Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
Bấy  giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng: Như tôi hiểu nghĩa Nhân giả  đã nói ngã cho đến kiến giả rốt ráo chẳng sanh. Sắc cho đến thức rốt ráo  chẳng sanh. Như vậy cho đến pháp chư Phật và chư Phật rốt ráo chẳng  sanh. Tất cả pháp hữu tình và tất cả hữu tình rốt ráo chẳng sanh. Nếu  như thế ấy, sáu thú thọ sanh lẽ không sai khác: Dự lưu chẳng nên được  quả Dự lưu. Nhất lai chẳng nên được quả Nhất lai. Bất hoàn chẳng nên  được quả Bất hoàn. A la hán chẳng nên được quả A la hán. Độc giác chẳng  nên được Độc giác Bồ đề. Bồ tát chẳng nên được Nhất thiết tướng trí. Bồ  tát Ma ha tát chẳng nên thấy sáu thú sanh tử rất sanh nhàm chán, vì cứu  vớt kia nên được năm thứ Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả  pháp rốt ráo chẳng sanh thì sao Dự lưu vì quả Dự lưu siêng tu đạo dứt  hẳn ba kiết. Thì sao Nhất lai vì quả Nhất lai siêng tu đạo dứt bội tham  sân si. Thì sao Bất hoàn vì quả Bất hoàn siêng tu đạo dứt hẳn thuận hạ  kiết. Thì sao A la hán vì quả A la hán siêng tu đạo dứt hẳn thuận thượng  kiết. Thì sao Độc giác vì Độc giác Bồ đề siêng tu đạo ngộ riêng pháp  duyên khởi. Thì sao Bồ tát Ma ha tát vì độ vô lượng vô biên hữu tình tu  nhiều trăm ngàn khổ khó hành, chịu đủ vô lượng trọng khổ khó nhẫn. Thì  sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.  Thì sao chư Phật vì độ khổ vô lượng hữu tình nên quay xe diệu pháp?
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp Xá Lợi Tử rằng: Chẳng phải tôi đối trong  pháp vô sanh kia thấy có sáu thú thọ sanh sai khác. Chẳng phải tôi đối  trong pháp vô sanh kia thấy có kẻ năng vào đế hiện quán. Chẳng phải tôi  đối trong pháp vô sanh kia thấy có Dự lưu được quả Dự lưu, thấy có Nhất  lai được quả Nhất lai, thấy có Bất hoàn được quả Bất hoàn, thấy có A la  hán được quả A la hán, thấy có Độc giác được Độc giác Bồ đề, thấy có Bồ  tát được Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải tôi đối trong pháp vô sanh kia  thấy có Bồ tát Ma ha tát nhàm chán sanh tử, được năm Bồ đề. Chẳng phải  tôi đối trong pháp vô sanh kia thấy có Thanh văn tu đạo đoạn kiết, thấy  có Độc giác siêng tu đạo riêng ngộ pháp duyên khởi. Chẳng phải tôi đối  trong pháp vô sanh kia thấy có Bồ tát Ma ha tát vì độ hữu tình tu nhiều  khổ hạnh chịu các trọng khổ, nhưng các Bồ tát Ma ha tát chẳng khởi tưởng  khổ hạnh khó hành. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Nếu kẻ khởi tưởng khổ hạnh khó  hành, trọn chẳng năng vì vô lượng vô số vô biên hữu tình làm đại nhiêu  ích.
Xá Lợi Tử! Tất cả Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện,  đối các hữu tình khởi tâm đại bi, trụ tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con  và thân mình, vì độ thoát kia phát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Giác  mới năng vì kia làm đại nhiêu ích.
Xá Lợi Tử! Tất cả Bồ tát nên  khởi nghĩ này: Như tự tánh ta đối tất cả pháp đem tất cả chủng, tất cả  xứ, tất cả thời, tìm chẳng khá được. Các pháp nội ngoại cũng lại như  thế, đều vô sở hữu, đều bất khả đắc. Nếu trụ tưởng đây bèn chẳng thấy có  khổ hạnh khó hành. Do đấy năng vì vô lượng vô số vô biên hữu tình tu  nhiều trăm ngàn khổ hạnh khó hành, làm đại nhiêu ích. Vì cớ sao? Bồ tát  Ma ha tát đối tất cả pháp, tất cả hữu tình, tất cả chủng, tất cả xứ, tất  cả thời không chấp nhận vậy.
