Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
Vốn  là giăng bủa ngăn chế đem về một nẻo, nên noi theo yếu cực làm giếng  mối cho sự việc. Muốn được thế không gì bằng răn tu mười độ nơi một Thí,  vạch trần sáu che nơi ba Ðàn. Huống gì Ðại Ðạo Bát Nhã vẫn làm tổng  lĩnh cứ ngồi cao xem xuống, thật là cửa ngõ các tâm, then cốt của nhiều  hạnh. Vậy nên, năng phạm vi chơn tế mà đầy rẫy cả trần sa: rộng ra thời  không duyên dính, thu lại thời không lây động. Ðại Bi chống mở nơi đầu,  Ðại Xả giữ gìn đường sau. Thương năm thống siêng khổ tu, rút ngắn nhanh  chóng ba kỳ xa xôi. Nguyện không gần xa, gặp vật thành của quý; thiện  chẳng lớn nhỏ, chạm việc tất hanh thông. Nương không tượng (mặt trời) mà  ngày hằng, ngưng có luân (mặt trăng) thành đêm dài. Cùng tột chỗ thâm u  vi diệu, kìa phải Bát Nhã mới gây nên ôi! 
Do đó nên có vị Thiên  vương tên là Tối Thắng, bỏ cung vui mà giáng xuống lễ lạy, rồi tự xưng  danh tốt mà dâng lên. Nhớ đây tại đây, bèn vượt qua mà đến rốt ráo.  Nhưng vì ngôi cao xa, Ðạo ngăn cách, chẳng phải mục kích năng tồn được.  Sở dĩ chúng Hội mô phạm hòa hiệp đương thời, mới gởi lời đến mà lấy  chứng ngộ. 
Tức cựu bản "Thắng Thiên Vương Bát Nhã", nay dịch  thành tám quyển mười bảy phẩm, để phát minh ý chỉ rộng rãi, mở bày chỗ u  quan. Cố nhiên Pháp Bảo ảnh hưởng lẫn nhau, rừng nghĩa giao chứa. Ba  món tự tánh sầm uất nơi vô tánh mù mịt, muôn phần quả đức ân thịnh nơi  bất đức mà rực rỡ. 
Ðã có những kẻ rương trắp bút nghiên, vẫn cầu mong lấy văn chấp; huống gì kẻ khách ngồi mâm nâng chén, nỡ nào chẳng nghĩ tới ư?
Tôi nghe như vậy: 
Một  thời Ðức Bạc Già Phạm trụ trên đỉnh núi Thứu Phong thành Vương Xá, cùng  đồng chúng Ðại Bí sô bốn vạn hai ngàn người đều A la hán đã hết các  lậu, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm khéo giải thoát, huệ  khéo giải thoát, như tập ngựa khôn, cũng như rồng lớn; đã làm đáng làm,  đã xong nên xong, bỏ các gánh nặng, vừa được lợi mình, hết gút các cõi,  chính biết giải thoát, tâm đến tự tại rốt ráo đệ nhất. 
Ngoại trừ  A Nan Ðà độc ở bậc học, được quả Dự Lưu. Thường gọi Cụ thọ: Giải Kiều  Trần Na, Đại Ca Diếp Ba, Cấp Phòng Bát Để, Yết Lệ Phiệt Đa, Đại Thái  Thục Thị, Đại Ca Đa Diễn Na, Tất Lan Đà Phiệt Ra, Xá Lợi Tử, Mãn Tử Từ,  Bạc Cự La, Ô Ba Ly, La Cổ La, Vô Diệt Thiện Hiện mà làm thượng thủ. 
Lại  có bảy vạn hai ngàn Bồ tát Ma ha tát đều đã thông đạt pháp tánh sâu  thẳm, điều thuận dễ hóa, diệu hạnh bình đẳng, được vô ngại biện đà la ni  môn, là bạn lành chơn tịnh tất cả hữu tình, năng quay xe pháp vi diệu  chẳng lui, thương xót thế gian hộ trì Pháp tạng, đã từng cúng dường vô  lượng Như Lai, nối thịnh Tam Bảo năng khiến chẳng tuyệt, thông suốt cảnh  giới thẳm sâu chư Phật, còn buộc một đời Pháp vương chơn tử, thường  năng nối Phật quay xe Chánh pháp, mặc dù ở thế gian mà không bị nhiễm,  đủ vô lượng công đức như thế thảy. Từ cõi Phật đây hoặc từ phương khác,  vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. Chỗ gọi: Bảo Tướng Bồ tát, Bảo Thủ Bồ  tát, Bảo Ấn Bồ tát, Bảo Kế Bồ tát, Bảo Quan Bồ tát, Bảo Phong Bồ tát,  Bảo Hải Bồ tát, Bảo Diệm Bồ tát, Bảo Tràng Bồ tát, Bảo Tạng Bồ tát, Kim  Tạng Bồ tát, Tịnh Tạng Bồ tát, Đức Tạng Bồ tát, Định Tạng Bồ tát, Trí  Tạng Bồ tát, Nhật Tạng Bồ tát, Nguyệt Tạng Bồ tát, Như Lai Tạng Bồ tát,  Liên Hoa Tạng Bồ tát, Kim Cương Tạng Bồ tát, Giải Thoát Nguyệt Bồ tát,  Phổ Hiền Bồ tát, Phổ Âm Bồ tát, Phổ Giới Bồ tát, Phổ Hạnh Bồ tát, Phổ  Nhãn Bồ tát, Quảng Nhãn Bồ tát, Liên Hoa Nhãn Bồ tát, Trí Huệ Bồ tát,  Thường Huệ Bồ tát, Thắng Huệ Bồ tát, Liên Hoa Huệ Bồ tát, Kim Cương Huệ  Bồ tát, Nhật Quang Bồ tát, Nguyệt Quang Bồ tát, Trí Quang Bồ tát, Trí  Ðức Bồ tát, Hiền Ðức Bồ tát, Hoa Ðức Bồ tát, Nhật Quan Bồ tát, Nguyệt  Quan Bồ tát, Vô Nhiễm Bồ tát, Diệu Âm Bồ tát, Ðại Âm Vương Bồ tát, Sư Tử  Hống Bồ tát, Sư Tử Du Hý Bồ tát, Hiền Thủ Bồ tát, Thập Lục Hiền Bồ tát,  Từ Thị Bồ tát thảy các Bồ tát thời Hiền Kiếp, Quán Tự Tại Bồ tát, Diệu  Cát Tường Bồ tát mà làm thượng thủ. 
