lượng hữu tình              thọ các thứ khổ trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng lại phóng              quang, làm đại địa biến động, khiến cho các cái khổ của hữu tình kia              đều dứt, lại vì họ mà xưng tán Tam-bảo: Phật, Pháp, Tăng, khiến họ              nghe rồi thân tâm an lạc, từ đây chết đi, sanh vào trong cõi trời,              người, thừa sự, cúng dường chư Phật, Bồ-tát, ở chỗ chư Phật, nhận              Chánh pháp âm.               Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc              biến hóa như vậy là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!              Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát mặc              áo giáp các công đức như vậy, phóng đại quang minh, làm biến động              đại địa, cứu giúp nỗi thống khổ của hữu tình nơi ba đường ác trong              vô lượng thế giới, khiến sanh vào cõi trời, người, thấy Phật, nghe              Pháp, cũng lại như vậy, tuy là có làm, nhưng không có một cái gì là              thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như              huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát,              an trú bố thí Ba-la-mật-đa, biến cả thế giới ba lần ngàn thành như              ngọc Phệ-lưu-ly, tự thân cũng hóa làm Chuyển luân vương, có bảy báu,              quyến thuộc, trước sau vây quanh, trong đó, hữu tình cần ăn thì cho              ăn, cần uống thì cho uống, cần y phục thì cho y phục, cần xe thì cho              xe; hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng xá, ngọa cụ,              đèn đuốc, thuốc men, vàng, bạc, chơn châu, san hô, bích ngọc, và các              thứ dụng cụ khác để nuôi sống, tùy theo sự nhu cầu, mà cho tất cả.              Làm việc bố thí như vậy rồi, lại vì họ mà nói pháp tương ưng sáu              phép Ba-la-mật-đa, khiến họ nghe rồi, cho đến chứng đắc quả vị giác              ngộ cao tột, đối với pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa, thường              chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo              giáp Ðại-thừa,               Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ              tử của y, ở trước đại chúng, nơi ngã tư đường, biến hóa thành các              loại hữu tình nghèo khổ, cô độc, tật nguyền, bệnh hoạn; tùy theo sự              nhu cầu của họ, đều biến hóa ra mà cho. Thiện Hiện! Theo ý ông thì              sao? Việc biến hóa như vậy là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát an              trú bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc biến thế giới thành như ngọc              Phệ-lưu-ly, hoặc tự thân hóa làm Chuyển Luân vương v.v... tùy theo              nhu cầu của loài hữu tình mà cho và vì họ mà tuyên nói pháp tương              ưng sáu phép Ba-la-mật-đa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không              có một cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là              không, đều như huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát,              tự an trú tịnh giới Ba-la-mật-đa, vì muốn lợi lạc các hữu tình, sanh              vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi Chuyển luân vương, an lập vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở trong mười thiện nghiệp đạo; hoặc              lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở bốn tịnh lự, hay bốn              vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn              hữu tình ở bốn niệm trụ, hay bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc lại an lập vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở pháp môn giải thoát không, hay              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc lại an lập vô lượng,              vô số trăm ngàn hữu tình ở bố thí Ba-la-mật-đa, hay tịnh giới, an              nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc lại an lập vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở năm loại mắt, hay sáu phép thần              thông; hoặc lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở mười lực              của Phật, hay bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại              từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất              thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, khiến an trụ rồi, cho              đến chứng được quả vị giác ngộ cao tột, đối với pháp như vậy, thường              chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ-tát mặc áo              giáp Ðại-thừa.              Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến ra vô lượng hữu              tình, khiến an trú trong mười thiện nghiệp đạo; hoặc lại khiến an              trú bốn tịnh lự … cho đến trí nhất thiết tướng. Thiện Hiện! Theo ý              ông thì sao? Việc biến hóa như vậy là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì              hữu tình, sanh vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi Chuyển luân              vương, an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở mười thiện nghiệp              đạo; hoặc lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở bốn tịnh              lự … cho đến trí nhất thiết tướng, cũng lại như vậy; tuy có làm              nhưng không có một cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các              pháp là không , đều như huyễn vậy.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tự              an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm              ngàn hữu tình, khiến an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa. Thiện Hiện! Thế              nào là đại Bồ-tát tự an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa?                           Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, từ khi mới              phát tâm cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, mặc áo giáp an nhẫn,              thường tự nghĩ: Giả sử tất cả hữu tình cầm dao, gậy, đất, đá v.v...              đến làm hại, ta hoàn toàn chẳng khởi lên một niệm tức giận và khuyên              các hữu tình cũng nhẫn như vậy. Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, như ý              nghĩ trong tâm và sự tiếp xúc với cảnh không trái nhau và khuyên các              hữu tình an trú nhẫn như vậy … cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao              tột, đối với nhẫn như vậy, thường chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện,              như vậy gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.              Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các              loại hữu tình, đều cầm dao, gậy, đất, đá v.v... làm hại nhà ảo thuật              hoặc đệ tử của y. Khi ấy, nhà ảo thuật … đối với các hữu tình biến              hóa ra đó, đều chẳng khởi tâm muốn báo oán, mà khuyên những hữu tình              ấy an trú an nhẫn như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc biến              hóa như vậy là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát mặc              áo giáp an nhẫn, tự an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa,              thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một              cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều              như huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tự              an trú tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm              ngàn hữu tình, khiến an trú tinh tấn Ba-la-mật-đa. Thiện Hiện! Thế              nào là đại Bồ-tát tự an trú tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, an trú tinh tấn Ba-la-mật-đa?                           Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí              nhất thiết trí, thân tâm tinh tấn, đoạn các pháp ác, tu các pháp              thiện, cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, tu tập như              vậy, thân tâm tinh tấn … cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột,              đối với sự tinh tấn như vậy, thường chẳng xa lìa, thì này Thiện              Hiện, như vậy gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp Ðại-thừa.               Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các              loại hữu tình, và nhà ảo thuật đó tự thể hiện hăng hái, thân tâm              tinh tấn, cũng khuyên hữu tình được biến hóa ra, tu tinh tấn hăng              hái như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc biến hóa như vậy              là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát lấy              tâm tương ưng trí nhất thiết trí, thân tâm tinh tấn, đoạn các pháp              ác, tu các pháp thiện, cũng khuyên hữu tình tu tập như vậy, thân tâm              tinh tấn, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một cái nào              thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như              huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát,              tự an trú tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm              ngàn hữu tình, khiến an trú tịnh lự Ba-la-mật-đa. Thiện Hiện! Thế              nào là đại Bồ-tát tự an trú tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng khuyên vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình khiến an trú tịnh lự Ba-la-mật-đa?                           Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, đối với              tất cả pháp, an trú định bình đẳng, chẳng thấy các pháp có định, có              loạn, mà thường tu tập tịnh lự Ba-la-mật-đa như vậy, thì cũng khuyên              vô số trăm ngàn hữu tình tu tập tịnh lự bình đẳng như vậy, cho đến              chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, đối với định như vậy, thường              chẳng xa lìa              Thiện Hiện! Như vậy gọi là đại Bồ-tát              mặc áo giáp Ðại-thừa.               Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các              loại hữu tình, nhưng nhà ảo thuật kia đối với pháp, tự hiện, an trú              định bình đẳng, cũng khuyên các hữu tình được biến hóa ra, tu tịnh              lự bình đẳng như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc biến hóa              như vậy là có thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đối              với tất cả pháp, an trú định bình đẳng, cũng khuyên hữu tình tu tập              tịnh lự bình đẳng như vậy, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy,              tuy có làm nhưng không có một cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì              tánh của các pháp là không, đều như huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát,              tự an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm              ngàn hữu tình, khiến an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Thiện Hiện! Thế              nào là đại Bồ-tát tự an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng khuyên vô              lượng, vô số trăm ngàn hữu tình khiến an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa?                           Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, tự an trú              Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô hý luận, chẳng thấy các pháp có sanh, có              diệt, có nhiễm, có tịnh và chẳng thấy có sự sai biệt giữa bờ bên này              và bờ bên kia, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình,              an trú tuệ vô hý luận như vậy, cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao              tột, đối với tuệ như vậy, thường chẳng xa lìa.              Thiện Hiện! Như vậy gọi là đại Bồ-tát              mặc áo giáp Ðại-thừa.               Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các              loại hữu tình, và nhà ảo thuật đó tự hiện an trú tuệ vô hý luận,              cũng khuyên các hữu tình biến hóa ra ấy, khiến họ tu tập bát nhã như              vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc biến hóa như vậy là có              thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!              Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát tự an              trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô hý luận, cũng khuyên hữu tình tu tập tuệ              vô hý luận như vậy, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có              làm nhưng không có một cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của              các pháp là không, đều như huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              mặc áo giáp các công đức như trên đã nói, ở khắp vô số thế giới chư              Phật trong mười phương, dùng sức thần thông, tự biến thân mình, cùng              khắp thế giới chư Phật như vậy, tùy theo sự ưa thích của hữu tình mà              thị hiện, tự an trú bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên kẻ xan tham, khiến              an trú bố thí; tự an trú tịnh giới Ba-la-mật-đa, khuyên kẻ phạm              giới, khiến an trú tịnh giới; tự an trú an nhẫn Ba-la-mật-đa, khuyên              kẻ bạo ác, khiến an trú an nhẫn; tự an trú tinh tấn Ba-la-mật-đa,              khuyên kẻ giải đãi, khiến an trú tinh tấn; tự an trú tịnh lự              Ba-la-mật-đa, khuyên kẻ loạn tâm, khiến an trú tịnh lự; tự an trú              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khuyên kẻ ngu si, khiến an trú diệu tuệ, thì              đại Bồ-tát như vậy, đã an lập hữu tình ở sáu phép Ba-la-mật-đa rồi,              lại tùy theo tiếng nói, của mỗi loại mà nói pháp tương ưng sáu phép              Ba-la-mật-đa, khiến họ nghe rồi, cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ              cao tột, đối với pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa, thường chẳng              xa lìa.              Thiện Hiện! Như vậy gọi là đại Bồ-tát              mặc áo giáp Ðại-thừa.               Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các              loại hữu tình, và nhà ảo thuật ấy, tự hiện an trú sáu phép              Ba-la-mật-đa, cũng khuyên những hữu tình được biến ra, khiến họ an              trụ. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc biến hóa như vậy là có              thật chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ở              khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, tự hiện thân mình,              tùy theo loài mà an trú sáu phép Ba-la-mật-đa, cũng khuyên hữu tình,              khiến họ an trú … cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thường              chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một cái              nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như              huyễn.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát,              mặc áo giáp các công đức như trên đã nói, lấy tâm tương ưng trí nhất              thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, lợi ích              an lạc tất cả hữu tình, chẳng xen lẫn tác ý Thanh-văn, Ðộc-giác,              nghĩa là chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở bố thí              Ba-la-mật-đa, còn hữu tình như thế thì sẽ chẳng an lập! Chỉ nghĩ thế              này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở bố thí              Ba-la-mật-đa; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, còn hữu              tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ: Ta sẽ an lập vô lượng,              vô số, vô biên hữu tình ở tịnh giới … cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa,              chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở cái không nội,              còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập, chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ              an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở cái không nội; chẳng nghĩ              thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở cái không ngoại, cái không              nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa,              cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không              không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái              không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không              tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh,              cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, còn hữu tình như              thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng,              vô số, vô biên hữu tình ở cái không ngoại … cho đến cái không không              tánh tự tánh; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              bốn tịnh lự, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế              này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở bốn tịnh lự;              chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở bốn vô lượng,              bốn định vô sắc, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ              thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở bốn vô              lượng, bốn định vô sắc; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình              như thế ở bốn niệm trụ, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập;              chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở              bốn niệm trụ; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác,              tám chi thánh đạo, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ              nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở bốn              chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an              lập hữu tình như thế ở pháp môn giải thoát không, còn hữu tình như              thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng,              vô số, vô biên hữu tình ở pháp môn giải thoát không; chẳng nghĩ thế              này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở pháp môn giải thoát vô tướng,              vô nguyện, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế              này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình              như thế ở năm loại mắt, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập;              chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở              năm loại mắt; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              sáu phép thần thông, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ              nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở sáu              phép thần thông; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              mười lực của Phật, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ              nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở mười              lực của Phật; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở              bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại              hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an              lập; chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu              tình ở bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng; chẳng nghĩ              thế này: Ta sẽ an lập hữu tình như thế ở quả Dự-lưu, còn hữu tình              như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô              lượng, vô số, vô biên hữu tình ở quả Dự-lưu; chẳng nghĩ thế này: Ta              sẽ an lập hữu tình như thế ở quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và quả              vị Ðộc-giác, còn hữu tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế              này: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở quả Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán, và quả vị Ðộc-giác; chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an              lập hữu tình như thế ở đạo Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột, còn hữu              tình như thế, thì sẽ chẳng an lập; chỉ nghĩ thế này: Ta sẽ an lập vô              lượng, vô số, vô biên hữu tình ở đạo Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao              tột, thì này Thiện Hiện, như vậy gọi là đại Bồ-tát mặc áo giáp              Ðại-thừa.              Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ              tử của y, ở trước đám đông, tại ngã tư đường, biến hóa ra vô lượng,              vô số, vô biên hữu tình, an lập ở sáu phép Ba-la-mật-đa … cho đến an              lập ở quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Việc              biến hóa như vậy là có thật hay chăng?               Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!                           Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát lấy              tâm tương ưng trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc              làm phương tiện, an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở sáu phép              Ba-la-mật-đa, cho đến an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở quả              vị giác ngộ cao tột, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một              cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều              như huyễn.
