Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma  ha tát này vì trụ nhóm chánh tánh định hay trụ nhóm bất định ư? 
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này đều trụ nhóm chánh tánh định, chẳng phải nhóm bất định.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát này vì trụ nhóm  chánh tánh định bậc nào, Thanh Văn thừa ư? Ðộc giác thừa ư? Bồ Tát thừa  ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này đều trụ nhóm chánh tánh định, chẳng trụ nhóm Nhị thừa chánh tánh định.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát vì thời nào trụ  nhóm chánh tánh định, sơ phát tâm ư? Ngôi Bất thối ư? Thân rốt sau ư?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này hoặc sơ phát tâm hoặc ngôi  bất thối, hoặc thân rốt sau, đều trụ nhóm Bồ Tát chánh tánh định.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Trụ nhóm chánh tánh định Bồ Tát Ma  ha tát quyết định chẳng đọa trong các ác thú. Lại bảo Thiện Hiện: Nơi ý  hiểu sao? Ðệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác đọa ác  thú chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng đọa.
Phật  bảo:Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế. Từ sơ phát tâm tu  hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô  biên các Phật pháp khác dứt các ác pháp. Do nhân duyên đây đọa các ác  thú, không có lẽ ấy, sanh trời trường thọ cũng không lẽ ấy. Vì ở chỗ kia  các thắng thiện pháp hiện hành chẳng được. Bồ Tát Ma ha tát này nêu  sanh chốn biên bỉ, hoặc sanh nơi bất tín hay trong ác kiến không có lẽ  ấy, vì ở chỗ kia chẳng năng tu hành thiện pháp thù thắng, nhiều khởi ác  kiến, chẳng tin nhân quả, thường ưa tạp làm các uế ác, chẳng nghe danh  Phật, danh Pháp, danh Tăng, cũng không bốn chúng là Bí sô, Bí sô ni, tại  gia nam, tại gia nữ. Bồ Tát Ma ha tát này sanh nhà tà kiến, không có lẽ  ấy, vì sanh nhà kia chấp chặt các thứ ác kiến thú, bác bỏ không diệu  hành, ác hành và quả, chẳng tu các lành, ưa làm các ác, nên các Bồ Tát  chẳng sanh nhà kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát sơ  phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác đem thắng ý lạc mà thọ hành mười thứ  bất thiện nghiệp đạo, không có lẽ ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa  Phật rằng: Nếu Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm trọn nên công đức căn  lành như thế, chẳng sanh xứ ác. Vì cớ Như Lai thường vì chúng nói việc  tự bổn sanh nhiều trăm ngàn thứ, ở trong cũng có sanh các ác thú? Căn  lành bấy giờ, vì ở chỗ nào?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma  ha tát chẳng bởi uế nghiệp thọ thân ác thú. Chỉ vì nhiêu ích các loại  hữu tình, do cố ý nghĩ muốn nguyện mà thọ thân kia. Vậy nên chẳng nên  dẫn đó làm nạn.
Lại bảo Thiện Hiện: Nơi ý hiểu sao? Có các Ðộc  giác, hoặc A la hán, phương tiện khéo léo, như các Bồ Tát trọn nên  phương tiện khéo léo thù thắng, thọ thân bàng sanh, voi trắng thảy, thấy  kẻ oán tặc muốn đến làm tổn hại, bèn khởi an nhẫn từ bi Vô thượng, muốn  khiến người kia được lợi vui, nên tự xả thân mệnh, chẳng hại kia chăng?  Thiện Hiện thưa rằng: Các Ðộc giác thảy không việc như thế.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Do nhân duyên đây phải biết Bồ Tát vì muốn nhiêu ích  các hữu tình, nên vì đại từ bi mau viên mãn, nên dù hiện thọ các loại  thân bàng sanh, mà chẳng bị tội lỗi bàng sanh làm nhiễm.
Cụ thọ  Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát trụ căn lành nào, vì  muốn nhiêu ích các hữu tình nên thọ thân bàng sanh?