Xá Lợi Tử! Chẳng phải tôi đối trong  pháp vô sanh kia thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Vì cớ sao?  Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình bất khả đắc vậy.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nơi ý muốn sao? Vì muốn đem pháp sanh  có được sở chứng, hay muốn đem pháp vô sanh có được sở chứng ư? Thiện  Hiện đáp rằng: Tôi chẳng muốn đem pháp sanh có được sở chứng, cũng chẳng  muốn đem pháp vô sanh có được sở chứng.
Xá Lợi Tử nói: Nếu như  thế ấy đâu đều không đắc, không hiện quán ư? Thiện Hiện đáp rằng: Tuy có  đắc, có hiện quán mà thật chẳng do hai pháp chứng đắc. Xá Lợi Tử! Chỉ  theo lời nói thế gian thi thiết có đắc hiện quán, chẳng phải trong thắng  nghĩa có đắc hiện quán. Xá Lợi Tử! Chỉ theo lời nói thế gian thi thiết  có Dự lưu, có quả Dự lưu, có Nhất lai có quả Nhất lai, có Bất hoàn có  quả Bất hoàn, có A la hán có quả A la hán, có Độc giác có Độc giác Bồ  đề, có Bồ tát Ma ha tát có hạnh Bồ tát Ma ha tát, có chư Phật có chư  Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự lưu  thảy.
Xá Lợi Tử nói: Nếu theo lời nói thế gian thi thiết có đắc  hiện quán và Dự lưu thảy chẳng thắng nghĩa ấy, sáu thú sai khác cũng  theo lời nói thế gian chẳng thắng nghĩa ư? Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy,  như vậy. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Chẳng phải trong thắng nghĩa có nghiệp  dị thục và nhiễm tịnh vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:  Nơi ý muốn sao? Vì muốn khiến pháp chưa sanh sanh, hay muốn khiến pháp  đã sanh sanh ư? Thiện Hiện đáp rằng: Tôi chẳng muốn khiến pháp chưa sanh  sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp đã sanh sanh.
Xá Lợi Tử nói:  Những gì là pháp chưa sanh, Nhân giả chẳng muốn khiến pháp kia sanh?  Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn  khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp  chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.  Cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề là pháp chưa sanh, tôi chẳng  muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Xá Lợi Tử hỏi:  Những gì là pháp đã sanh, Nhân giả chẳng muốn khiến pháp kia sanh?  Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn  khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp  đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.  Cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề là pháp đã sanh, tôi chẳng  muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Khi ấy, Xá Lợi  Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nơi ý muốn sao? Vì muốn khiến sanh sanh, hay  muốn khiến chẳng sanh sanh ư? Thiện Hiện đáp rằng: Tôi chẳng muốn khiến  sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến sanh sanh. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Sanh  cùng chẳng sanh hai pháp như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng  tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do  nhân duyên đây tôi chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến  chẳng sanh sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện : Nhân giả  đối pháp vô sanh đã nói vui biện nói tướng vô sanh ư? Thiện Hiện đáp  rằng: Xá Lợi Tử! Tôi đối pháp vô sanh đã nói, cũng chẳng vui biện nói  tướng vô sanh. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Hoặc pháp vô sanh, hoặc tướng vô  sanh, hoặc vui, hoặc biện nói, tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng  phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, gọi vô tướng  vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Đối pháp chẳng sanh  khởi lời khởi lời chẳng sanh, lời chẳng sanh đây cũng chẳng sanh ư?  Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như đã nói, đối pháp chẳng  sanh khởi lời chẳng sanh. Pháp và lời đây đều nghĩa vô sanh. Sở dĩ vì  sao?
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng sanh, thọ tưởng hành thức cũng chẳng  sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy. Nhãn xứ chẳng sanh, nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy. Sắc xứ chẳng  sanh, thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh  không vậy.
Nhãn giới chẳng sanh, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng  chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy. Sắc giới chẳng sanh, thanh  hương vị xúc pháp giới cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy.  Nhãn thức giới chẳng sanh, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng  sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy. Nhãn xúc chẳng sanh, nhĩ tỷ thiệt  thân ý xúc cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy. Nhãn xúc làm  duyên sanh ra các thọ chẳng sanh, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh  ra các thọ cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy.
Địa giới chẳng sanh, thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy.
Thân hành chẳng sanh; ngữ hành, ý hành cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy.
Bố thí Ba la mật đa chẳng sanh, cho đến nhất thiết tướng trí cũng chẳng sanh. Vì cớ sao? Bản tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, đối pháp chẳng sanh khởi lời chẳng sanh, pháp và lời đây đều nghĩa vô sanh.
Xá Lợi Tử! Hoặc pháp sở thuyết, hoặc kẻ năng thuyết lời, hoặc kẻ nghe đều nghĩa vô sanh.
