Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát đâu cũng năng được Nhất thiết tướng trí?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng có năng được Nhất thiết tướng trí .
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát cũng có năng  được Nhất thiết tướng trí cùng các Như Lai có sai khác nào?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Cũng có sai khác. Tướng ấy thế nào? Là các Bồ tát Ma ha  tát gọi là tuỳ được Nhất thiết tướng trí. Nếu các Như Lai gọi đã được  Nhất thiết tướng trí. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải tâm các Bồ tát Ma ha tát  cùng các như Lai định riêng khác được, nghĩa là chúng các Bồ tát Ma ha  tát cùngcác Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng trụ tánh các pháp không sai  khác, đối các pháp tướng cầu Chánh biến tri, nói gọi Bồ tát. Nếu đến  rốt ráo tức gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối tất cả pháp tự tướng  cộng tướng soi rõ không mờ, thanh tịnh đầy đủ, khi trụ nhân vị gọi là Bồ  tát. Nếu đến quả vvị tức gọi Như Lai. Vậy nên, Bồ tát cùng các Như Lai  tuy đồng gọi được Nhất thiết tướng trí mà có sai khác. Thiện Hiện! Đấy  gọi các Bồ tát Ma ha tát thế gian pháp thí.
Các Bồ tát Ma ha tát  nương nhờ thế gian pháp thí như thế lại được tu hành xuất thế pháp thí.  Nghĩa là các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,  phương tiện khéo léo trước thí thế gian thiện pháp hữu tình, sau khiến  nhàm lìa thế gian thiện pháp, an trụ Thánh pháp xuất thế vô lậu, cho đến  khiến được Nhất thiết trí trí. Vì sao gọi là Thánh pháp xuất thế? Vì  các Bồ tát Ma ha tát vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ phân biệt rõ  ràng, nói tên pháp thí.
Thiện Hiện phải biết: Tất cả thiện pháp  chẳng chung dị sanh, nếu chánh tu học khiến các hữu tình vượt ra thế  gian mà trụ yên ổn, nên gọi xuất thế. Nghĩa là ba mươi bảy phần pháp Bồ  đề. Ba môn giải thoát, tám giải thoát, chín định thứ lớp. Bốn trí thánh  đế. Trí Ba la mật đa, các không thảy. Mười bậc Bồ tát. Năm nhãn, sáu  thần thông. Như Lai mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám  pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả. Bai mươi hai tướng,  tám mươi tùy hảo. Đà la ni môn, tam ma địa môn. Các thiện pháp vô lậu  như thế thảy, tất cả đều gọi Thánh pháp xuất thê. Nếu Bồ tát Ma ha tát  vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ phân biệt rõ ràng các pháp như thế  gọi là Bồ tát xuất thế pháp thí.
Thiện Hiện! Trong đây vì sao gọi  là ba mươi bảy thứ phần pháp Bồ đề? Nghĩa la bốn niệm trụ, bốn chánh  đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo  chi. Như vậy gọi là ba mươi bảy thứ phần pháp Bồ đề
Thiện Hiện!  Vì sao gọi bốn niệm trụ? Là Bồ tát Ma ha tát đôi trong thân hoặc ngoài  thân, hoặc trong ngoài thân, trụ quán khắp thân, chính siêng chính biết  nhớ đầy đủ, bỏ tham tiếc đời, trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt. Do  kia đối thân trụ quán khắp thân, trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt  không chỗ nương dựa, đối các thế gian không sở chấp nhận, đấy gọi thứ  nhất. Với thọ với tâm với pháp cũng vậy. Đấy gọi bốn niệm trụ.
Thiện  Hiện! Vì sao gọi bốn chánh đoạn? Là Bồ tát Ma ha tát vì khiến pháp ác  bất thiện chưa sanh hẳn chẳng sanh vậy. Vì khiến pháp ác bất thiện đã  sanh dứt diệt hẳn vậy. Vì khiến pháp thiện chưa sanh sanh vậy. Vì khiến  pháp thiện đã sanh vững trụ chẳng quên, tu mãn trí bội tăng rộng lớn tác  chứng vậy, nên sanh khởi vui muốn phát siêng tinh tiến giục tâm giữ  tâm, đấy gọi bốn chánh đoạn.
Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn thần túc?  Là Bồ tát Ma ha tát Dục tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Cần  tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Tâm tam ma địa dứt đi trọn  nên tu tập thần túc. Quán tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc.  Đấy gọi bốn thần túc.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm căn? Là Bồ tát Ma ha tát tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn, đấy gọi là năm căn.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm lực? Là Bồ tát Ma ha tát tín lực, tinh tiến lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Đấy gọi là năm lực.
Thiện  Hiện! Vì sao gọi là bảy nhánh đẳng giác? Là Bồ tát Ma ha tát nhánh niệm  đẳng giác, nhánh chọn pháp đẳng giác, nhánh tinh tiến đẳng giác, nhánh  hỷ đẳng giác, nhánh nhẹ an đẳng giác, nhánh định đẳng giác, nhánh xả  đẳng giác. Như vậy gọi là bảy đẳng giác chi.
Thiện Hiện! Vì sao  gọi tám nhánh thánh đạo? là Bồ tát Ma ha tát chánh kiến, chánh tư duy,  chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh  định. Như vậy gọi là tám nhánh thánh đạo.
Thiện Hiện! Vì sao gọi  ba môn giải thoát? Là Bồ tát Ma ha tát không , vô tướng, vô nguyện giải  thoát môn. Như vậy gọi là ba môn giải thoát.