Phật bảo:  Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát đâu có căn lành nào chẳng viên mãn.  Nhưng chúng các Bồ Tát Ma ha tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tất  cả căn lành đều viên mãn. Nghĩa là các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến  ngồi yên tòa diệu Bồ đề, không có căn lành nào chẳng viên mãn. Cần đủ  viên mãn tất cả căn lành, mới được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Nếu  một pháp lành chưa viên mãn được mà được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,  không có lẽ ấy. Vậy nên Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu  Bồ đề, ở thời gian giữa thường học viên mãn tất cả pháp lành. Học rồi sẽ  được nhất thiết tướng trí, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau, mới năng  chứng được nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật  rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí, mà  sanh ác thú thọ thân bàng sanh?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Như Lai trọn nên tất cả bạch pháp, chân Thánh trí chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như Lai trọn nên tất cả bạch pháp và chân Thánh trí.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Như Lai hóa làm thân thú bàng sanh nhiêu ích hữu tình làm Phật sự chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như Lai hóa làm thân thú bàng sanh nhiêu ích hữu tình làm các Phật sự.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh là thật bàng sanh, chịu khổ kia chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Khi Như Lai hoá làm thân bàng sanh chẳng thật bàng sanh, chẳng chịu khổ kia.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, dù trọn nên  bạch pháp và chân Thánh trí mà vì thành thục hữu tình, nên phương tiện  khéo léo thọ thân bàng sanh, như ưng thành thục các loại hữu tình.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Có A la hán các lậu hết hẳn, năng hóa  làm thân khởi các sự nghiệp. Do sự nghiệp kia, năng phát sanh tâm người  người khác vui mừng chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Có A la hán các  lậu hết hẳn, năng hóa làm thân, khởi các sự nghiệp. Do sự nghiệp kia  năng khiến người khác sanh vui mừng lớn.
Phật bảo: Thiện Hiện!  Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, dù trọn nên bạch pháp và chân  Thánh trí, mà vì nhiêu ích các hữu tình nên phương tiện khéo léo thọ  thân ác thú, như ưng thành thục các loại hữu tình, dù thọ thân kia, mà  chẳng đồng kia chịu các khổ não. Cũng lại chẳng bị tội lỗi thú kia làm  tạp nhiễm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Có thầy huyễn  giỏi, hoặc học trò kia, huyễn làm nhiều thứ việc voi ngựa thảy cho chúng  nhân thấy vui mừng nhảy nhót, đối kia có thật voi ngựa thảy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Ðối kia không thật việc voi ngựa thảy.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế,dù trọn nên bạch  pháp và chân Thánh trí mà vì nhiêu ích các hữu tình nên thọ các thứ  thân bàng sanh thảy, mặc dù thọ thân kia mà thật chẳng phải kia, cũng  chẳng bị tội lỗi kia làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật  rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát phương tiện khéo léo rộng lớn như thế, dù  trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí, mà vì hữu tình nên thọ các thứ  thân, tuỳ kia sở ưng hiện làm nhiêu ích.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát  Ma ha tát trụ những pháp nào năng làm phương tiện khéo léo như thế. Do  vì sức phương tiện khéo léo đây, nên dù qua thế giới chư Phật mười  phương Căng già sa thảy, hiện các thứ thân, lợi ích an vui loại hữu tình  kia, mà ở trong ấy chẳng khởi nhiễm đắm. . Sở vì sao? Bồ Tát Ma ha tát  này đối tất cả pháp đều vô sở đắc, là đều chẳng đắc năng nhiễm sở nhiễm  và nhân duyên nhiễm. Sở vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh không vậy.
Thiện  Hiện phải biết! Không chẳng thể nhiễm dính không . Không chẳng thể  nhiễm dính các pháp, cũng không có các pháp năng nhiễm dính được không.  Sở vì sao? Tánh không trong không hãy bất khả đắc huống có các pháp mà  khả đắc ấy. Như vậy gọi là bất khả đắc không. Các Bồ Tát Ma ha tát an  trụ trong đây năng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu  tình thường làm nhiêu ích.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:  Các Bồ Tát Ma ha tát chỉ vì an trụ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu năng  làm phương tiện khéo léo như thế, hay cũng an trụ các pháp khác ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Ðâu có các pháp nào chẳng bị nhiếp thọ trong Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu mà ngươi nay sanh nghi như thế?
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đã tự  tánh không, làm sao nói được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp tất cả  pháp? Chẳng phải ở trong không khá nói được có pháp nhiếp cùng chẳng  nhiếp?