Bấy  giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Trong người thuyết pháp  Ngài là đệ nhất. Trừ Phật Thế Tôn không ai kịp được. Vì cớ sao? Theo lời  gạn hỏi nhiều pháp môn đều năng trả đáp không chút trệ ngại vậy. Thiện  Hiện trả lời: Đệ tử chư Phật, đối tất cả pháp không chỗ nương dính, lẽ  pháp đều năng theo lời gạn hỏi mỗi mỗi trả đáp tự tại không sợ. Vì cớ  sao? Vì tất cả pháp không chỗ nương vậy.
Xá Lợi Tử nói: Các pháp  nào là đều không chỗ nương? Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.  Thọ tưởng hành thức bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng  nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Nhãn xứ bản tánh  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.  Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng  nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Sắc xứ bản tánh  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.  Thanh hương vị xúc pháp xứ bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong,  chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới bản  tánh không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa  hai. Nhĩ tỷ thiệt thân ý giới bản tánh cũng không, nên chẳng nương  trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Sắc  giới bản tánh không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng  nương giữa hai. Thanh hương vị xúc pháp giới bản tánh cũng không, nên  chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá  Lợi Tử! Nhãn thức giới bản tánh không, nên chẳng nương trong, chẳng  nương ngoài, chẳng nương giữa hai. Nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới bản  tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương  giữa hai.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc bản tánh không, nên chẳng nương  trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc  bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng  nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm duyện sanh ra các thọ bản  tánh không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa  hai. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyện sanh ra các thọ bản tánh cũng  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá  Lợi Tử! Bố thí Ba la mật đa bản tánh không, nên chẳng nương trong,  chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai. Cho đến bát nhã Ba la mật đa  bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng  nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Nột không bản tánh không, nên chẳng  nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai. Cho đến vô tánh tự  tánh không bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng nương  ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ bản tánh  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.  Cho đến tám thánh đạo chi bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong,  chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Cho đến Phật  mười lực bản tánh không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng  nương giữa hai. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bản tánh cũng  không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai.
Xá  Lợi Tử! Cho đến nhất thiết trí bản tánh không, nên chẳng nương trong,  chẳng nương ngoài, chẳng nương giữa hai. Đạo tướng trí, nhất thiết tướng  trí bản tánh cũng không, nên chẳng nương trong, chẳng nương ngoài,  chẳng nương giữa hai.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây tôi nói các pháp bản tánh không, nên đều không chỗ nương.
Lại  nữa, Xá Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu thứ Ba la mật đa  nên tịnh sắc cho đến thức. Nên tịnh nhãn xứ cho đến ý xứ. Nên tịnh sắc  xứ cho đến pháp xứ. Nên tịnh nhãn giới cho đến ý giới. Nên tịnh sắc giới  cho đến pháp giới. Nên tịnh nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nên  tịnh nhãn xúc cho đến ý xúc. Nên tịnh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ  cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Nên tịnh bố thí Ba la mật đa  cho đến bát nhã Ba la mật đa. Nên tịnh nội không cho đến vô tánh tự tánh  không. Nên tịnh bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Như vậy, cho  đến nên tịnh Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cho đến  nên tịnh nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Nên tịnh  Bồ đề đạo.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Sao là  Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu thứ Ba la mật đa tịnh Bồ đề đạo? Thiện  Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sáu Ba la mật đa mỗi có hai thứ: một là thế  gian, hai là xuất thế gian.
Xá Lợi Tử hỏi: Sao là bố thí Ba la mật đa thế gian? Sao là bố thí Ba la mật đa xuất thế gian?
