XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
59
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự              tánh của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tám giải              thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ              đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc              lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của              tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến              xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là              không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tám giải thoát              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và cái khổ kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng              thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.              Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc              ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự              tánh của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tám giải              thoát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tám giải thoát và              tự tánh của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tám giải              thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc,              năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường,              hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ              là không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi              đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến              tám chi thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức              là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, bốn              niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v...              có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm              lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không; bốn chánh              đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi              thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là              không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, bốn niệm trụ chẳng              thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới              như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.              Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không; bốn              chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám              chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, bốn niệm trụ chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh              giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc,              năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ              là không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi              đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến              tám chi thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức              là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, bốn              niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì              pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không              là không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp              môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp              môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm              bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát              không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không; pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy              tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng,              vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa              này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc              và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp              môn giải thoát không v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc              và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh              giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì pháp môn giải              thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không; pháp              môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát              không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã,              vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn              không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như              thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp môn              giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không;              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát              không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh              giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm              loại mắt là không; sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần              thông là không. Tự tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì              cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần              thông chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có năm loại              mắt v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không; sáu phép              thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không. Tự tánh của              năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của sáu phép thần              thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này,              năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có năm loại mắt v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là              tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô              ngã. Vì sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không;              sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không. Tự              tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của sáu              phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự              tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã,              vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần thông chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt              là không; sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là              không. Tự tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu              chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì              cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần              thông chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có năm loại mắt              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự              hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp              Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì mười lực Phật              và tự tánh của mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự              hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp              Phật bất cộng và tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp              Phật bất cộng là không. Tự tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải              là tự tánh; tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật              bất cộng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa              này, mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường              kia cũng chẳng thể nắm bắt được; bốn điều không sợ cho đến mười tám              pháp Phật bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có mười lực Phật v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế              là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc              lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì mười lực Phật và tự tánh của              mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông              suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và              tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là              không. Tự tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mười lực              Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng              đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực Phật v.v...              có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc              ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì mười lực Phật và tự tánh của              mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông              suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và              tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là              không. Tự tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mười lực              Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng              đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực Phật v.v...              có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì mười lực Phật và tự              tánh của mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng và tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất              cộng là không. Tự tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất              cộng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này,              mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật              bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực              Phật v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không quên mất              hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh              của pháp không quên mất là không; tánh luôn luôn xả và tự tánh của              tánh luôn luôn xả là không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, pháp không quên              mất chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được thì cái              thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có pháp không quên mất v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không quên mất              hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc              khổ. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh của pháp không quên              mất là không; tánh luôn luôn xả và tự tánh của tánh luôn luôn xả là              không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu              chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt              được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tánh luôn              luôn xả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không quên              mất v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không quên mất              hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh của pháp              không quên mất là không; tánh luôn luôn xả và tự tánh của tánh luôn              luôn xả là không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải              là tự tánh; tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, pháp không quên mất chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp              không quên mất v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô              ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không quên mất              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh của              pháp không quên mất là không; tánh luôn luôn xả và tự tánh của tánh              luôn luôn xả là không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, pháp không quên              mất chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh,              bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có pháp không quên mất v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế              là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự              tánh của trí nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không.              Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được              thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có trí nhất thiết v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới              như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc              lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí              nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh              của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí              nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải              là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc              và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất              thiết v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc              ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí              nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh              của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí              nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải              là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái              ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất              thiết v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh              của trí nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và              tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh              của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái              tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              trí nhất thiết v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và              bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh              giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn              Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp môn              Đà-la-ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả              pháp môn Tam-ma-địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là              không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn              Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt              được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi              có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn              Đà-la-ni hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni              và tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả pháp môn              Tam-ma-địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Tự              tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm              bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả              pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất              cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc              và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh              giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn              Đà-la-ni hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả pháp môn              Đà-la-ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả              pháp môn Tam-ma-địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là              không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn              Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn              Đà-la-ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn              Đà-la-ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả              pháp môn Tam-ma-địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là              không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn              Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt              được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu              quả hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán Nhất-lai hướng,              Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán              quả hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả              và tự tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng,              Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán              quả và tự tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự              tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng,              Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Dự-lưu hướng v.v...              có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu              quả hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc lạc,              hoặc khổ. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn              hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tự tánh của              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh của Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của Nhất-lai              hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới              Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai hướng              cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              Dự-lưu hướng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu              quả hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai              quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc              ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tự              tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh của              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh giới Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm              bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó              còn không có Dự-lưu hướng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là              tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu              quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán Nhất-lai hướng,              Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán              quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và              tự tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng,              Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán              quả và tự tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự              tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng,              Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Dự-lưu hướng v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự              tánh của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này,              tất cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có tất cả quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái              thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế              là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự tánh của              tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc-giác              ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này, tất cả              quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị Độc-giác              có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự tánh              của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này,              tất cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có              tất cả quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và              vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh              giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự              tánh của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này,              tất cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              tất cả quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và              bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh              giới Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.