Phật bảo: Thiện Hiện! Ðâu chẳng các pháp, các pháp tánh không? Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp, tất cả pháp tánh không, đâu chẳng  trong không nhiếp tất cả pháp? Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Bởi nhân duyên đây, Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  nhiếp tất cả pháp. Nên biết Bồ Tát trụ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  năng làm phương tiện khéo léo như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện  thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu an trụ trong các pháp tự tánh không, dẫn pháp thần  thông Ba la mật đa. An trụ thần thông Ba la mật đa, năng qua thế giới  chư Phật mười phương Căng già sa thảy, cúng dường cung kính chư Phật Thế  Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ Chánh pháp, trồng trọt vô lượng căn lành  thù thắng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khắp xem thế giới chư Phật mười Căng già  sa thảy và chư Phật mười phương Căng già sa thảy và chư Phật, chúng cùng  pháp đã thuyết tự tánh đều không. Duy có thế giả nói danh tự, nói là  thế giới, Phật, Chúng và pháp. Thế tục giả nói danh tự như thế, tự tánh  cũng không.
Thiện Hiện phải biết! Nếu mười phương giới chư Phật,  Chúng cùng pháp đã nói, giả nói danh tự tự tánh chẳng không, thời sở  thuyết không, lẽ thành một phần. Vì sở thuyết không chẳng thành một  phần, nên tất cả pháp tự tánh đều không. Lý ấy mới chu viên, không hai  không riêng. Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, do phương tiện khéo léo khắp quán không, nên dẫn phát thần thông Ba  la mật đa. An trụ thần thông Ba la mật đa bèn năng dẫn phát vi diệu  thông huệ: Thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ, tuỳ niệm  và biết lậu tận.
Thiện Hiện phải biết! Các Bồ Tát Ma ha tát chẳng  lìa thần thông Ba la mật đa có được tự tại thành thục hữu tình, nghiêm  tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên thần thông  Ba la mật đa là đạo bồ đề, các Bồ Tát Ma ha tát đều nương đạo này cầu  tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ở khi cầu tới, năng tự viên mãn tất cả  thiện pháp đều không chấp đắm . Sở vì sao? Bồ Tát Ma ha tát này biết các  thiện pháp đều tự tánh không. Chẳng phải tự tánh không có sở chấp  trước. Nếu có chấp trước thời có ái vị. Do không chấp trước cũng không  có ái vị, trong tự tánh không có ái vị, nên năng ái vị, sở ái vị và nhân  duyên ái vị ở trong không pháp bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện phải  biết! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu an trụ  thần thông Ba la mật đa, dẫn phát thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng  thiên nhãn đây xem tất cả phát tự tánh đều không. Vì thấy tất cả pháp  tự tánh không, nên chẳng nương Pháp Tướng gây làm các nghiệp, tuy vì hữu  tình thuyết pháp như thế mà cũng chẳng đắc tướng các hữu tình và thi  thiết kia. Bồ Tát Ma ha tát này đem vô sở đắc mà làm phương tiện, dẫn  phát Bồ Tát thần thông thù thắng. Dùng thần thông đây làm tất cả sự  nghiệp cần nên làm.
Bồ Tát Ma ha tát này đem thiên nhãn cực thanh  tịnh hơn người, khắp xem thế giới chư Phật mười phương Căng già sa  thảy. Thấy rồi, dẫn phát thần cảnh trí thông, qua kia nhiêu ích các loại  hữu tình, hoặc đem bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa mà  làm nhiêu ích.
Hoặc đem bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi mà  làm nhiêu ích. Hoặc đem bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định mà  làm nhiêu ích. Hoặc đem tám giải thoát cho đến mười biến xứ mà làm nhiêu  ích. Hoặc đem không , vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà làm nhiêu  ích. Hoặc đem các pháp lành thù thắng khác mà làm nhiêu ích. Hoặc đem  Thanh Văn, Ðộc giác, Bồ Tát và các Phật pháp mà làm nhiêu ích.
Bồ  Tát Ma ha tát này ở mười phương cõi, nếu thấy hữu tình kẻ nhiều xan  tham, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải  hành bố thí. Các kẻ xan tham chịu khổ nghèo cùng. Bởi nghèo cùng nên  không có oai đức, chẳng năng tự ích huống năng ích người. Vậy nên các  ngươi nên siêng hành thí. Ðã tự an vui, cũng an vui người. Chớ vì nghèo  cùng ăn nuốt lẫn nhau, đều chẳng giải thoát khổ ác thú.”