Lại có vô lượng trời Bốn đại  vương chúng, bốn Ðại Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại có vô lượng  trời Ba mươi ba, Thiên Ðế Thích mà làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời  Dạ ma, Tô Dạ Ma Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Ðổ  sử đa, San Ðổ Sử Ða Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời  Lạc biến hóa, Thiện Hóa Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại có vô lượng  trời Tha hóa tự tại, Tự Tại Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại có vô  lượng trời Phạm chúng thảy, Ðại Phạm Thiên vương mà làm thượng thủ. Lại  có vô lượng trời Tịnh cư, Ðại Tự Tại thiên mà làm thượng thủ. Thiên  vương như thế đem các quyến thuộc vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. 
Lại  có vô lượng A tố lạc vương, chỗ gọi Cụ Lực a tố lạc vương, Kiên Uẩn a  tố lạc vương, Tạp Uy a tố lạc vương, Bạo Chấp a tố lạc vương mà làm  thượng thủ, đều lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, vì nghe pháp nên đi  đến chỗ Phật. 
Lại có vô lượng Ðại Lực long vương, chỗ gọi Vô  Nhiệt long vương, Mãnh Ý long vương, Hải Trụ long vương, Công Xảo long  vương mà làm thượng thủ, đều lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc vì nghe  pháp nên đi đến chỗ Phật. 
Lại có vô lượng Dược xoa Ðại thần, người phi người thảy và các quyến thuộc vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. 
Khi ấy núi Thứu Phong lượng ngang rộng bốn mươi do tuần đầy rẫy đại chúng, mặt đất và hư không chẳng có chỗ xen hở. 
Bấy  giờ, Thế Tôn ngự tòa Sư tử, vô lượng đại chúng vây quanh trước sau,  cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, một lòng chấp tay ngửa trông  lên Tôn nhan. Lúc ấy Như Lai hiện sức thần thông, từ diện môn phóng ra  các thứ sắc quang soi khắp mười phương vô biên thế giới, hiện việc hiếm  có, trở lại đến Phật quanh hữu ba vòng rồi về nơi diện môn lại. 
Khi  ấy, phương Ðông cách cõi Phật đây qua mười Căng già sa số thế giới, có  thế giới tên là Trang Nghiêm, Phật hiệu Phổ Quang Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng  Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đang hiện tại kia yên ổn  trụ trì, vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Chánh pháp tương ưng  Nhất thừa. Thế giới Phật kia hãy chẳng nghe có danh Nhị thừa, huống có  kẻ tinh siêng tu pháp ấy. Các Bồ tát kia đều đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề được chẳng quay lui. Các hữu tình kia chẳng ăn đoạn thực, chỉ nhờ  giải thoát tĩnh lự đẳng chí. Cõi kia chẳng cần ánh sáng nhật nguyệt  thảy, chỉ thân quang Phật thường soi ngày đêm. Cõi ấy không có gai độc  sỏi đá khe hang núi gò, đất bằng như lòng bàn tay. 
Kia có Bồ tát  tên là Ly Chướng, đã thấy quang đây lòng ôm do dự, cùng chúng các Bồ  tát Ma ha tát đến trước chỗ Phật đảnh lễ hai chân, lệch che vai tả, gối  hữu chấm đất, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Nhân nào duyên  gì mà có điềm đây? 
Khi ấy, Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng rằng:  Phương Tây cách đây qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật  tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai, đầy đủ mười hiệu,  hiện vì chúng Bồ tát Ma ha tát nói Ðại Bát Nhã Ba la mật đa. Do nhân  duyên kia nên hiện điềm đấy. 
Ly Chướng Bồ tát nghe rồi thưa  rằng: Tôi nay xin qua thế giới Kham Nhẫn xem lễ cúng dường Thích Ca Như  Lai, nghe thọ Chánh pháp. Cúi xin hứa cho. 