Thiện Hiện! Sao gọi  không giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng không phi ngã  nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi không giải thoát môn.
Thiện Hiện! Sao  gọi vô tướng giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng tịch  diệt nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi vô tướng giải thoát môn.
Thiện  Hiện! Sao gọi vô nguyện giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành  tướng khổ vô thường nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi vô nguyện giải thoát  môn.
Thiện Hiện! Vì sao gọi tám giải thoát? Là Bồ tát Ma ha tát  có sắc quán các sắc gọi giải thoát thứ nhất. Trong không tưởng sắc, quan  các sắc ngoài gọi giải thoát thứ hai. Tịnh thắng giải, thân tác chứng  gọi giải thoát thứ ba. Trụ đầy đủ định không vô biên xứ gọi giải thoát  thứ tư.Trụ đầy đụ định thức vô biên xứ gọi giải thoát thứ năm. Trụ đầy  đủ định vô sở hữu xứ gọi giải thoát thứ sáu Trụ đầy đủ định Phi tưởng  phi phi tưởng xứ gọi giải thoát thứ bảy. Trụ đầy đủ định diệt tưởng thọ  gọi giải thoát thứ tám. Đấy gọi tám giải thoát.
Thiện Hiện! Sao  gọi chính định thứ lớp? Là Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác bất thiện,  có tầm có tứ, lìa sanh mừng vui vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ gọi định thứ  lớp thứ nhất. Nói rộng cho đến vượt tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ,  vào định diệt tưởng thọ trụ đầy đủ gọi định thứ lớp thứ chín, đây gọi  chín định thứ lớp.
Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn trí thánh đế? Là Bồ tát Ma ha tát trí khổ, trí tập, trí diệt, trí đạo đấy gọi bốn trí thánh đế.
Thiện Hiện! Sao gọi Ba la mật đa? Là Bồ tát Ma ha tát sở hữu bố thí cho đến trí Ba la mật đa. Như vậy gọi là Ba la mật đa.
Thiện  Hiện! Sao gọi trí các không thảy? Là Bồ tát Ma ha tát trí nội không cho  đến vô tánh tự tánh không, và trí chơn như cho đến bất tư nghì giới.  Như vậy gọi là trí các không thảy.
Thiện Hiện! Sao là mười bậc Bồ tát? Là Bồ tát Ma ha tát Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, như vậy gọi là mười bậc Bồ tát.
Thiện  Hiện! Vì sao gọi là năm nhãn? Là Bồ tát Ma ha tát sở cầu nhục nhãn,  thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, đấy gọi năm nhãn.
Thiện  Hiện! Vì sao gọi sáu thần thông? Là Bồ tát Ma ha tát sở học trí thần  cảnh chứng thông, trí thiên nhĩ chứng thông, trí tha tâm chứng thông ,  trí túc trụ tùy niệm chứng thông, trí thiên nhãn chứng thông, trí lậu  lận chứng thông, đấy gọi sáu thần thông.
Thiện Hiện! Sao gọi Như  Lai mười lực? là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối thị xứ như thật  biết thị xứ, đối phi xứ như thật biết phi xứ, gọi lực thứ nhất.
Hoặc  các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các nghiệp các hữu tình quá khứ, vị  lai, hiện tại và các pháp chỗ thọ nhân dị thục đều như thật biết gọi  lực thứ hai.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các thế gian chẳng một nhiều thứ các cõi sai khác đều như thật biết, gọi lực thứ ba.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình chẳng một các thứ thắng giải đều như thật biết, gọi lực thứ tư.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tinh các căn hơn kém đều như thật biết, gọi lực thứ năm.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối khắp thú hành đều như thật biết, gọi lực thứ sáu.
Hoặc  các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp đối tất cả tĩnh lự, giải thoát,  đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm thanh tịnh gây dựng sai khác đều như thật  biết, gọi lực thứ bảy.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối  các hữu tình quá khứ vô lượng các việc túc trụ hoặc một đời, hoặc mười  đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc vô lượng đời; hoặc một kiếp,  hoặc mười kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp, có  bao nhiêu các hành, các thuyết, các tướng đều như thật biết, gọi lực thứ  tám.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng tịnh thiên nhãn  vượt quá hơn người thấy các hữu tình khi tử khi sanh, các việc thiện ác,  nói rộng cho đến đối các hữu tình theo nghiệp thế lực sanh thú thiện ác  đều như thật biết, gọi lực thứ chín.
Hoặc các Như Lai Ứng Chánh  Đẳng Giác đối các lậu tận vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát  đều như thật biết; đối pháp tự lậu tận chơn giải thoát, tự chứng thông  huệ mà trụ đầy đỉ, nói rộng cho đến chẳng thọ thân sau, gọi lực thứ  mười. Như vậy gọi là Như Lai mười lực.
Thiện Hiện! Sao gọi bốn vô  sở úy? Là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta là kẻ Chánh đẳng  giác, nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế  gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ Phật đối pháp này chẳng phải  Chánh đẳng giác. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy  nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư  ngôi tôn vị Đại tiên ở giữa đại chúng, chính Sư tử rống, quay xe đại  phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế  gian rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ nhất.
Nếu  các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta đã hết hẳn các lậu. Nếu có  Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian y pháp lập  nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ Phật đối đây lậu chưa được hết hẳn. Ta đối nạn  kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia không lý do, được trụ  yên ổn không e không sợ. Tự xưng Ta cư ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại  chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la  môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, rốt ráo không ai năng quay  đúng pháp được. Đấy gọi thứ hai.
Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng  Giác tự xưng Ta vì chúng các đệ tử nói pháp năng chướng, nhiễm tất bị  chướng, nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế  gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ có nhiễm pháp này chẳng năng bị  chướng. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia  không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư ngôi tôn vị  Đại Tiên, ở giữa đại chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả  Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, rốt ráo  không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ ba.
Nếu các Như  Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta vì chúng các đệ tử nói đạo năng xuất,  các Thánh tu tập quyết định xuất ly, quyết định thông suốt, chính hết  các khổ, làm ngằn mé khổ. Nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma  phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ có tu đạo  đây chẳng chính xuất ly, chẳng chính thông suốt, chẳng hết các khổ,  chẳng làm mé khổ. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy  nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư  ngôi tôn vị Đại Tiên, ở giữa đại chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại  phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế  gian, rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ tư. Như vậy  gọi là bốn vô sở úy.
Thiện Hiện! Sao gọi bốn hiểu không ngại? Là  hiểu nghĩa không ngại, hiêu pháp không ngại, hiểu lời không ngại, hiểu  biện không ngại. Như vậy gọi là bốn hiểu không ngại. Vì sao gọi hiểu  nghĩa không ngại? Là trí duyên nghĩa không ngại. Vì sao gọi là hiểu pháp  không ngại? Là trí duyên pháp không ngại. Vì sao gọi là hiểu lời không  ngại? Là trí duyên lời không ngại. Vì sao gọi là hiểu biện không ngại?  Là trí duyên biện nói không ngại.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là mười  tám pháp Phật bất cộng? Là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không  lỗi lầm, không tiếng vội bạo, không quên mất nhớ, tâm không khẳng định,  không các thứ tưởng, không chẳng chọn bỏ, chí muốn không lui, tinh tiến  không lui, nhớ nghĩ không lui, Bát nhã không lui, giải thoát không lui,  giải thoát trí kiến không lui, tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo, theo  trí mà chuyển. Tất cả ngữ nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí mà chuyển.  Tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo theo trí mà chuyển. Hoặc trí hoặc kiến  đối đời quá khứ không mắc không ngại, hoặc trí hoặc kiến đối đời vị lai  không mắc không ngại, hoặc trí hoặc kiến đối đời hiện tại không mắc  không ngại. Đấy gọi là mười tám pháp Phật bất cộng.
Thiện Hiện!  Sao gọi ba mươi hai tướng? Là dưới chân chư Phật có tướng bình mãn diệu  khéo an trụ in như đáy hộp. Đất tuy cao thấp, tùy chỗ chân đạp thảy đều  bằng phẳng, không chẳng xúc đến, đấy là thứ nhất.
Dưới chân chư Phật ngàn vẻ quần tròn, các tướng bánh xe không chẳng tròn đầy, đấy là thứ hai.
Tay chân chư Phật thảy đều mềm mại như múi bông vải hơn hết tất cả, đấy là thứ ba
Tay chân chư Phật, ngón đều thỏn dài, tròn diệu hơn người, tiêu biểu trường thọ, đấy là thứ tư.
Tây chân chư Phật giữa kẽ mỗi ngón như chim nhạn chúa, đều có màng lưới, lẫn lộn sắc vàng, vẽ đồng bức thêu vẽ, đấy là thứ năm
Gót chân chư Phật rộng dài tròn đầy, cùng mu tương xứng, hơn các hữu tình, đấy là thứ sáu.
Mu chân chư Phật dài cao đầy đặn, mềm mại, khéo đẹp, cùng gót tương xứng, đấy là thứ bảy.
Đôi vế chư Phật lần lữa thỏn tròn như đùi nai chúa y- nê-đa-tiên, đấy là thứ tám.
Hai cánh tay chư Phật dài thẳng tròn trặn, như vòi tượng chúa, đứng thẳng rờ đầu gối đấy là thứ chín.
Âm tượng chư Phật thế bướu giấu kín, giống như long mã, cũng như tượng chúa, đấy là thứ mười.
Lỗ lông chư Phật đều sanh một sợi, mềm nhuận xanh biếc, xoay quanh bên hữu, là thứ mười một.
Tóc  lông chư Phật thẳng đều mọc lên, xoay quanh bên hữu, mềm nhuận xanh  biếc, sắc vàng nghiêm thân, rất nên ưa thích, là thứ mười hai.
Da thân chư Phật nhỏ mỏng nhuận trơn, bụi đất nước thảy đều chẳng dính được, là thứ mười ba.
Da  thân chư Phật đều sắc chơn kim, lóng lánh sáng sạch như đài diệu kim  các báu trang nghiêm, chúng thấy ưa muốn, là thứ mười bốn.
Chư Phật trong lòng hai chân, hai tay, ót và hai vai bảy chỗ đầy đặn, sáng sạch mềm mại, rất nên ưa thích, là thứ mười lăm.
Vai cổ chư Phật đầy đặn đẹp lạ, là thứ mười sáu.
Hông nách chư Phật thảy đều đầy chắc, là thứ mười bảy.
Dung nghi chư Phật ngay thẳng khôi ngô, là thứ mười tám.
Thân tướng chư Phật cao rộng đoan nghiêm là thứ mười chín.
Thể tướng chư Phật cao ngang lượng bẳng, chung quanh tròn trặn, như cây nặc-cù-đà, là thứ hai mươi.
Cằm ngực và nửa thân trên chư Phật oai dung rộng lớn như sư tử chúa, là hai mươi mốt.
Thường quang chư Phật mỗi mặt một tầm, là hai mươi hai.