Nếu thấy  hữu tình hủy phạm tịnh giới, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy:  “Hữu tình các ngươi phải trì tịnh giới. Các kẻ phá giới chịu khổ ác thú.  Những kẻ phá giới không có oai đức, chẳng năng tự ích, huống năng ích  người. Nhân duyên phá giới đọa ba ác thú, chịu khổ dị thục đau độc khó  chịu, chẳng năng tự cứu, huống năng cứu người. Vậy nên các ngươi phải  trì tịnh giới. Chẳng nên dung nạp tâm phá giới qua chừng giây lát, huống  trải nhiều thời, chớ tự lung tâm, sau sanh ưa hối.”
Nếu thấy hữu  tình giận dữ lẫn nhau, lần hồi kết hận, tổn não với nhau, rất sanh  thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải tu an nhẫn,  chớ giận dữ nhau, kết hận hại nhau. Các tâm giận hờn chẳng thuận thiện  pháp, tăng trưởng ác pháp, rước hiện suy tổn. Các ngươi bởi tâm giận hờn  đây, nên thân hoại mệnh chung sẽ đọa ác thú chịu các cực khổ, khó có kỳ  ra. Vậy nên các ngươi chẳng nên dung nạp tâm giận hờn qua chừng giây  lát, huống chi cho nó nối nhau thời dài. Ngày nay các ngươi lần lữa  duyên nhau, nên khởi từ tâm làm việc nhiêu ích.”
Nếu thấy hữu  tình biếng trễ lười nhác, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu  tình các ngươi phải siêng tinh tiến, chớ đối pháp lành biếng trễ lười  nhác. Các kẻ lười biếng đối các pháp lành và các thắng sự đều chẳng năng  thành, các ngươi bởi đấy đọa các ác thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên các  ngươi chẳng nên dung nạp tâm lười biếng qua chừng giây lát, huống gì cho  nó nối nhau thời dài.”
Nếu thấy hữu tình mất nhớ tán loạn, tâm  chẳng vắng lặng, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các  ngươi phải tu tĩnh lự, chớ sanh tâm mất nhớ tán loạn. Tâm như thế chẳng  thuận thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, rước hiện suy tổn. Các ngươi bởi  đấy thân hoại mệnh chung đọa các ác thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên các  ngươi chẳng nên dung nạp tương ưng mất nhớ tán loạn qua chừng giây lát,  huống gì cho nó nối nhau thời dài.”
Nếu thấy hữu tình ngu si ác  huệ, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “ Hữu tình các ngươi phải  tu thắng huệ chớ khởi ác huệ. Kẻ khởi ác huệ đối các thiện thú hãy  chẳng tới được, huống được giải thoát! Các ngươi bởi nhân duyên ác huệ  bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc nói bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo  chi. Hoặc nói bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc nói tám  giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc nói không, vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn. Hoặc nói tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Hoặc nói  nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc nói chơn như cho đến bất  tư nghì giới. Hoặc nói khổ tập diệt đạo thánh đế.
Hoặc nói nhân  duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc nói theo duyên sanh ra các pháp.  Hoặc nói vô minh cho đến lão tử. Hoặc nói các thứ pháp môn uẩn, xứ,  giới.