Khi ấy, Phật Phổ  Quang bảo Ly Chướng rằng: Nay chánh phải thời, ngươi nên đi gấp. Ly  Chướng được phép, vui mừng nhảy nhót, tức cùng vô lượng chúng Bồ tát  đồng đến núi Thứu Phong, đảnh lễ chân Phật, quanh hữu ba vòng lui ngồi  một phía. 
Phương Nam cách đây qua mười Căng già sa số thế giới,  có thế giới Phật tên là Thanh Tịnh Hoa, Phật hiệu là Nhật Quang, đầy đủ  mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Nhật Tạng. 
Phương Tây cách đây  qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là Bảo Hoa, Phật  hiệu Công Đức Quang Minh, đầy đủ mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Công  Đức Tạng. 
Phương Bắc cách đây qua mười Căng già sa số thế giới,  có thế giới Phật tên là Thanh Tịnh, Phật hiệu là Tự Tại Vương, đầy đủ  mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Quảng Văn. 
Phương Ðông Nam cách  đây qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là Hỏa Diệm,  Phật hiệu Cam Lồ Vương, đầy đủ mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Bất Thối  Chuyển. 
Phương Tây Nam cách đây qua mười Căng già sa số thế  giới, có thế giới Phật tên là Thanh Tịnh Công Ðức, Phật hiệu Trí Cự, đầy  đủ mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Ðại Huệ. 
Phương Tây Bắc cách  đây qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là Duyệt Ý.  Phật hiệu Diệu Âm Vương, đầy đủ mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Công Ðức  Tụ. 
Phương Ðông Bắc cách đây qua mười Căng già sa số thế giới,  có thế giới Phật tên là Huệ Trang Nghiêm, Phật hiệu Trí Thượng, đầy đủ  mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Thường Hỷ. 
Phương Thượng cách  đây qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới tên là Bất Ðộng, Phật  hiệu Kim Cương Tướng, đầy đủ mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Bảo Tràng. 
Phương  Hạ cách đây qua mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là  Nguyệt Quang Minh, Phật hiệu Kim Cương Bảo Trang Nghiêm Vương, đầy đủ  mười hiệu. Kia có Bồ tát tên là Bảo Tín. Tất cả như thế đều như phương  Ðông.
Bấy  giờ, có Thiên vương tên là Tối Thắng từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân  Phật, lệch che vai tả, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính bạch Thế Tôn  rằng: Tôi có chút nghi nay muốn hỏi Phật, nếu nhờ khai cho mới dám  trình bày. 
Lúc đó, Phật bảo Tối Thắng Thiên rằng: Thiên vương! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác theo điều nghi hỏi sẽ vì quyết cho. 
Khi  ấy, Tối Thắng Thiên đã được Phật cho, nhảy nhót vui mừng, bèn thưa Phật  rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát làm sao tu học một pháp năng  thông suốt được tất cả pháp? 
Phật bảo Tối Thắng: Hay thay, hay  thay! Năng hỏi được Như Lai thâm nghĩa như thế! Lóng nghe, lóng nghe,  khéo suy nghĩ kỹ. Như ngươi đã nghi sẽ vì khai giải thích. Tối Thắng  Thiên thưa: Dạ, cúi xin nghe. 
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng  rằng: Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát tu học một pháp năng  thông suốt tất cả pháp ấy, chỗ gọi Bát nhã Ba la mật đa. Nếu Bồ tát Ma  ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa, thời năng thông suốt được bố thí,  tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo,  diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được bố thí Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành thí diệu pháp Ba la mật đa. Nghĩa là đem tịnh tâm không điều  mong cầu, vì kia nói pháp, chẳng cầu danh lợi, chỉ vì dứt khổ, chẳng  thấy ta năng vì người nói pháp, chẳng thấy kia nghe, không hai không  riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã  Ba la mật đa thời năng hành thí vô úy Ba la mật đa. Nghĩa là quán hữu  tình in như cha mẹ anh em, bà con nội ngoại, khiến tất cả chúng đều gần  gũi ta. Vì cớ sao? Vì từ vô thỉ đến nay trôi lăn sáu thú đều làm nội  ngoại. Nếu các hữu tình mắc nạn sợ hãi hãy đem thân mạng mà cứu vớt đó,  huống lẽ đối kia mà gia não hại. Chẳng thấy ta năng thí kia vô úy, chẳng  thấy kia thọ, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu Bồ  tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành thí giúp sống  Ba la mật đa. Nghĩa là theo hữu tình cần dùng của cải thí cho các thứ,  khiến nó thọ hành mười thiện nghiệp đạo, chẳng thấy ta năng thí của cải  cho kia, chẳng thấy kia nhận, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy.  