Tướng răng chư Phật bốn mươi chiếc ngang bằng, sạch, khít, chân sâu, trắng hơn ngọc kha tuyết, là hai mươi ba.
Bốn nha răng chư Phật trắng đẹpnhọn bén, là hai mươi bốn.
Chư  Phật thường được thượng vị trong vị vì mặc yết hầu thẳng, nên năng dẫn  ngàn mạch chi nhánh trong thân, sở hữu thành thượng vị, là hai mươi lăm.
Tướng lưỡi chư Phật mỏng sạch rộng dài, năng che cả mặt đến mé tóc bên tai, là hai mươi sáu.
Phạm  âm chư Phật từ vận dẫn ra thanh nhã, tùy chúng nhiều ít không chẳng đều  nghe. Tiếng tăm vang rền như tiếng trống trời, phát lời đẹp thanh như  tiếng chim tần-già, là hai mươi bảy.
Mày mắt chư Phật giống như trâu chúa, xanh biếc ngang bằng, chẳng tạp loạn nhau, là hai mươi tám.
Tròng mắt chư Phật xanh biếc trắng bạch hồng hoàn xen lẫn, sáng sạch phân minh, là hai mươi chín.
Diện luân chư Phật đầy như trăng rằm, tướng mày như cung bắn Thiên Đế, là thứ ba mươi
Giữa  chặng mày chư Phật có tướng lông trắng, mềm mại xoay hữu như múi bông  vải, trắng đẹp sáng hơn ngọc kha tuyết, là ba mươi mốt.
Ô-sắc-nị-sa trên đỉnh chư Phật cao rõ tròn trăn như ngù lọng trời, là ba mươi hai. Đấy gọi ba mươi hai tướng của chư Phật.
Thiện  Hiện! Sao gọi tám mươi tùy hảo? Nghĩa là móng tay chư Phật hẹp dài mỏng  nhuận sáng láng sạch sẽ như hoa đồng, đấy là thứ nhất.
Chân tay chư Phật ngón tròn thỏn dài ngay thẳng mềm mại, đốt xương chẳng hiện, đấy là thứ hai.
Chân tay chư Phật ngang bằng không so le, ở giữa thảy đều đầy kín, đấy là thứ ba.
Chân tay chư Phật viên mãn như ý, mềm sạch sáng láng, sắc như hoa sen, đấy là thứ tư.
Mạch gân chư Phật chằng chịt bền vững, ẩn sâu chẳng hiện, đấy là thứ năm.
Hai mắt các chân chư Phật đều ẩn chẳng hiện, đấy là thứ sáu.
Chư Phật bước đi thẳng tới thong thả như long tượng chúa, đấy là thứ bảy.
Chư Phật bước đi oai dung ngay thẳng nghiêm nghị như sư tử chúa, đấy là thứ tám.
Chư Phật bước đi vững bằng thong thả chẳng quá chẳng giảm, giống như trâu chúa, đấy là thứ chín.
Chư Phật bước tiến dừng dung nghi nhàn nhã như chim nhạn chúa, đấy là thứ mười.
Chư Phật xem lui tất xoay bên hữu, cả thân chuyển theo, như rồng voi chúa, là thứ mười một.
Đốt lóng chư Phật tròn thẳng thứ lớp sắp đặt khéo đẹp, là thứ mười hai.
Lóng xương chư Phật liên kết không hở giống như rồng bàng, là thứ mười ba.
Đầu gối chư Phật sắp đặt khéo đẹp vững vàng tròn đầy, là thứ mười bốn.
Chỗ kín chư Phật văn vẻ khéo đẹp, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh, là thứ mười lăm.
Bửu thân chư Phật nhuận trơn sáng đẹp sạch sẽ, bụi đất chẳng dính, là thứ mười sáu.
Thân dung chư Phật uy nghiêm không sợ thường chẳng khiếp nhược, là thứ mười bảy.
Nhánh thân chư Phật bền chắc dày kín, khéo dính thuộc nhau, là thứ mười tám.
Nhánh thân chư Phật yên định dày nặng, thường chẳng lay động, viên mãn không hoại, là thứ mười chín.
Thân tướng chư Phật vững như núi chúa, chung quanh đoan nghiêm, sáng sạch lìa các bụi mù, là thứ hai mươi.
Thân chư Phật có viên quang chung quanh, với khi đi thảy hằng tự soi sáng, là hai mươi mốt.
Hình bụng chư Phật vuông chính không thiếu, mềm mại chẳng hiện, các tướng trang nghiêm, là hai mươi hai.
Chư Phật rốn sâu, khéo xoay tròn bên hữu, thanh tịnh sáng láng, là hai mươi ba.
Rốn chư Phật dày chẳng lõm chẳng lồi, chung quanh khéo đẹp, là hai mươi bốn.
Da thức chư Phật xa lìa ghẻ lở, cũng không điểm đen bướu thừa các lỗi, là hai mươi lăm.
Lòng tay chư Phật đầu đặn mềm mại, dưới chân yên bằng, là hai mươi sáu.
Chỉ tay chư Phật sâu dài rõ thẳng, nhuận trơn không đứt đoạn là hai mươi bảy.
Sắc môi chư Phật sáng nhuận đỏ hồng đơn, như quả tần bà, trên dưới tương xứng, là hai mươi tám.
Diện môn chư Phật chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, đoan nghiêm đúng lượng, là hai mươi chín.
Tướng lưỡi chư Phật mềm mỏng rộng dài, sắc như đồng đỏ, là thứ ba mươi.