Hoặc nói đạo Thanh Văn, hoặc nói Ðộc giác, hoặc nói đạo Bồ  Tát, hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn. Khiến các hữu tình kia nghe pháp  này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này  đem thiên nhĩ cực thanh tịnh hơn người năng nghe tất cả tiếng người phi  người. Do thiên nghĩ đây khắp nghe thế giới chư Phật mười phương Căng  già sa thảy tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thuyết lên Chánh pháp,  nghe rồi thọ trì, suy nghĩ nghĩa thú. Tuỳ pháp đã nghe năng vì hữu tình  như thật tuyên nói, hoặc nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la  mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến hữu  tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ  Tát Ma ha tát này đem tha tâm trí thông cực thanh tịnh, như thật biết rõ  pháp tâm tâm sở các loại hữu tình, tuỳ kia sở ưng vì nói pháp yếu.  Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng  cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn khiến hữu tình kia nghe pháp  này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này  đem tịnh túc trụ tùy niệm trí thông năng nhớ các việc bổn sanh mình  người. Do túc trụ tuỳ niệm trí thông đây như thật nhớ biết danh thảy sai  khác của chư Phật và chúng đệ tử đời quá khứ. Nếu các hữu tình ưa nghe  các việc túc trụ quá khứ mà được ích ấy, bèn vì tuyên nói các việc túc  trụ. Nhân đây phương tiện vì thuyết chánh pháp. Nghĩa là nói bố thí Ba  la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề,  hoặc nói Niết Bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp này rồi, đều được lợi  ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem thần cảnh trí  thông cực nhanh chóng, qua đến thế giới chư Phật mười phương Căng già sa  thảy, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật trồng các căn  lành. Về lại bản cõi vì các hữu tình nói việc cõi chư Phật, nhân đấy  phương tiện vì thuyết chánh pháp. Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho  đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết  Bàn, khiến các hữu tình nghe pháp này rồi, đều được lợi ích an vui thù  thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem tuỳ sở đắc lậu tận trí thông, như  thật biết rõ các loại hữu tình lậu hết chưa biết, cũng như thật biết  lậu hết, phương tiện vì kẻ chưa hết tuyên nói pháp yết. Nghĩa là nói bố  thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói  Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến các hữu tình nghe pháp này rồi, đều  được lợi ích an vui thù thắng.
Như vậy Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nên dẫn phát thần thông Ba  la mật đa. Bồ Tát Ma ha tát này tu tập thần thông Ba la mật đa được  viên mãn nên tuỳ chỗ ý muốn thọ các thứ thân, chẳng bị lầm lỗi khổ vui  làm ô nhiễm. Như hoá thân Phật tùy năng ra làm nhiều thứ sự nghiệp mà  chẳng bị lầm lỗi khổ vui kia làm tạp nhiễm.
Như vậy, Thiện Hiện!  Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nen rỗi dạo  thần thông Ba la mật đa. Nếu rỗi dạo thần thông Ba la mật đa, thời năng  thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết! Nếu Bồ Tát Ma ha tát chẳng  thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, quyết chẳng năng được sở cầu  Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Sở vì sao? Các Bồ Tát Ma ha tát nếu chưa  viên mãn tư lương bồ đề tất chẳng năng chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng  bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì  gọi là tư lương Bồ đề các Bồ Tát Ma ha tát? Các Bồ Tát Ma ha tát viên  mãn tư lương Bồ đề như thế mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương bồ đề Bồ Tát.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là tất cả thiện pháp?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm tu hành bố thí Ba  la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, với trong đều vô phân biệt chấp  trước rằng khởi nghĩ này: “Ðây là bố thí cho đến Bát nhã. Do đây vì đây  mà tu bố thí cho đến Bát nhã.” Ba phân biệt chấp trước này đều vô, vì  biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Bởi đây sở tu bố thí thảy sáu Ba la  mật đa tự năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử chứng Niết  Bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương bồ đề Bồ Tát, cũng gọi đạo  Bồ Tát Ma ha tát. Chúng Bồ Tát Ma ha tát quá khứ vị lai hiện tại hành  đạo đây nên đã được sẽ được đang được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng  khiến hữu tình đã sẽ đang qua biến cả sanh tử, được vui Niết Bàn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Tu  hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát  cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát  môn. Tu hành các bậc Bồ Tát Ma ha tát. Tu hành tất cả đà la ni môn, tam  ma địa môn. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết  trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Với trong đều vô phân  biệt chấp trước, rằng khởi nghĩ này: “Ðây là bốn niệm trụ cho đến nhất  thiết tướng trí. Do đây vì đây mà tu bốn niệm trụ cho đến nhất thiết  tướng trí”. Ba phân biệt chấp trước đều vô, vì biết tất cả pháp tự tánh  không vậy.
Bởi đây sở tu bốn niệm trụ cho đến nhất thiết tướng  trí năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh  tử được Niết Bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ đề Bồ  Tát, cũng gọi đạo Bồ Tát Ma ha tát. Chúng Bồ Tát Ma ha tát quá khứ vị  lai hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, đang được Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã sẽ đang qua biển lớn sanh tử  được vui Niết Bàn.