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành  thí chẳng trả Ba la mật đa. Nghĩa là khi hành thí chẳng trông trả quả,  lẽ vậy Bồ tát tự phải bố thí, chẳng thấy ta năng hành thí chẳng trả,  chẳng thấy thí trả quả, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu  Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành thí đại bi  Ba la mật đa. Nghĩa là thấy các hữu tình nghèo cùng già bệnh, không kẻ  cứu giúp, khởi tâm đại bi mà phát thề nguyện: Khi ta được Vô thượng  Chánh đẳng giác, vì các hữu tình làm chỗ về nương. Vì hữu tình nên đem  ít căn lành hồi hướng Bồ đề, cũng chẳng phân biệt ta năng cứu giúp, kẻ  nhận cứu giúp, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu Bồ  tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành thí cúng kính  Ba la mật đa. Nghĩa là theo hữu tình cần dùng vật liền tự kính dâng,  chẳng khiến kia mệt mỏi, chẳng thấy ta năng hành thí cung kính, chẳng  thấy kia nhận, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu Bồ  tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành thí tôn trọng  Ba la mật đa. Nghĩa là đối hữu tình khởi tưởng thầy Tăng, hoặc tưởng cha  mẹ, tâm thí tôn trọng. Nếu không của vật, dùng lời thiện mà cho. Chẳng  thấy ta năng hành thí tôn trọng, chẳng thấy kia nhận, không hai không  riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã  Ba la mật đa thời năng hành thí cúng dường Ba la mật đa. Nghĩa là thấy  Bảo tháp, hoặc chỗ Tăng ở thời nên quét rưới, dùng các hoa hương và đèn  sáng mà vì cúng dường. Hoặc thấy Tôn tượng, Chánh pháp bị hư hoại tức  nên tinh siêng tu trị cúng dường. Nếu thấy Tăng chúng nên đem uống ăn áo  mặc đồ nằm thuốc chữa mà cúng dường đó. Chẳng thấy ta năng hành thí  cúng dường, chẳng thấy kia nhận, không hai không riêng, vì lìa tự tánh  vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng  hành thí không nương Ba la mật đa. Nghĩa là khi hành thí chẳng khởi nghĩ  này: Nguyện đem thí đây được sanh trời người, làm vua trời người hưởng  vui giàu sang. Cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng chẳng lấy cầu, vì  vô sở đắc vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được bố thí Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tịnh giới Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát khởi suy nghĩ này: Phật  đối trong tịnh giáo Tỳ nại da nói Giới kinh tương ưng biệt giải thoát,  Bồ tát nên học chẳng thấy giới tướng và năng thọ trì, chẳng chấp giới  kiến, cũng chẳng chấp ngã, không hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Nếu  Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành tịnh giới  Ba la mật đa, là các Bồ tát suy nghĩ này: Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề chẳng những thọ trì tịnh giới bèn được, cần phải học khắp giới  hạnh Bồ tát, giới tánh mát mẻ, vắng lặng chẳng khởi, không hai không  riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã  Ba la mật đa thời năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát khởi  suy nghĩ này: Sao là trì giới năng dứt phiền não? Phiền não ba thứ là  tham sân si, đây lại đều mỗi có ba, tức thượng trung ha. Muốn dứt phiền  não phải biết đối trị: Kẻ tham tăng thượng tu quán bất tịnh, quán thân  ba mươi sáu vật đầy đủ. Kẻ sân tăng thượng tu quán từ bi. Kẻ si tăng  thượng tu quán duyên khởi. Chẳng thấy năng quán và pháp sở quán, không  hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học  Bát nhã Ba la mật đa thời năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ  tát khởi suy nghĩ này: Sao là Bồ tát phải chánh xa lìa suy nghĩ bất  chánh? Nghĩa là các Bồ tát chẳng khởi tâm này: "Ta hành vắng lặng, hạnh  lìa hạnh trống, các Sa môn, Bà la môn thảy khác đều ở chỗ ồn tạp, chẳng  ưa hạnh trống vắng". Thấy không hai không riêng, biết tự tánh lìa tức  năng xa lìa suy nghĩ bất chánh. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát  nhã Ba la mật đa thời năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát Ma  ha tát dù biết các pháp lìa mà rất sợ tội. Như Phật đã nói nên trì tịnh  giới, tu các phước nghiệp cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Ðối trong tội  nhỏ nên ôm sợ lớn, chẳng cho ở chung. Vì Thế Tôn dạy: "Ví như thuốc độc  nhiều ít đều hại". 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật  đa thời năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát thường sanh sợ  hãi tương ưng tín hạnh. Giả sử ở chỗ trống vắng đơn độc không bạn, có Sa  môn thảy mang đem vàng bạc và ngọc phệ lưu ly chơn châu thảy gởi nơi Bồ  tát, đối của ấy chẳng khởi tâm tham đắm lấy, khởi suy nghĩ này: Thế Tôn  thường dạy: "Thà phải tự cắt thịt nơi thân mà ăn, đối với của người  chẳng cho chẳng lấy". 