Thiện  Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát làm đại thí chủ, năng  thí tất cả Sa môn, Bà la môn, kẻ nghèo, bệnh, côi quả, đi đường, ăn xin,  cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần áo cho áo, cần  hương hoa cho hương hoa, cần đồ trang nghiêm cho đồ trang nghiêm, cần  nhà cửa cho nhà cửa, cần thuốc chữa cho thuốc chữa, cần đèn sáng cho đèn  sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm. Tất cả như thế tùy kia cần dùng,  các đồ giúp sống thảy đều thí cho. Nếu lại có đến xin nam cho nam, xin  nữ cho nữ, xin vợ hầu cho vợ hầu; xin quan phẩm cho quan phẩm, xin nước  thành cho nước thành, xin ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu mắt cho đầu  mắt, xin tai mũi cho tai mũi, xin tay chân cho tay chân, xin lóng đốt  cho lóng đốt, xin máu thịt cho máu thịt, xin xương tủy cho xương tủy,  xin tôi tớ cho tôi tớ, xin sanh loại cho sanh loại. Tất cả như thế tùy  kia cần xin vật nội ngoại thảy đều thí cho. Tuy làm thí này mà có chỗ  nương là khởi nghĩ đây: Ta thí kia nhận, ta làm thí chủ, ta chẳng tham  lam, ta theo lời Phật dạy năng xả tất cả, ta hành bố thí Ba la mật đa.  Kia khi hành thí đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình  bình đẳng chung có hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại khởi nghĩ  này: Ta đem phước đây thí các hữu tình, khiến được an vui đời này đời  sau cho đến chứng được Vô dư Niết bàn. Kia chấp ba luân mà hành bố thí.  Những gì là ba? Chỗ gọi tưởng mình, tưởng người, tưởng thí. Bởi chấp ba  luân đây mà hành thí, nên gọi thế gian bố thí Ba la mật đa. Duyên nào  thí đây gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng chung hành vậy, chẳng  động chẳng ra khỏi pháp thế gian vậy. Do đây nên nói thế gian bố thí Ba  la mật đa.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành bố thí ba  luân thanh tịnh. Những gì là ba? Một là chẳng chấp ta là kẻ thí, hai là  chẳng chấp kia là kẻ nhận, ba là chẳng đắm thí và quả thí. Bồ tát Ma ha  tát này khi hành bố thí ba luân thanh tịnh. Lại Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma  ha tát đem đại bi làm thượng thủ, sở tu thí phước khắp thí hữu tình.  Đối các hữu tình đều vô sở đắc. Tuy cùng hữu tình bình đẳng chung có,  hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà với trong ấy chẳng thấy chút  tướng, bởi đều vô sở chấp mà hành thí, nên gọi xuất thế bố thí Ba la mật  đa. Duyên nào thí đây gọi xuất thế gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng  chung hành vậy, năng động năng vượt khỏi pháp thế gian vậy. Do đây nên  nói xuất thế bố thí Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử nói: Sao là thế gian  tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa? Sao là  xuất thế gian tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật  đa? Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành  tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã có chỗ nương ấy, đắm ba  luân, nên gọi thế gian Ba la mật đa. Vì cùng thế gian đồng chung hành  vậy, chẳng động chẳng vượt khỏi pháp thế gian vậy. Nếu Bồ tát Ma ha tát  khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã không chỗ  nương ấy, ba luân tịnh, nên gọi xuất thế gian Ba la mật đa. Vì chẳng  cùng thế gian đồng chung hành vậy, năng động năng vượt khỏi pháp thế  gian vậy.
Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu thứ Ba la mật đa như thế tịnh Bồ đề đạo.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Sao gọi đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát?
Thiện  Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật  đa là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo  chi là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát. Không giải thoát môn, vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát. Nội không cho đến  vô tánh tự tánh không là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát. Chơn như, pháp  giới, thật tế, bất tư nghì giới thảy là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát. Tất  cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát.  Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ đề Bồ tát Ma  ha tát.
Xá Lợi Tử! Nhóm đại công đức vô lượng vô biên như thế thảy đều là đạo Bồ đề Bồ tát Ma ha tát.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Hay thay, hay thay. Thật như đã  nói. Thiện Hiện! Nhóm đại công đức như thế, vì do thế lực nhũng Ba la  mật đa nào làm được?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Nhóm đại  công đức đã nói như thế đều do thế lực Bát nhã Ba la mật đa làm nên. Vì  cớ sao? Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa như thế năng làm mẹ cho tất cả  thiện pháp. Tất cả thiện pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, chư Phật từ  đây sanh vậy.
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa như thế khắp năng  nhiếp nhận tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ  tát, chư Phật nương đây trụ vậy.