Thiện Hiện phải biết! Lại có vô lượng chúng  các Bồ Tát tu công đức đều gọi thiện pháp, cũng gọi tư lương bồ đề Bồ  Tát, cũng gọi đạo bồ tá Ma ha tát. Các Bồ Tát Ma ha tát cần tu các thắng  thiện pháp như thế khiến cực viên mãn, mới chứng được Nhất thiết trí  trí. Cần đã chứng được Nhất thiết trí trí mới năng quay xe Chánh pháp  không trái ngược, khiến các hữu tình an vui rốt ráo.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện  pháp đấy là pháp Bồ Tát ấy, lại có những nào là pháp Phật ư?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Tức pháp Bồ Tát là pháp Phật. Nghĩa là các Bồ Tát đối  tất cả pháp tất cả tướng. Do đây sẽ được nhất thiết tướng trí, dứt hẳn  tất cả tập khí nối nhau. Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đối tất cả  pháp dùng một sát na tương ưng diệu huệ hiện đẳng giác rồi, chứng được  Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Thiện Hiện! Ðấy gọi Bồ Tát cùng Phật  hai pháp sai khác. Như hai Thánh giả, tuy đồng là Thánh mà có hành hướng  trụ quả sai khác, pháp được thành tựu chẳng phải không có khác.
Như  vậy, Thiện Hiện! Nếu trong đạo vô gián hành tất cả pháp chưa lìa ám  chướng, chưa đến bờ kia, chưa được tự tại, khi chưa được quả, gọi là Bồ  Tát. Nếu trong đạo giải thoát, hành tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến  bờ kia, đã được tự tại, khi đã được quả mới gọi là Phật, đấy là Bồ Tát  cùng Phật có khác. Do vị có khác, pháp chẳng không riêng, mà chẳng thể  nói pháp tánh có khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu  tất cả pháp tự tướng đều không . Trong tự tướng không làm sao được có  các thứ sai khác: Rằng đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ  giới, đây là người, đây là trời, đây là bậc Chủng tánh, đây là bậc Ðệ  bát, đây là dự lư, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la hán,  đây là Ðộc giác, đây là Bồ Tát, đây là Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Ðã  nói như thế, bổ đặc già la đã bất khả đắc, kia chỗ gây nghiệp cũng bất  khả đắc, như chỗ gây nghiệp đã bất khả đắc, quả dị thục kia cũng bất khả  đắc?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy như vậy. Như ngươi đã nói,  tất cả pháp tự tướng không. Trong tự tướng không, bổ đặc già la đã vô sở  hữu, nghiệp quả dị thục cũng vô sở hữu, trong vô sở hữu không có tướng  sai biệt. Nhưng các hữu tình đối lý tất cả pháp tự tướng không chẳng như  thật biết, gây làm các nghiệp lành hoặc dữ. Do nơi nghiệp lành gây làm  tăng trưởng, sanh trong trời người. Do nơi nghiệp dữ gây làm tăng trưởng  đọa ba ác thú. Ở trong nghiệp lành do nơi định nghiệp gây làm tăng  trưởng sanh nơi cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc. Bởi nhân duyên đây các Bồ Tát  Ma ha tát tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa.
An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Tu  hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn  vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ.  Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa  cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu  hành năm nhãn, sáu thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám  pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu  hành Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Thiện  Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát đối Bồ đề phần pháp như thế thảy không hở  không khuyết tu cho đến viên mãn. Ðã viên mãn rồi, bèn năng dẫn phát  định Kim cương dụ cận trợ Bồ đề, mới chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề, cùng các hữu tình làm đại nhiêu ích, thường không mất hoại. Vì không  mất hoại nên khiến các hữu tình giải thoát các việc khổ não sanh tử.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Phật được Vô thượng Chánh đẳng giác  rồi, vì được pháp các thú sanh tử chăng? Phật nói: Chẳng được. 