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la  mật đa thời năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát trì giới  vững vàng. Nếu các ác ma và bè lũ dùng hình sắc đẹp ép thử Bồ tát, Bồ  tát đối kia lòng chẳng lay động, khởi suy nghĩ này: Thế Tôn thường dạy:  "Sắc thảy các pháp như mộng huyễn hóa", không hai không riêng, vì lìa tự  tánh vậy. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành tịnh giới Ba la mật đa, là các Bồ tát tuy siêng trì giới mà  chẳng mong cầu ngôi vua người trời. Thân lìa ba lỗi, ngữ không bốn lầm, ý  khỏi ba quấy. Trì giới như thế chẳng thấy ta trì, chẳng thấy giới  tướng, không hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tịnh giới Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được an nhẫn Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành an nhẫn Ba la mật đa, là các Bồ tát thường học nội nhẫn rầu  buồn khổ não thảy đều chẳng theo; cũng học ngoại nhẫn, nếu người đánh  mắng dối cướp lấn nhục trọn chẳng sanh giận. Cũng học pháp nhẫn, như Thế  Tôn dạy: "Thật tánh sâu thẳm không pháp, không ngã, không sanh, vắng  lặng, tức là Niết bàn". Nghe dạy như thế lòng chẳng kinh sợ, khởi suy  nghĩ này: Chẳng học pháp ấy làm sao năng được sở cầu Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi ích an vui các loại hữu tình. Suy nghĩ  xét kỹ, độc tham sân si mỗi mỗi như thế ở chỗ nào khởi, nhân duyên nào  sanh, nhân duyên nào diệt? Như thật quán sát đều chẳng thấy có năng sanh  sở sanh, năng diệt sở diệt. Tâm nhẫn như thế nối nhau chẳng dứt, ngày  đêm các ngôi thường không xen hở. Ðối cảnh sở nhẫn không tâm chọn lựa,  nghĩa là đối quốc vương, cha mẹ, thầy bạn, ta nên tu nhẫn. Các có thể  gia ác, Bồ tát hành nhẫn chẳng vì trả ơn, danh lợi, nhân nghĩa, sợ hãi,  xấu hổ. Phép vậy Bồ tát phải hành nhẫn vậy. Nếu kia gia hại đánh đập  mắng nhục xâm cướp dối lấn, tâm chẳng nghiêng động. 
Nếu Bồ tát ở  ngôi vương thần thảy, có người bần tiện hủy mắng sỉ nhục, trọn chẳng  vội bạo tỏ hình thế thị uy rằng ta ở ngôi cao sang, pháp phải quở phạt,  chỉ khởi nghĩ này: Thuở xưa ta ở chỗ Phật Thế Tôn phát thệ nguyện rộng  lớn: Tất cả hữu tình ta đều cứu vớt, khiến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề. Nay nếu khởi sân hận bèn trái bản thệ. Ví như thầy thuốc giỏi phát  thề như vầy: Thế gian đui mù ta đều chữa lành. Nếu tự mình thất minh đâu  ai lành tật được! Như vậy, Bồ tát vì trừ mù cho người, tự khởi giận dữ  làm sao cứu người được? Chẳng thấy ta năng nhẫn và nên nhẫn, không hai  không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được an nhẫn Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tinh tiến Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành tinh tiến Ba la mật đa, là các Bồ tát chưa diệt khiến diệt,  chưa độ khiến độ, chưa thoát khiến thoát, chưa yên khiến yên, chưa giác  khiến giác. 
Bồ tát khi hành tinh tiến như thế, có các ác ma muốn  làm lưu nạn bảo Bồ tát ràng: Thiện nam tử! Ngươi chớ tu hạnh này luống  chịu khổ nhọc. Vì cớ sao? Vì ta ở xưa kia từng tu hạnh đây: chưa diệt  khiến diệt, chưa độ khiến độ, chưa thoát khiến thoát, chưa yên khiến  yên, chưa giác khiến giác, luống chịu khổ nhọc đều không thật lợi. Ta từ  xưa nay thấy nhiều Bồ tát tu học hạnh đây đều quay lui hết, ngươi nên  hồi tâm tu đạo Nhị thừa, lấy quả Nhị thừa mà tự diệt độ. 
Bồ tát  nghe rồi tức liền giác biết, bảo ác ma rằng: Ngươi lui đường đi! Lòng ta  vững chắc in như kim cương, lời dối gạt ngươi chẳng thể lui hoại được.  Ngươi cố lưu nạn đêm dài tự khổ. Ma nghe lời ấy liền mất chẳng hiện. 
Nếu  Bồ tát khác chưa được Bát nhã Ba la mật đa, tu năm thứ Ba la mật đa  trước lâu trăm ngàn kiếp, Bồ tát khi hành tinh tiến như thế hãy năng  vượt qua, huống bậc Nhị thừa. 
Như vậy, Bồ tát tu hành Bát nhã Ba  la mật đa trọn nên Phật pháp, đều lìa các ma. Dù hành tinh tiến chẳng  mau chẳng chậm mà năng phát khởi đại nguyện thù thắng: Khiến ta cảm được  thân ngang đồng Như Lai, nhục kế trên đảnh, lông trắng giữa mày. Phật  quay xe pháp, ta cũng như thế. Ví như vàng thật trau dồi các báu thời  được nghiêm tịnh, Bồ tát tinh tiến cũng lại như thế, lìa các bẩn uế.  Nghĩa là lìa lười nhác biếng trể mỏi mệt, chẳng tự giác biết, suy nghĩ  chẳng chánh. Nhờ đấy bèn năng được thắng thanh tịnh phước đức trí tuệ mà  trang nghiêm chung. Thân chẳng mỏi mệt, tâm không chán lười. Tất cả  pháp ác bất thiện ngăn đạo hướng tới Niết bàn đều khiến tăng trưởng.  Chút ác chẳng khởi, huống là có nhiều. 