Chư Phật phát tiếng oai chấn sâu xa, như voi chúa rống, rạng rỡ thanh thấu, là ba mươi mốt.
Âm vận chư Phật hay ho đầy đủ, như tiếng vang hang sâu, là ba mươi hai.
Chư Phật mũi cao dài mà ngay thẳng, nơi lỗ mũi chẳng hiện, là ba mươi ba.
Các chiếc răng chư Phật vuông chính trắng đẹp, là ba mươi bốn.
Các chiếc răng nha tròn trắng sạch thỏn dần nhọn bén, là ba mươi lăm
Mắt chư Phật trong, xanh trắng phân minh, là ba mươi sáu.
Nhãn tướng chư Phật dài rộng, giống như tép hoa sen xanh, rất nên ưa thích, là ba mươi bảy.
Mí mắt chư Phật trên dưới ngay thẳng, lông dày dăn chẳng trắng, là ba mươi tám.
Đôi mày chư Phật dài mà chẳng trắng, rậm mà nhỏ mềm, là ba mươi chín.
Đôi mày chư Phật dệt mướt thuận thứ lớp, xanh sắc lưu ly, là thứ bốn mươi.
Đôi mày chư Phậ cao rõ sáng nhuận, hình như trăng đầu tháng, là bốn mươi mốt.
Tai chư Phật dày rộng lớn dài, trái thòng xuống trọn vẹn, là bốn mươi hai.
Hai tai chư Phật xinh đẹp ngang bằng, lìa các lỗi quấy, là bốn mươi ba.
Dung nghi chư Phật hau khiến kẻ thấy không tổn không nhiễm, đều sanh mến kính, là bốn mươi bốn.
Trán chư Phật rộng, viên mãn bằng thẳng, hình tướng đẹp lạ, là bốn mươi lăm.
Thân phần chư Phật nửa trên viên mãn như sư tử chúa, oai nghiêm tuyệt đối, là bốn mươi sáu.
Tóc đầu chư Phật dài thượt xanh biếc, dày khít chẳng bạc, là bốn mươi bảy.
Tóc đầu chư Phật thơm, sạch, nhỏ mịn nhuận láng xoay quanh, là bốn mươi tám.
Tóc đầu chư Phật bằng thẳng không rối, cũng không dính đùm, là bốn mươi chín.
Tóc đầu chư Phật chắc chắn chẳng đứt, hẳn không rơi rụng, là thứ năm mươi
Tóc đầu chư Phật sáng trơn đẹp lạ, bụi đất chẳng dính, là năm mươi mốt
Thân phần chư Phật vững vàng đầy chắc hơn na-la-diên kiên cố, là năm mươi hai
Thân thể chư Phật cao lớn ngay thẳng, là năm mươi ba.
Các lỗ chư Phật thanh tịnh tròn đẹp, là năm mươi bốn.
Nhánh thân chư Phật thế lực thù thắng, không ai sáng ngang, là năm mươi lăm.
Thân tướng chư Phật được chúng ưa xem, thường không chán đủ, là năm mươi sáu.
Diện luân chư Phật dài rộng đúng chỗ, trong trẻo sáng sạch, như thu trăng rằm, là năm mươi bảy.
Nhan mạo chư Phật thư thái sáng láng, trước nói ngậm cười, có thuận không trái, là năm mươi tám.
Diện mạo chư Phật sáng láng vui vẻ, xa lìa các lỗi nhăn nho, xanh đỏ, là năm mươi chín.
Nhánh thân chư Phật thanh tịnh không bản, thường không hôi hám, là thứ sáu mươi.
Trong bao nhiêu các lỗ lông chư Phật thường bay hương thơm như ý vi diệu là sáu mươi mốt.
Diện môn chư Phật thường bay hương thơm tối thượng thù thắng, là sáu mươi hai.
Tướng đầu chư Phật tròn trặn khéo đẹp, như quả mạt đạt na, cũng như lọng trời, là sáu mươi ba.
Lông thân chư Phật xanh ửng sáng sạch như cổ chim công, đỏ hồng dệt đẹp, sắc giống đồng đỏ, là sáu mươi bốn.
Pháp âm chư Phật tùy chúng nhiều ít chẳng thêm chẳng bớt hợp lý không sai, là sáu mươi lăm.
Đỉnh tướng chư Phật không ai thấy được, là sáu mươi sáu.
Tay chân chư Phật màng lưới kẽ ngón rõ ràng trang nghiêm khéo đẹp, sắc như đồng đỏ, là sáu mươi bảy.
Chư Phật khi đi, chân cách đất lượng chừng bốn ngón mà hiện in dấu chân, là sáu mươi tám.
Chư Phật tự trì chẳng nhờ người đỡ, thân không nghiêng động, cũng chẳng lượn xiên, là sáu mươi chín.
Uy đức chư Phật xa động tất cả, kẻ ác tâm thấy mừng, kẻ sợ hãi thấy yên, là thứ bảy mươi.
Âm thanh chư Phật chẳng cao chẳng thấp, theo ý chúng sanh hòa vui cho lời, là bảy mươi mốt.
Chư Phật năng tùy các loại hữu tình lời tiếng ý vui mà vì thuyết pháp, là bảy mươi hai.
Chư Phật một thứ tiếng diễn nói chánh pháp tùy loại hữu tình mỗi khiến được hiểu, là bảy mươi ba.
Chư Phật thuyết pháp đều nương thứ lớp, tất có nhân duyên, lời không chẳng khéo, là bảy mươi bốn.
Chư Phật bình đẳng xem các loại hữu tình khen thiện chê ác mà không ưa ghét, là bảy mươi lăm.