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Phật được Vô thượng Chánh đẳng giác  rồi, vì được hắc nghiệp, bạch nghiệp, hắc bạch nghiệp, phi hắc bạch  nghiệp chăng? Phật nói: chẳng được.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa  Phật rằng: Nếu Phật chẳng được các thú sanh tử và nghiệp sai biệt, làm  sao thị thiết đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là  người, đây là trời, đây là Chủng tánh địa, đây là Ðệ bát địa, đây là Dự  lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Ðộc  giác, đây là Bồ Tát, đây là Như Lai?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu  các hữu tình tự biết các pháp tự tướng không ấy, các Bồ Tát Ma ha tát  bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng cần cầu chứng, phương tiện khéo  léo cứu vớt các hữu tình ác thú sanh tử. Vì các hữu tình chẳng biết các  pháp tự tướng không, nên trôi lăn các thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên Bồ  Tát theo chỗ chư Phật, nghe tất cả pháp tự tướng không rồi, vì muốn  nhiêu ích các hữu tình, nên cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phương  tiện khéo léo cứu vớt các hữu tình ác thú sanh tử.
Thiện Hiện  phải biết! Các Bồ Tát Ma ha tát thường khởi nghĩ này: chẳng phải tất cả  pháp thật có tự tướng, như chỗ chấp của các ngu phu dị sanh, nhiên hậu  sức phân biệt điên đảo, nên trong chẳng phải thật có khởi tưởng thật có,  nghĩa là trong vô ngã khởi tưởng nơi ngã, trong vô hữu khởi tưởng hữu  tình. Nói rộng cho đến vô kiến giả khởi tưởng kiến giả. Với trong vô sắc  khởi tưởng nơi sắc, trong vô thọ tưởng hành thức khởi tưởng thọ tưởng  hành thức. Cho đến trong tất cả pháp hữu vi, vì sức hư dối phân biệt  điên đảo nên chẳng thật bảo thật, chẳng có chấp có. Do đây gây tác  nghiệp thân ngữ ý, chẳng năng giải thoát sanh tử ác thú, ta phải cứu vớt  khiến được giải thoát.
Bồ Tát Ma ha tát này khởi nghĩ đây rồi,  hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem các thiện pháp nhiếp ở nơi trong  tu hành các hạnh Bồ Tát không trái ngược, lần hồi viên mãn tư lương Bồ  đề. Tư lương bồ đề đã được viên mãn, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề. Ðược Bồ đề rồi, vì các hữu tình tuyên nói khai thị, phân biệt kiến  lập nghĩa bốn thánh đế: Rằng đây là khổ thánh đế, đây là khổ tập thánh  đế, đây là khổ diệt thánh đế, đây là tới đạo khổ thánh đế. Lại đem tất  cả Bồ đề phần pháp nương trí thông đạt, nhiếp ở trong bốn thánh đế như  thế. Lại nương tất cả bồ đề phần pháp, dùng trí vi diệu thi thiết kiến  lập Phật Pháp Tăng bảo. Nhờ Tam-Bảo đây xuất hiện thế gian các loại hữu  tình giải thoát sanh tử. Nếu các hữu tình chăng năng quy tính Phật Pháp  Tăng bảo, gây làm các nghiệp lộn quanh các thú chịu khổ vô cùng, nên  phải quy y Phật Pháp Tăng bảo.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật  rằng: Vì bởi khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào Niết  Bàn, hay bởi trí khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào  Niết Bàn?
Phật bảo Thiện Hiện! Chẳng bởi khổ tập diệt đạo thánh  đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn. Chẳng bởi trí khổ tập diệt đạo  thánh đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn.
Thiện Hiện! Ta nói  tánh bốn thánh đế bình đẳng tức là Niết Bàn. Niết Bàn như thế chẳng bởi  đế khổ tập diệt đạo được, chẳng bởi trí khổ tập diệt đạo được. Chỉ bởi  Bát nhã Ba la mật đa chứng tánh bình đẳng gọi được Niết Bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là tánh bình đẳng khổ tập diệt đạo ư?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nếu ở chỗ này không có khổ tập diệt đạo đế, không có  khổ tập diệt đạo trí, gọi tánh bốn thánh đế bình đẳng. Tánh bình đẳng  đây tức là bốn thánh đế. Sở hữu chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh  chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, cõi hư không , cõi bất tư nghì, nếu Phật ra đời  hoặc chẳng ra đời, tánh tướng thường trú, không mất hoại, không biến  đổi. Như vậy gọi là tánh bình đẳng khổ tập diệt đạo.