Giả sử lửa dữ đầy trong  mười phương cõi Căng già sa như ngục vô gián, ngoài thế giới đây chỉ có  một hữu tình có thể độ được, Bồ tát vì kia vẫn từ trong ấy vượt qua,  huống nhiều hữu tình. 
Các Bồ tát đây chẳng khởi nghĩ này: Vô  thượng Bồ đề chẳng dễ khá được. Bồ tát tu hành như chữa đầu cháy, cần  lâu trăm ngàn ức kiếp, gánh nặng như thế thực khó mang cõng. 
Chỉ  khởi nghĩ đây: Chư Phật quá khứ hiện tại đều tu hạnh này chứng được Bồ  đề. Ta cũng như thế, nên chánh tu tập. Thà trăm ngàn kiếp ở trong địa  ngục khiến các hữu tình đều được độ thoát, trọn chẳng nới bỏ mau tới  Niết bàn. 
Bồ tát khi hành tinh tiến như thế tâm chẳng tự cao,  đối người chẳng thấp. Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành, không hai  không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tinh tiến Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tĩnh lự Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành tĩnh lự Ba la mật đa, là các Bồ tát trồng sâu căn lành nơi  trong Ðại thừa, đời đời kiếp kiếp tu nhiều diệu hạnh, gần gũi bạn lành,  chẳng sanh những nhà bần tiện tà kiến, thường sanh đại tộc Bà la môn,  Sát đế lợi, chánh tín Tam Bảo, tăng trưởng pháp lành. 
Nhờ căn  lành đời trước, khởi nghĩ như vầy: Hữu tình đêm dài trôi lăn các thú, xe  khổ chẳng ngưng đều bởi tham ái. Bồ tát nghĩ rồi khởi tâm chán lìa, như  từ hư vọng phân biệt mà có. Trong kinh Thế Tôn nhiều thứ phương tiện  nói tội lỗi dục như gươm dài mâu ngắn, như dao như rắn, như bọt như bèo,  hôi uế bất tịnh, chuyển biến vô thường. Vì sao người trí tham đắm pháp  này? 
Tức thì cạo râu tóc xuất gia tu đạo, chưa thấy vì thấy,  chưa được vì được, chưa chứng vì chứng. Nghe thuyết thọ trì, hoặc lý thế  tục, hoặc lý thắng nghĩa như thật tu hành, quán sát đúng pháp, là chánh  kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh  tiến, chánh niệm, chánh định, xa lìa ồn tạp. Chẳng màng danh dự, cũng  lại chẳng cầu cúng dường cung kính. Thân tâm tinh tiến, thường không  biếng nghỉ. Suy gẫm tâm đây nhiều đi cảnh nào, là thiện, là ác hay vô ký  ư? Nếu đi cảnh ác tức tốc đình dứt, nếu đi vô ký cũng nên xa bỏ, nếu đi  cảnh thiện tức siêng tinh tiến giục khiến tăng trưởng căn lành thù  thắng. 
Vì muốn đối trị pháp ác bất thiện, dẫn ba mươi bảy phần  diệu Bồ đề. Ác bất thiện ấy là tham sân si. Tham lại có ba là thượng  trung hạ. Tham loại thượng là nghe tên cảnh dục cả thân nhảy nhót hết  tâm vui mừng, chẳng quán cõi Dục, nhàm lìa chẳng sanh, tìm tòi phi lý,  không có xấu hổ. Kẻ không xấu hổ là như đi riêng dạo qua chỗ nào hằng  nghĩ cảnh dục, tâm tâm nối nhau từng không tạm nới, chỉ thấy tốt đẹp  chẳng biết tội lỗi. Cha mẹ, thầy bạn quở kia sở dục trọn không xấu hổ,  chẳng ngờ khởi tranh, như thế gọi là kẻ không xấu hổ, loại này mạng  chung sẽ đọa ác thú. Tham loại trung là khi lìa cảnh dục, dục tâm chẳng  khởi. Tham loại hạ là chỉ chung nói cười, tình dục bèn hết. 
Sân  cũng có ba. Sân loại thượng là tức giận nếu phát tâm mờ mắt hoa, hoặc  gây vô gián, hoặc báng Chánh pháp, hoặc lại gây các nghiệp trọng tội  khác hơn năm vô gián nhiều gấp trăm ngàn. Sân loại trung là vì giận dữ  nên dù gây các ác liền tức sanh hối. Sân loại hạ là tâm không hiềm hận,  chỉ miệng mắng hủy liền bèn ăn năn. 
Si cũng có ba loại, như lẽ  nên biết. Mặc dù tác quán này mà biết các pháp đều như huyễn, mộng,  vang, tượng, sáng bóng, ánh nắng, biến hóa và thành tầm hương, hư dối  chẳng thật, điên đảo nên thấy. Diệt cảnh giới ngoài, nội tâm vắng lặng,  chẳng thấy năng hành và pháp sở hành, không hai không riêng, vì tự tánh  lìa vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được tĩnh lự Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được Bát nhã Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành Bát nhã Ba la mật đa, là các Bồ tát chánh trí quán sắc thọ  tưởng hành thức, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc nhóm, chẳng thấy  sắc diệt, thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Vì cớ sao? Vì tự tánh  đều không, không có chơn thật, chỉ có hư giả thi thiết danh tự mà hành  Bát nhã Ba la mật đa, hóa các hữu tình, trọn chẳng vì nói không nghiệp  không quả. Mặc dù biết các pháp đều như huyễn, mộng, vang, tượng, bóng  sáng, ánh nắng, biến hóa và thành tầm hương, hư dối, không có ngã, hữu  tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, mà thường  tuyên nói có nghiệp có quả. 
