Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
Lại  nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên  chấp đây là sắc, chẳng nên chấp đây là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao?  Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là nhãn xứ,  chẳng nên chấp đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì chấp là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là sắc xứ, chẳng nên chấp đây  là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm  phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là nhãn giới, chẳng nên chấp  đây là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm  duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là nhĩ giới, chẳng nên chấp đây là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc  cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở  đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là tỷ giới, chẳng nên chấp đây  là hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên  sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là thiệt giới, chẳng nên chấp đây là vị giới, thiệt thức giới và thiệt  xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là thân giới, chẳng nên chấp  đây là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm  duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là ý giới, chẳng nên chấp đây là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng  các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc  làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là địa giới, chẳng nên chấp đây  là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở  đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là Thánh đế khổ, chẳng nên chấp  đây là thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm  phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là vô minh, chẳng nên chấp đây  là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử,  sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa,  chẳng nên chấp đây là cái không nội, chẳng nên chấp đây là cái không  ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không  thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái  không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái  không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất  cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái  không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu  sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là chơn như, chẳng nên chấp đây  là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh  bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư  không, cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm  phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng  nên chấp đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,  Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện.  
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng  nên chấp đây là bốn tịnh lự, chẳng nên chấp đây là bốn vô lượng, bốn  định vô sắc. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là tám giải thoát, chẳng nên chấp đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ,  mười biến xứ. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là bốn niệm trụ, chẳng nên chấp đây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm  căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì chấp là  lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi  hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là pháp môn giải thoát  không, chẳng nên chấp đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì  sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca!  Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là năm  loại mắt, chẳng nên chấp đây là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì chấp là  lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi  hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là mười lực của Phật,  chẳng nên chấp đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,  đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì  chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát,  khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là pháp không quên  mất, chẳng nên chấp đây là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu  sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni,  chẳng nên chấp đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì chấp là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là trí nhất thiết, chẳng nên  chấp đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì chấp là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là Thanh-văn thừa, chẳng nên  chấp đây là Ðộc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở  đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là quả Dự-lưu, chẳng nên chấp  đây là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai. Vì  sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây là bậc Cực  hỷ, chẳng nên chấp đây là bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc  Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện  tuệ, bậc Pháp vân. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp đây  là bậc phàm phu, chẳng nên chấp đây là bậc chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc  Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc  Như Lai. Vì sao? Vì chấp là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại  nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên  trụ sắc là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức  là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ sắc là lạc, hoặc khổ, chẳng nên  trụ thọ, tưởng, hành, thức là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ sắc là ngã,  hoặc vô ngã, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là ngã, hoặc vô ngã;  chẳng nên trụ sắc là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thọ, tưởng,  hành, thức là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ sắc là tịch tịnh, hoặc  chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, hoặc  chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ sắc là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly,  chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly;  chẳng nên trụ sắc là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thọ, tưởng,  hành, thức là không, hoặc bất không; chẳng nên trụ sắc là hữu tướng,  hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là hữu tướng, hoặc  vô tướng; chẳng nên trụ sắc là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ  thọ, tưởng, hành, thức là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là  lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ nhãn xứ là thường,  hoặc vô thường, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là thường, hoặc  vô thường; chẳng nên trụ nhãn xứ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ nhĩ,  tỷ, thiệt, thân, ý xứ là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ nhãn xứ là ngã,  hoặc vô ngã, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là ngã, hoặc vô  ngã; chẳng nên trụ nhãn xứ là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ nhĩ,  tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ nhãn xứ là  tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý  xứ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ nhãn xứ là viễn ly,  hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là viễn  ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ nhãn xứ là không, hoặc bất không,  chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, hoặc bất không; chẳng  nên trụ nhãn xứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ,  thiệt, thân, ý xứ là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ nhãn xứ là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ sắc xứ là thường, hoặc vô thường,  chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là thường, hoặc vô thường;  chẳng nên trụ sắc xứ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thanh, hương, vị,  xúc, pháp xứ là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ sắc xứ là ngã, hoặc vô ngã,  chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là ngã, hoặc vô ngã; chẳng  nên trụ sắc xứ là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thanh, hương, vị,  xúc, pháp xứ là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ sắc xứ là tịch tịnh,  hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là  tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ sắc xứ là viễn ly, hoặc  chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly,  hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ sắc xứ là không, hoặc bất không, chẳng  nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, hoặc bất không; chẳng  nên trụ sắc xứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thanh, hương,  vị, xúc, pháp xứ là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ sắc xứ là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ  là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm  phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ nhãn giới là thường, hoặc vô thường,  chẳng nên trụ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn  xúc làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ nhãn  giới là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn  xúc làm duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ nhãn giới là ngã,  hoặc vô ngã, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm  duyên sanh ra là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ nhãn giới là tịnh, hoặc  bất tịnh, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên  sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ nhãn giới là tịch tịnh,  hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc  làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ  nhãn giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ sắc giới cho đến  các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly;  chẳng nên trụ nhãn giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ sắc giới  cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không;  chẳng nên trụ nhãn giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ sắc  giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô  tướng; chẳng nên trụ nhãn giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên  trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu  nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ nhĩ giới là thường, hoặc vô thường,  chẳng nên trụ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ  xúc làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ nhĩ giới  là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc  làm duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ nhĩ giới là ngã, hoặc  vô ngã, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên  sanh ra là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ nhĩ giới là tịnh, hoặc bất  tịnh, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh  ra là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ nhĩ giới là tịch tịnh, hoặc  chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm  duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ nhĩ  giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thanh giới cho đến  các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly;  chẳng nên trụ nhĩ giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thanh  giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất  không; chẳng nên trụ nhĩ giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ  thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng,  hoặc vô tướng; chẳng nên trụ nhĩ giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện,  chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ tỷ giới là thường, hoặc vô thường,  chẳng nên trụ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc  làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ tỷ giới là  lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm  duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ tỷ giới là ngã, hoặc vô  ngã, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh  ra là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ tỷ giới là tịnh, hoặc bất tịnh,  chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là  tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ tỷ giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch  tịnh, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh  ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ tỷ giới là viễn  ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỷ  xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ tỷ  giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ  do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không; chẳng nên trụ tỷ  giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ hương giới cho đến các  thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên  trụ tỷ giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ hương giới cho  đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện.  Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều  Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ thiệt  giới là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ vị giới, thiệt thức giới  và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thường, hoặc  vô thường; chẳng nên trụ thiệt giới là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ vị  giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ;  chẳng nên trụ thiệt giới là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ vị giới cho  đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là ngã, hoặc vô ngã; chẳng  nên trụ thiệt giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ vị giới cho đến  các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng  nên trụ thiệt giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ vị  giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc  chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ thiệt giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn  ly, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra  là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ thiệt giới là không, hoặc  bất không, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên  sanh ra là không, hoặc bất không; chẳng nên trụ thiệt giới là hữu  tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc  làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ thiệt giới  là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do  thiệt xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì  trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ thân giới là  thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ xúc giới, thân thức giới và thân  xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô  thường; chẳng nên trụ thân giới là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ xúc giới  cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ; chẳng  nên trụ thân giới là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ xúc giới cho đến  các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ  thân giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ xúc giới cho đến các  thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ  thân giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ xúc giới cho  đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch  tịnh; chẳng nên trụ thân giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên  trụ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly,  hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ thân giới là không, hoặc bất không,  chẳng nên trụ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là  không, hoặc bất không; chẳng nên trụ thân giới là hữu tướng, hoặc vô  tướng, chẳng nên trụ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh  ra là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ thân giới là hữu nguyện,  hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm  duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu  sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi  hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ ý giới là thường, hoặc vô  thường, chẳng nên trụ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý  xúc làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ ý giới là  lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm  duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ ý giới là ngã, hoặc vô  ngã, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra  là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ ý giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng  nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịnh,  hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ ý giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh,  chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là  tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ ý giới là viễn ly, hoặc  chẳng viễn ly, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm  duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ ý giới là  không, hoặc bất không, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc  làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không; chẳng nên trụ ý giới là hữu  tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc  làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ ý giới là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý  xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là  lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ địa giới là thường,  hoặc vô thường, chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là  thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ địa giới là lạc, hoặc khổ, chẳng  nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là lạc, hoặc khổ; chẳng nên  trụ địa giới là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không,  thức giới là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ địa giới là tịnh, hoặc bất  tịnh, chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịnh, hoặc  bất tịnh; chẳng nên trụ địa giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh,  chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh, hoặc  chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ địa giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly,  chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly, hoặc chẳng  viễn ly; chẳng nên trụ địa giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ  thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, hoặc bất không; chẳng nên  trụ địa giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thủy, hỏa,  phong, không, thức giới là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ địa  giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong,  không, thức giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát,  khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ Thánh đế khổ là thường,  hoặc vô thường, chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo là thường, hoặc vô  thường; chẳng nên trụ Thánh đế khổ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ  Thánh đế tập, diệt, đạo là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ Thánh đế khổ là  ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo là ngã, hoặc vô  ngã; chẳng nên trụ Thánh đế khổ là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ  Thánh đế tập, diệt, đạo là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ Thánh đế  khổ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ Thánh đế tập,  diệt, đạo là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ Thánh đế khổ  là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo  là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ Thánh đế khổ là không,  hoặc bất không, chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo là không, hoặc bất  không; chẳng nên trụ Thánh đế khổ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng  nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên  trụ Thánh đế khổ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ Thánh đế  tập, diệt, đạo là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu  sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi  hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ vô minh là thường, hoặc vô  thường, chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,  hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là thường, hoặc vô thường;  chẳng nên trụ vô minh là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ hành cho đến lão  tử, sầu, than, khổ, ưu, não là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ vô minh là  ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu,  não là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ vô minh là tịnh, hoặc bất tịnh,  chẳng nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tịnh, hoặc  bất tịnh; chẳng nên trụ vô minh là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh,  chẳng nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tịch tịnh,  hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ vô minh là viễn ly, hoặc chẳng viễn  ly, chẳng nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là viễn  ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ vô minh là không, hoặc bất không,  chẳng nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không,  hoặc bất không; chẳng nên trụ vô minh là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng  nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hữu tướng, hoặc  vô tướng; chẳng nên trụ vô minh là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng  nên trụ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hữu nguyện, hoặc  vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại  nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên  trụ cái không nội là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ cái không  ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không  thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái  không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái  không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất  cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái  không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là thường, hoặc vô thường;  chẳng nên trụ cái không nội là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ cái không  ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là lạc, hoặc khổ; chẳng nên  trụ cái không nội là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ cái không ngoại cho  đến cái không không tánh tự tánh là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ cái  không nội là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến  cái không không tánh tự tánh là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ cái  không nội là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ cái không  ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch  tịnh; chẳng nên trụ cái không nội là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng  nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là viễn  ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ cái không nội là không, hoặc bất  không, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự  tánh là không, hoặc bất không; chẳng nên trụ cái không nội là hữu tướng,  hoặc vô tướng, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không  tánh tự tánh là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ cái không nội là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái  không không tánh tự tánh là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ  là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ chơn như là thường,  hoặc vô thường, chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,  tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp,  thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là thường, hoặc vô  thường; chẳng nên trụ chơn như là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ pháp giới  cho đến cảnh giới bất tư nghì là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ chơn như  là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư  nghì là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ chơn như là tịnh, hoặc bất tịnh,  chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là tịnh, hoặc bất  tịnh; chẳng nên trụ chơn như là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng  nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là tịch tịnh, hoặc chẳng  tịch tịnh; chẳng nên trụ chơn như là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng  nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là viễn ly, hoặc chẳng  viễn ly; chẳng nên trụ chơn như là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ  pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không, hoặc bất không; chẳng  nên trụ chơn như là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ pháp giới  cho đến cảnh giới bất tư nghì là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ  chơn như là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ pháp giới cho đến  cảnh giới bất tư nghì là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là  lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại  Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa  là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,  tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ  bố thí Ba-la-mật-đa là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ tịnh giới cho đến  Bát-nhã-ba-la-mật-đa là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa  là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ tịnh giới cho đến  Bát-nhã-ba-la-mật-đa là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ bố thí  Ba-la-mật-đa là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ tịnh giới cho đến  Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ bố thí  Ba-la-mật-đa là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ tịnh giới  cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng  nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên  trụ tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là viễn ly, hoặc chẳng viễn  ly; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là không, hoặc bất không, chẳng  nên trụ tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, hoặc bất không;  chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng  nên trụ tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là hữu tướng, hoặc vô  