Các Bồ Tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì muốn tùy giác tánh  bình đẳng bốn thánh đế đây, nên hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nếu  khi năng tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây gọi chơn tuỳ giác tất  cả thánh đế, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Cụ thọ Thiện  Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu, vì muốn tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây nên  hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu? Nếu khi năng tùy giác tánh bình đẳng  bốn thánh đế đây, gọi chơn tùy giác tất cả thánh đế, chẳng đọa Thanh  Văn bậc Ðộc giác thảy, tới vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, không có chút pháp chẳng như thật thấy. Khi đối tất cả pháp như  thật thấy, đối tất cả pháp đều vô sở đắc. Khi đối tất cả pháp vô sở đắc,  thời như thật thấy tất cả pháp không, nghĩa là như thật thấy bốn đế chỗ  nhiếp và chỗ chẳng nhiếp, các pháp đều không. Khi thấy như thế năng vào  Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, do năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, nên  bèn trụ trong bậc Bồ Tát chủng tánh. Ðã trụ trong bậc Bồ Tát chủng tánh,  thời năng quyết định chẳng từ đỉnh đọa, nếu từ đỉnh đọa lẽ đọa Thanh  Văn hoặc bậc Ðộc giác. Bồ Tát Ma ha tát này an trụ trong bậc Bồ Tát  chủng tánh khởi bốn tĩnh lự và bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ Tát Ma  ha tát này an trụ Xa ma tha địa như thế, mới năng quyết chọn tất cả pháp  tánh, và tuỳ giác ngộ bốn thánh đế.
Bấy giờ, Bồ Tát dù khắp biết  khổ mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp khổ. Dù dứt hẳn tập mà năng chẳng  khởi tâm duyên chấp tập. Dù năng chứng diệt, mà năng chẳng khởi tâm  duyên chấp diệt. Dù năng tu đạo, mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp đạo.  Chỉ khởi tâm tùy thuận hướng tới đến vào Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, như  thật quán sát thật tướng các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bồ Tát Ma ha tát này làm sao quán sát thật tướng các pháp?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này đối tất cả pháp như thật quán sát  đều tự tướng không. Như vậy quán sát các pháp đều không. Bồ Tát Ma ha  tát này dùng tướng Tỳ bát xá na như thế, như thật quán thấy các pháp đều  không, trọn chẳng thấy có tự tánh các pháp khá trụ tánh kia, chứng được  Vô thượng Chánh đẳng bồ đề . Sở vì sao? Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng  bồ đề và tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chỗ gọi sắc cho đến  thức, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng lấy vô  tánh làm tự tánh. Sắc xứ cho đến ý xứ cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn  giới cho đến ý giới cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Sắc giới cho đến pháp  giới cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới  cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng lấy vô tánh  làm tự tánh. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên  sanh ra các thọ cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Ðịa giới cho đến  thức giới cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nhân duyên cho đến tăng  thượng duyên cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Theo duyên sanh ra các  pháp cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Vô minh cho đến lão tử cũng lấy vô  tánh mà làm tự tánh. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa  cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không  cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng  lấy vô tánh mà làm tự tánh. Khổ tập diệt đạo thánh đế cũng lấy vô tánh  mà làm tự tánh.
Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi cũng lấy  vô tánh mà làm tự tánh. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng  lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng lấy  vô tánh mà làm tự tánh. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng  lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa  cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng  lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn cũng lấy  vô tánh mà làm tự tánh. Năm nhãn, sáu thần thông cũng lấy vô tánh mà  làm tự tánh. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng  lấy vô tánh mà làm tự tánh. Ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tuỳ hảo  cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả  cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Nhất thiết trí, đạo tướng trí,  nhất thiết tướng trí cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Quả Dự lưu cho đến  Ðộc giác Bồ đề cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tất cả hạnh Bồ Tát Ma  ha tát cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Vô tánh như thế chẳng chư Phật làm,  chẳng Ðộc giác làm, chẳng Bồ Tát làm, chẳng Thanh Văn làm, cũng chẳng  phải những kẻ trụ quả hành hương làm. Chỉ vì hữu tình đối tất cả pháp  chẳng biết chẳng thấy như thật đều không , nên chúng các Bồ Tát Ma ha  tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, như tự sở  giác vì các hữu tình như thật tuyên nói khiến lìa chấp trước, giải thoát  tất cả sanh lão bịnh tử, được vào Niết Bàn an vui rốt ráo.