Như vậy, Bồ tát tu hành Bát nhã Ba  la mật đa, ác ma dòng họ chẳng thể làm gì được. Vì cớ sao? Vì các Bồ tát  này gần kề bạn lành trợ Bồ đề, lìa pháp thế gian, đối Chánh pháp sâu  thẳm các Như Lai vui mừng khen ngợi, các trời ma phạm và các Sa môn, Bà  la môn, trừ Phật chánh trí, không ai kịp được. Chẳng thấy năng hành và  pháp sở hành, không hai không riêng, vì tự tánh lìa vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được Bát nhã Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được phương tiện khéo léo Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành phương tiện khéo léo Ba la mật đa, là các Bồ tát phương tiện  khéo léo hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu thấy hoa quả thế gian  tốt đẹp thường đem cúng dường chư Phật Bồ tát, ngày đêm sáu thời từng  không tạm bỏ, đem thắng thiện đây hối hướng Bồ đề. Thấy cây hoa quả cũng  lại như thế. 
Nếu nghe trong khế kinh Như Lai nói pháp nghĩa sâu  thẳm vui mừng thọ trì, tin muốn đọc tụng, chuyển vì người nói, đem diệu  thiện đây hồi hướng Bồ đề. 
Nếu thấy hình tượng Bảo tháp Như Lai  liền đem các thứ hương hoa cúng dường, nguyện loại hữu tình lìa hương  phá giới, được hương tịnh giới in như chư Phật. Quét rưới xoa đất,  nguyện các hữu tình uy nghi tề chỉnh. Hoa lọng đèn lồng, nguyện các hữu  tình đều lìa nóng nảy. Vào chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình đều vào  viên tịnh. Ra chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình đều ra cõi ma. Thấy cửa  Tăng mở bèn khởi nguyện này: Ðem trí xuất thế vì các hữu tình khai cửa  chưa mở đều khiến ngộ vào. Nếu thấy cửa đóng, nguyện các hữu tình đóng  cửa ba cõi, hoặc bốn ác thú. 
Nếu được ngồi yên, nguyện các hữu  tình ngồi tòa Bồ đề. Nếu nằm hông hữu, nguyện các hữu tình đều chứng  viên tịch. Từ ngồi nằm dậy, nguyện các hữu tình lìa các khởi hoặc. Nếu  khi rửa chân, nguyện các hữu tình xa lìa đất dơ. Nếu khi lễ Phật, quanh  hữu Bảo tháp, nguyện các hữu tình đều phải làm Phật, người trời cung  kính chẳng lấy làm vui mừng. 
Nếu có ngoại đạo tà kiến khó giáo  hóa bèn khởi nghĩ này: Ta là thầy kia, kia khinh sở tri tất chẳng chịu  tin. Vả làm đồng học hoặc là đệ tử, dù ở chúng kia mà giới hạnh đa văn  hơn các ngoại đạo, nhân đấy hàng phục, tôn thờ làm thầy, nói tất tin  chịu hủy bỏ tà pháp, nói chánh Niết bàn khiến vào Như Lai pháp giáo  thanh tịnh, tịnh tu phạm hạnh, tĩnh lự đẳng trì, được thắng thần thông,  rộng tu diệu thiện. 
Thấy kẻ đa dục, hóa làm nữ nhân đoan chính  số một khiến kia say mê, trong chừng bỗng chốc thị hiện vô thường, sắc  thân biến đổi sình chướng, những chỗ bấy nát hôi thúi, khiến rất ghét  ớn, khởi tâm chán lìa, liền phục bản hình làm tượng Bồ tát, nhân vì nói  pháp yếu sâu thẳm khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tu hạnh Ðại  thừa thành quả Vô thượng. 
Thấy kẻ Ðại thừa lìa bạn lành quen  biết, dù siêng tinh tiến học đạo Nhị thừa mà đối quả kia chẳng thể chứng  được, mất nơi pháp lợi Ðại thừa khiến kia hồi tâm vào Ðạo Vô thượng. Kẻ  chưa phát tâm hóa khiến phát khởi, kẻ đã phát tâm khuyến khiến vững  bền. 
Thấy người trì giới phạm tội ít nhẹ chẳng hiểu, trình bày  sám hối, sợ lui buồn rầu, do đấy chẳng thể tiến tu thắng đạo; bèn vì nói  pháp khiến mau hối trừ, tâm lìa rầu buồn tiến tu thắng đạo. 