tướng; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện,  chẳng nên trụ tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc  vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại  nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên  trụ bốn tịnh lự là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ bốn vô lượng,  bốn định vô sắc là thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ bốn tịnh lự là  lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là lạc, hoặc  khổ; chẳng nên trụ bốn tịnh lự là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ bốn vô  lượng, bốn định vô sắc là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ bốn tịnh lự  là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là  tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ bốn tịnh lự là tịch tịnh, hoặc chẳng  tịch tịnh, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tịch tịnh,  hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ bốn tịnh lự là viễn ly, hoặc chẳng  viễn ly, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là viễn ly, hoặc  chẳng viễn ly; chẳng nên trụ bốn tịnh lự là không, hoặc bất không, chẳng  nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, hoặc bất không; chẳng  nên trụ bốn tịnh lự là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ bốn vô  lượng, bốn định vô sắc là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ bốn  tịnh lự là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn  định vô sắc là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở  đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ tám giải thoát là thường, hoặc vô  thường, chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là  thường, hoặc vô thường; chẳng nên trụ tám giải thoát là lạc, hoặc khổ,  chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là lạc, hoặc  khổ; chẳng nên trụ tám giải thoát là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ tám  thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên  trụ tám giải thoát là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ tám thắng xứ,  chín định thứ đệ, mười biến xứ là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ tám  giải thoát là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ tám thắng  xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh;  chẳng nên trụ tám giải thoát là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên  trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là viễn ly, hoặc chẳng  viễn ly; chẳng nên trụ tám giải thoát là không, hoặc bất không, chẳng  nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, hoặc bất  không; chẳng nên trụ tám giải thoát là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng  nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hữu tướng, hoặc  vô tướng; chẳng nên trụ tám giải thoát là hữu nguyện, hoặc vô nguyện,  chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hữu  nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ bốn niệm trụ là thường, hoặc vô  thường, chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là thường, hoặc vô thường; chẳng  nên trụ bốn niệm trụ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho  đến tám chi thánh đạo là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là  ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo  là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là tịnh, hoặc bất tịnh,  chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịnh, hoặc  bất tịnh; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh,  chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịch tịnh,  hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là viễn ly, hoặc chẳng  viễn ly, chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là viễn  ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là không, hoặc bất  không, chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không,  hoặc bất không; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là hữu tướng, hoặc vô tướng,  chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là hữu tướng,  hoặc vô tướng; chẳng nên trụ bốn niệm trụ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện,  chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là hữu nguyện,  hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại  nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên  trụ pháp môn giải thoát không là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ  pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là thường, hoặc vô thường; chẳng  nên trụ pháp môn giải thoát không là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ pháp  môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ pháp  môn giải thoát không là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ pháp môn giải  thoát vô tướng, vô nguyện là ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên trụ pháp môn  giải thoát không là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ pháp môn giải  thoát vô tướng, vô nguyện là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ pháp môn  giải thoát không là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ pháp  môn giải thoát vô tưgiải thoát vô tưà tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh;  chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly,  chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, hoặc  chẳng viễn ly; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là không, hoặc  bất không, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là  không, hoặc bất không; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là hữu  tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô  nguyện là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát  không là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát  vô tướng, vô nguyện là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy  hữu sở đắc làm phương tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát,  khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ năm loại mắt là thường,  hoặc vô thường, chẳng nên trụ sáu phép thần thông là thường, hoặc vô  thường; chẳng nên trụ năm loại mắt là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ sáu  phép thần thông là lạc, hoặc khổ; chẳng nên trụ năm loại mắt là ngã,  hoặc vô ngã, chẳng nên trụ sáu phép thần thông là ngã, hoặc vô ngã;  chẳng nên trụ năm loại mắt là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ sáu  phép thần thông là tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ năm loại mắt là  tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ sáu phép thần thông là  tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ năm loại mắt là viễn ly,  hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ sáu phép thần thông là viễn ly, hoặc  chẳng viễn ly; chẳng nên trụ năm loại mắt là không, hoặc bất không,  chẳng nên trụ sáu phép thần thông là không, hoặc bất không; chẳng nên  trụ năm loại mắt là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ sáu phép  thần thông là hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ năm loại mắt là  hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ sáu phép thần thông là hữu  nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương  tiện. 
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát, khi hành  Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ mười lực của Phật là thường, hoặc vô  thường, chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,  đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thường,  hoặc vô thường; chẳng nên trụ mười lực của Phật là lạc, hoặc khổ, chẳng  nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là lạc,  hoặc khổ; chẳng nên trụ mười lực của Phật là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên  trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là ngã, hoặc  vô ngã; chẳng nên trụ mười lực của Phật là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng  nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tịnh,  hoặc bất tịnh; chẳng nên trụ mười lực của Phật là tịch tịnh, hoặc chẳng  tịch tịnh, chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật  bất cộng là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên trụ mười lực của  Phật là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho  đến mười tám pháp Phật bất cộng là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng  nên trụ mười lực của Phật là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ bốn  điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, hoặc bất  không; chẳng nên trụ mười lực của Phật là hữu tướng, hoặc vô tướng,  chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là  hữu tướng, hoặc vô tướng; chẳng nên trụ mười lực của Phật là hữu nguyện,  hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp  Phật bất cộng là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu  sở đắc làm phương tiện.