Chư Phật sở vi trước xem sau làm, khuôn phép đầy đủ, khiến biết tịnh thiện, là bảy mươi sáu.
Tướng đẹp chư Phật tất cả hữu tình không ai xem hết, là bảy mươi bảy.
Xương đỉnh chư Phật cứng cỏi tròn đầy, là bảy mươi tám.
Nhan dung chư Phật thường trẻ chẳng già, ưa dạo chỗ cũ là bảy mươi chín.
Tay  chân và trước ngục chư Phật đều có tướng đức các tường đẹp đẽ xoay  quanh, vẻ giống bức thêu vẽ, sắc như châu đơn, là thứ tám mươi. Đấy gọi  tám mươi tùy hảo chư Phật.
Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng  Giác trọn nên các tướng đẹp nư thế, nên thân quang mặc nhiên năng soi  Tam thiên đại thiên thế giới không chẳng khắp đầy. Nếu khi tác ý tức hay  soi khắp vô lượng vô biên thế giới. Nhưng vì thương xót các hữu tình  nên nhiếp quang thường soi mỗi mặt một tầm. Nếu tung thân quang tức  những quang minh nhật nguyệt thảy đều thường chẳng hiện, các loại hữu  tình chẳng thể biết được ngày đêm nửa tháng ngày giờ số năm ra làm sự  nghiệp, có chẳng được thành tựu. Tiếng tăm Phật mặc nhiên năng khắp Tam  thiên đại thiên thế giới, nếu khi tác ý tức hay khắp đầy vô lượng vô  biên vô số thế giới. Nhưng vì nhiêu ích các hữu tình nên tiếng tùy lượng  chúng không tăng không giảm.
Thiện Hiện! Công đức thắng lợi như  thế, đời trước khi Ta ở ngôi Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  đã được thành xong, nên nay tướng hảo viên mãn trang nghiêm tất cả hữu  tình kẻ thấy vui mừng đều được các thứ nhiêu ích rộng lớn.
Như  vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm năng đem hai thứ bố thí của và pháp, thu nhiếp các hữu tình. Đấy là  pháp hiếm có rất lạ. 
Thiện Hiện! Sao là các Bồ tát Ma ha tát  dùng việc ái ngữ nhiếp các hữu tình? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát khi hành  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem tiếng dịu dàng vì các hữu tình trước  nói bố thí Ba la mật đa, kế nói tịnh giới Ba la mật đa, như vậy cho đến  sau nói Bát nhã Ba la mật đa phương tiện nhiếp thọ.
Thiện Hiện  phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát đem tướng dịu dàng nói nhiều sáu thứ Ba  la mật đa nhiếp các hữu tình. Sở dĩ vì sao? Vì sáu thứ Ba la mật đa đây  năng khắp nhiếp thọ tất cả pháp lành.
Thiện Hiện! Sao là các Bồ  tát Ma ha tát dùng việc lợi hành nhiếp các hữu tình? Nghĩa là Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm ở trong đêm dài thứ thứ  phương tiện khuyên các hữu tình siêng tu bố thí cho đến bát nhã Ba la  mật đa và những bao pháp lành vi diệu khác thường không chán mỏi.
Thiện  Hiện! Sao là các Bồ tát Ma ha tát dùng việc đồng sự nhiếp các hữu tình?  Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem  thắng thần thông và sức đại nguyện hiện ở trong địa ngục bàng sanh, cõi  quỷ, người, trời thảy đồng sự nghiệp kia, phương tiện nhiếp thọ khiến  được nhiêu íc.
Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát năng  dùng bốn thứ nhiếp sự như thế phương tiện khéo léo nhiếp các hữu tình  khiến được lợi ích an vui thù thắng. Đấy là pháp hiếm có rất lạ. 
Lại  nữa, Thiện Hiện! Ta đem Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới chư  Phật Căng già sa thảy, có Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm dạy răn dạy trao các Bồ tát Ma ha tát khác rằng: Thiện nam tử! Đến  đây, ngươi nên khéo học dẫn phát các chữ môn đà la ni. Nghĩa là nên  khéo học một chữ hai chữ cho đến khéo học bốn mươi hai chữ, dẫn phát tự  tại. Lại nên khéo học tất cả ngữ ngôn đều vào một chữ, hoặc vào hai chữ,  cho đến hoặc vào bốn mươi hai chữ, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học  một chữ năng nhiếp bốn mưoi hai chữ, bốn mươi hai chữ năng nhiếp một  chữ, dẫn phát tự tại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát  đều nên khéo học bốn mươi hai chữ vào nơi một chữ, một chữ cũng vào bốn  mươi hai chữ. Học như thế rồi, đối môn các chữ dẫn phát khéo léo. Đối  dẫn phát chữ được khéo léo rồi, lại đối không chữ dẫn phát khéo léo, như  các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối pháp khéo léo, đối chữ khéo léo. Vì  đối các pháp các chữ khéo léo, đối trong không chữ cũng được khéo léo.  Do khéo léo nên năng vì hữu tình vì pháp có chữ thuyết pháp không chữ,  vì pháp không chữ thuyết pháp có chữ. Sở dĩ vì sao? Vì lìa chữ không chư  không riêng có Phật pháp. Nhưng vượt khỏi các chữ gọi chơn Phật pháp.  Vì cớ sao? Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều rốt ráo không, vô ngằn  không vậy. 