Chúng  các Bồ tát Ma ha tát này ít muốn đủ, chuyên cầu pháp lợi, vì hữu tình  nói cúng dường Như Lai. Do đấy bèn thành sáu đến bờ kia. Nói pháp cúng  dường đấy là bố thí Ba la mật đa, hành chẳng trái với lời nói. Ðấy là  tịnh giới Ba la mật đa, các thiên ma thảy chẳng thể não hại loạn. Ðấy là  an nhẫn Ba la mật đa, tâm tâm nối nhau chẳng cảm giác nhọc mỏi. Ðấy là  tinh tiến Ba la mật đa, chuyên tâm nhất niệm chẳng duyên cảnh khác. Ðấy  là tĩnh lự Ba la mật đa, nói pháp cúng dường lìa ngã và ngã sở. Ðấy là  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành, không hai  không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ  tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được phương  tiện khéo léo Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được diệu nguyện Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành diệu nguyện Ba la mật đa, là các Bồ tát có bao sở nguyện chẳng  vì được hưởng vui khoái thế gian, cũng chẳng vì mình cầu ra ba cõi tu  đạo Nhị thừa chứng vui Niết bàn. 
Chỉ khởi nguyện này: Tất cả hữu  tình đều vào cõi Vô dư bát Niết bàn, thân ta rốt sau mới thành Chánh  giác. Kẻ chưa phát tâm hóa khiến phát khởi, nếu ta phát tâm khiến tu đại  hạnh. Ðã tu đại hạnh khiến được Bồ đề. Ðã được Bồ đề khuyên mời thuyết  pháp, lần hồi cho đến sau vào Niết bàn dùng bảy báu tốt khởi xây Bảo  tháp, an để tôn trí Thiết lợi la mà hằng cúng dường, khiến vô lượng  chúng được phước vô biên. 
Lại phát nguyện rằng: Các thế giới có  Phật thành Chánh giác đều không thiên ma và các ngoại đạo mà làm rối  loạn. Nguyện do tự trí phat tâm vô thượng, chẳng nhờ duyên ngoài dù phát  mà lui. Lại phải nguyện ta thường ở thế gian thành thục hữu tình khiến  được lợi vui. Nguyện các Bồ tát thảy mới phát ý, nếu được nghe Như Lai  nói pháp sâu thẳm, như thật ngộ vào, tâm không kinh sợ. Nguyện các hữu  tình được đại trí huệ đều khéo thông suốt vô biên Phật đạo, vô biên cảnh  Phật, vô biên đại bi, nhiêu ích vô biên các loại hữu tình. Các Bồ tát  này phần nhiều nguyện tự thân hằng ở nước uế, chẳng sanh cõi tịnh. Vì cớ  sao? Vì như có kẻ bệnh mới nhờ thầy thuốc, nếu không có bệnh nhân, thầy  thuốc vô dụng. Bồ tát khi phát diệu nguyện như thế chẳng thấy năng hành  và pháp sở hành, không hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được diệu nguyện Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được lực Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành lực Ba la mật đa, là các Bồ tát dẹp được thiên ma, xô các  ngoại đạo. Sức phước đức trí huệ đầy đủ, nên tất cả Phật pháp không  chẳng tu hành, tất cả Phật cảnh không chẳng chứng thấy. Do sức thần  thông dùng một đầu lông cất châu Thiệm Bộ, hoặc bốn đại châu, hoặc cõi  Ðại thiên cho đến vô lượng cát Căng già sa thế giới thảy mười phương,  rồi để lại chỗ cũ mà không bị tổn hại. Hoặc dùng thần lực, ở giữa hư  không lấy các thứ của báu thí loại hữu tình. Năng ở mười phương vô biên  thế giới chư Phật thuyết pháp không chẳng nghe trì. Chẳng thấy năng hành  và pháp sở hành, không hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được lực Ba la mật đa. 
Thiên vương! Sao là Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được trí Ba la mật đa? 
Thiên  vương phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thời  năng hành trí Ba la mật đa, là các Bồ tát quán năm uẩn sanh chẳng thật  sanh, diệt chẳng thật diệt. suy gẫm năm uẩn đều rốt ráo không, không có  ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, đứa  ngu điên đảo hư vọng chấp trước, chẳng như thật biết các uẩn chẳng phải  ngã, trong uẩn không ngã. Chẳng như thật biết ngã chẳng phải các uẩn,  trong ngã không uẩn. Do đây các thú sanh tử lộn quanh như vòng lửa xoay,  đứa ngu chấp bậy. 
Nhưng tất cả pháp tự tánh vốn không, không  sanh không diệt, duyên hiệp bảo sanh, duyên tan bảo diệt, thật không  sanh diệt. Tánh chẳng phải "Vô" nên chẳng thể nói sanh, tánh chẳng phải  "Hữu" nên chẳng thể nói diệt. 
Các Bồ tát này đối tất cả cảnh  không có một pháp nào chẳng thông suốt được. Tu hành trí Ba la mật đa  đây, Nhị thừa ngoại đạo chẳng thể ngăn che được. Dùng trí quán sát từ sơ  phát tâm cho đến Niết bàn thảy đều rõ ràng. Năng đem một pháp biết tất  cả cảnh. Ðạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp. Sở dĩ vì sao? Vì chơn như  một vậy. Các Bồ tát này khi tu trí đây chẳng thấy năng tu và pháp sở tu,  không hai không riêng, vì lìa tự tánh vậy. 
Thiên vương! Ðấy gọi là các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa năng thông suốt được trí Ba la mật đa. 
Ðấy gọi là Bồ tát tu học một pháp năng thông suốt tất cả pháp.