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu tất cả  pháp và các hữu tình đều rốt ráo không, vô ngằn không nên vượt các chữ  ấy, thời tất cả pháp và các hữu tình tự tánh rốt ráo đều bất khả đắc,  chúng Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành bát nhã cho đến bố thí Ba la mật  đa? Hoặc tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tu  hành ba mươi bảy phần pháp Bồ đề. Hoặc tu hành không, vô tướng, vô  nguyện tam ma địa. Hoặc an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không.  Hoặc an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Hoặc an trụ khổ tập diệt  đạo thánh đế. Hoặc tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc tu  hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu hành đà la ni môn, tam ma  địa môn. Hoặc tu hành năm nhãn sáu thần thông. Hoặc tu hành Như lai mười  lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu hành đại từ, đại bi,  đại hỷ, đại xả. Hoặc tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Hoặc  tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc tu  hành ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo? Bồ tát Ma ha tát làm sao trụ  dị thục sanh sáu đến bờ kia và các thần thông, vì các hữu tình tuyên nói  chánh pháp? 
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình cũng bất khả  đắc, thi thiết hữu tình cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả  đắc, nên sắc cho đến ý thức cũng bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng  bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ cũng bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý  giới cũng bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới cũng bất khả đắc.Nhãn  thức giới cho đến ý thức giới cũng bất khả đắc.Nhãn xúc cho đến ý xúc  cũng bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm  duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới cũng  bất khả đắc.Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Các  pháp theo duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng  bất khả đắc. Sáu Ba la mật đa cho đến tám mươi tùy hảo cũng bất khả đắc.
Như  vậy, Bạch Thế Tôn! Trong bất khả đắc không có các hữu tình và thi thiết  kia, cũng không có các sắc thọ tưởng hành thức và thi thiết kia. Cho  đến cũng không có tám mươi tùy hảo và thi thiết kia. Tất cả pháp hữu  tình và thi thiết đã bất khả đắc, đều vô sở hữu, Bồ tát Ma ha tát làm  sao khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì các hữu tình tuyên nói các  pháp? Hầu như không có chúng Bồ tát Ma ha tát tự an trụ pháp bất chánh,  vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình trụ pháp bất  chánh, đem pháp điên đảo an lập hữu tình. Sở dĩ vì sao? Các Bồ tát Ma ha  tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hãy chẳng đắc Bồ đề huống  đắc phần pháp Bồ đề. Hãy chẳng đắc Bồ tát huống đắc pháp Bồ tát. Đã vậy  làm sao tu đạo Bồ đề vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Tất cả hữu tình thi  thiết hữu tình và tất cả pháp cùng thi thiết kia đều bất khả đắc. Vì  bất khả đắc nên đều vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên phải biết nội không cho  đến vô tánh tự tánh không cũng không. Phải biết chơn như cho đến bất tư  nghì giới cũng không. Phải biết khổ thánh đế cho đến đạo thánh đế cũng  không.
Phải biết sắc uẩn không cho đến thức uẩn cũng không. Phải  biết nhãn xứ không cho đến ý xứ cũng không. Phải biết sắc xứ không cho  đến pháp xứ cũng không. Phải biết nhãn giới không cho đến ý giới cũng  không. Phải biết sắc giới không cho đến pháp giới cũng không. Phải biết  nhãn thức giới không cho đến ý thức giới cũng không. Phải biết nhãn xúc  không cho đến ý xúc cũng không. Phải biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các  thọ không cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng không.
Phải  biết địa giới không cho đến thức giới cũng không. Phải biết nhân duyên  không cho đến tăng thượng duyên cũng không. Phải biết các pháp theo  duyên sanh ra không chẳng đều không. Phải biết vô minh không cho đến lão  tử cũng không. Phải biết ngã không cho đến kiến giả cũng không. Phải  biết bố thí Ba la mật đa không cho đến Bát nhã Ba la mật đa cũng không.  Phải biết bốn tĩnh lực không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng không.  Phải biết bốn niệm trụ không cho đến tám thánh đạo chi cũng không. Phải  biết không giải thoát môn không; vô tướng vô nguyện giải thoát môn cũng  không. Phải biết tám giải thoát không cho đến mười biến xứ cũng không.
Phải  biết Tịnh quan địa không cho đến Như Lai địa cũng không. Phải biết Cự  hỷ địa không cho đến Pháp vân địa cũng không. Phải biết đà la ni môn  không, tam ma địa môn cũng không. Phải biết năm nhãn không, sáu thần  thông cũng không. Phải biết Như Lai mười lực không, cho đến mười tám  pháp Phật bất cộng cũng không. Phải biết đại từ không, đai bi, đại hỷ,  đại xả cũng không. Phải biết ba mươi hai tướng không, tám mươi tùy hảo  cũng không. Phải biết vô vong thất pháp không, tánh hằng trụ xả cũng  không.
Phải biết nhất thiết trí không; đạo tướng trí, nhất thiết  tướng trí cũng không. Phải biết quả Dư lưu không, cho đến Độc giác Bồ đề  cũng không. Phải biết tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát không, chư Phật Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng không. Phải biết nghiêm tịnh cõi Phật  không, thành thục hữu tình cũng không.
Như vậy, Thiện Hiện! Các  Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thấy tất cả pháp  không pháp nào chẳng không rồi, vì các hữu tình tuyên nói các pháp  khiến lìa điên đảo. Mặc dù vì hữu tình tuyên nói các pháp mà đối hữu  tình và tất cả pháp đều vô sở đắc, đối các không tướng chẳng thêm chẳng  bớt, không lấy không bỏ. Do nhân duyên đây tuy nói các pháp mà không chỗ  nói.
Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp  khi quán như thế được trí vô chướng. Do được trí đây nên chẳng hoại các  pháp, không hai phân biệt, vì các hữu tình như thật tuyên nói khiến lìa  vọng tưởng điên đảo chấp trước, tùy kia sở ưng tới quả Tam thừa. Như có  Như Lai hóa làm một Phật. Phật này lại năng hóa làm vô lượng trăm ức hữu  tình. Khi hóa Phật kia dạy chúng đã hóa ra, hoặc khiến tu hành bố thí,  tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, nói rộng cho  đến khiến tu hành nhất thiết tướng trí , hoặc khiến an trụ quả Dư lưu  cho đến Độc giác Bồ đề, hoặc khiến an trụ tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát,  hoặc khiến an trụ chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nơi ý hiểu sao?  Khi ấy hoá Phật và chúng hóa ra vả đối các pháp có chỗ phân biệt, có phá  hoại chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Các sở biến  hoá đối tất cả pháp không phân biệt vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Do  nhân duyên đây phải biết chúng Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Hành  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì các hữu tình như ưng nói pháp, mặc dù  chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng như thật an lập hữu tình,  khiến kia an trụ chỗ bậc nên trụ. Mặc dù đối hữu tình và tất cả pháp đều  vô sở đắc, mà khiến hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước,  vì không buộc không mở làm phương tiện vậy. Sở dĩ vì sao? Sắc cho đến  thức bản tánh không buộc không mở. Nếu pháp bản tánh không buộc không  mở, pháp ấy chẳng sắc cho đến chẳng thức. Vì cớ sao? Vì sắc cho đến thức  rốt ráo tịnh vậy. Nói rộng cho đến các pháp hữu vi và pháp vô vi bản  tánh không buộc không mở. Nếu pháp bản tánh không buộc không mở, pháp ấy  chẳng hữu vi chẳng vô vi. Vì cớ sao? Vì hữu vi vô vi rốt ráo tịnh vậy.
Như  vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm tuy vì hữu tình tuyên nói các pháp mà đối hữu tình và tánh các  pháp đều vô sở đắc. Sở dĩ vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp bất khả  đắc vậy. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, trụ trong  tất cả pháp vô sở đắc. Nghĩa là đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ sắc  uẩn không; đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ thọ tưởng hành thức uẩn  không. Nói rộng cho đến đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ pháp hữu  vi không; đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ pháp vô vi không.
Thiện  Hiện phải biết: Sắc uẩn vô sở trụ, thọ tưởng hành thức uẩn cũng vô sở  trụ. Sắc uẩn không vô sở trụ, thọ tưởng hành thức uẩn không cũng vô sở  trụ. Nói rộng cho đến pháp hữu vi vô sở trụ, pháp vô vi cũng vô sở trụ.  Pháp hữu vi không vô sở trụ, pháp vô vi không cũng vô sở trụ. Sở dĩ vì  sao? Vì các pháp như thế và các pháp không đều vô tự tánh đều bất khả  đắc. Chẳng phải pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có sở trụ.
Thiện  Hiện phải biết: Chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải  pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh, chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp hữu  tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp vô tánh. Chẳng phải pháp tự tánh  trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tha tánh chẳng phải  pháp tự tánh trụ pháp tha tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự  tánh. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp đều bất khả đắc. Pháp bất khả đắc làm  sao trụ được? Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm dùng các không đây tu khiển các pháp, cũng  năng như thật nói chỉ cho hữu tình.
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ  tát Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế đối Phật,  Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, các chúng Hiền thánh đều không tội lỗi. Sở  dĩ vì sao? Vì chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn đối pháp tánh đây  đều năng tùy giác. Đã tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên nói không  trái. Mặc dù hữu tình tuyên nói các pháp mà đối pháp tánh không chuyển  không vượt. Sở dĩ vì sao? Thật tánh các pháp tức là pháp giới chơn như  thật tế. Pháp giới chơn như thật tế như thế đều chẳng thể chuyển, cũng  chẳng thể vượt. Vì cớ sao? Vì pháp giới chơn như thật tế như thế đều vô  tự tánh, đều bất khả đắc. Vì chẳng phải bất khả đắc có chuyển vượt vậy.
Cụ  thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu chơn pháp giới chơn như thật tế  không chuyển vượt ấy, sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi cùng chơn pháp giới  chơn như thật tế hãy có khác chăng?
Phật nói: Chẳng khác. Sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi chẳng khác pháp giới chơn như thật tế.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:Nếu sắc cho đến hữu vi vô vi chẳng  khác pháp giới chơn như thật tế, vì sao Thế Tôn thi thiết nghiệp đen cảm  dị thục đen, chỗ gọi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Thi thiết nghiệp  đen trắng cảm dị thục đen trắng chỗ gọi một phần bàng sanh, quỷ giới và  một phần người. Thi thiết nghiệp chẳng đen chẳng trắng cảm dị thục chẳng  đen chẳng trắng, chỗ gọi quả Dự lưu cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Ta nương thế tục thi thiết nhân quả sai khác như thế,  chẳng nương thắng nghĩa. Vì Thắng nghĩa đế chẳng thể nói có nhân quả sai  khác. Sở dĩ vì sao? Trong Thắng nghĩa đế các pháp tánh tướng chẳng thể  phân biệt không nói không chỉ, làm sao có được nhân quả sai khác.
Thiện  Hiện phải biết: Trong Thắng nghĩa đế sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi không  sanh không diệt không nhiễm không tịnh, vì rốt ráo không, vô ngằn không  vậy.