Xá Lợi Tử! Chúng Bồ tát Ma ha  tát qua khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đa cực viên mãn, nên đã chứng Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chúng Bồ tát Ma ha tát vị lai tu hành Bát nhã  Ba la mật đa cực viên mãn, nên sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.  Chúng Bồ tát Ma ha tát hiện tại mười phương vô lượng thế giới chư Phật  tu hành Bát nhã Ba la mật đa cực viên mãn hiện chứng Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe thuyết  Bát nhã Ba la mật đa tâm không nghi lầm, cũng không mê muội. Phải biết  Bồ tát Ma ha tát này trụ trụ như thế hằng chẳng bỏ lìa, nghĩa là vô sở  đắc mà làm phương tiện, thường siêng cứu vớt tất cả hữu tình. Phải biết  Bồ tát Ma ha tát này trọn nên tác ý thù thắng như thế, nghĩa là tác ý  tương ưng đại bi.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng: Nếu Bồ  tát Ma ha tát trụ trụ như thế, hằng chẳng bỏ lìa, trọn nên tác ý tương  ưng đại bi ấy, thời tất cả hữu tình lẽ cũng thành Bồ tát Ma ha tát trọn.  Sở dĩ vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng trụ nơi đây và tác ý này thường  chẳng bỏ lìa, thời các Bồ tát Ma ha tát cùng tất cả hữu tình lẽ không  sai khác?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp Xá Lợi Tử rằng: Hay  thay, hay thay. Thật như đã nói. Năng như thật biết ý tôi muốn nói. Tuy  như nạn tôi mà thành lập nghĩa tôi. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Hữu tình phi  hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Hữu tình vô thật,  nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Hữu tình vô tánh, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Hữu tình không, nên phải  biết trụ và tác ý như thế cũng không. Hữu tình xa lìa, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng xa lìa. Hữu tình vắng lặng, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng vắng lặng. Hữu tình vô giác tri, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Sắc cho đến thức phi  hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Sắc cho đến thức  vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Sắc cho đến  thức vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Sắc cho  đến thức không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Sắc cho  đến thức xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Sắc cho  đến thức vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng.  Sắc cho đến thức vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô  giác tri.
Xá Lợi Tử! Nhãn xứ cho đến ý xứ phi hữu, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô thật, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô  tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Nhãn xứ cho đến ý  xứ không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Nhãn xứ cho  đến ý xứ xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Nhãn xứ  cho đến ý xứ vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng  lặng. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Sắc xứ cho đến pháp xứ phi hữu,  nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Sắc xứ cho đến pháp xứ  vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Sắc xứ cho đến  pháp xứ vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Sắc  xứ cho đến pháp xứ không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không.  Sắc xứ cho đến pháp xứ xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  xa lìa. Sắc xứ cho đến pháp xứ vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng vắng lặng. Sắc xứ cho đến pháp xứ vô giác tri, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới cho  đến ý giới phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu.  Nhãn giới cho đến ý giới vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế  cũng vô thật. Nhãn giới cho đến ý giới vô tánh, nên phải biết trụ và tác  ý như thế cũng vô tánh. Nhãn giới cho đến ý giới không, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng không. Nhãn giới cho đến ý giới xa lìa, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Nhãn giới cho đến ý giới  vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Nhãn giới  cho đến ý giới vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô  giác tri.
Xá Lợi Tử! Sắc giới cho đến pháp giới phi hữu, nên phải  biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Sắc giới cho đến pháp giới vô  thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Sắc giới cho đến  pháp giới vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Sắc  giới cho đến pháp giới không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  không. Sắc giới cho đến pháp giới xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng xa lìa. Sắc giới cho đến pháp giới vắng lặng, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Sắc giới cho đến pháp giới vô giác  tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi  Tử! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới phi hữu, nên phải biết trụ và tác  ý như thế cũng phi hữu. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô thật, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Nhãn thức giới cho đến ý  thức giới vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Nhãn  thức giới cho đến ý thức giới không, nên phải biết trụ và tác ý như thế  cũng không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới xa lìa, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới  vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Nhãn thức  giới cho đến ý thức giới vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế  cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc phi hữu, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô  thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Nhãn xúc cho đến ý  xúc vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Nhãn xúc  cho đến ý xúc không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Nhãn  xúc cho đến ý xúc xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa  lìa. Nhãn xúc cho đến ý xúc vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng vắng lặng. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô giác tri, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm  duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ phi hữu,  nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Nhãn xúc làm duyên sanh  ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô thật, nên phải  biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các  thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô tánh, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng vô tánh. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho  đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm  duyên sanh ra các thọ xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  xa lìa. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh  ra các thọ vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng.  Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các  thọ vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá  Lợi Tử! Địa giới cho đến thức giới phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng phi hữu. Địa giới cho đến thức giới vô thật, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Địa giới cho đến thức giới vô tánh,  nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Địa giới cho đến thức  giới không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Địa giới cho  đến thức giới xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa.  Địa giới cho đến thức giới vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế  cũng vắng lặng. Địa giới cho đến thức giới vô giác tri, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la  mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng phi hữu. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa  vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Bố thí Ba la  mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng vô tánh. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa  không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Bố thí Ba la mật  đa cho đến bát nhã Ba la mật đa xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng xa lìa. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa vắng  lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Bố thí Ba la  mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa vô giác tri, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Nội không cho đến vô  tánh tự tánh không phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi  hữu. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không vô thật, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng vô thật. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không  vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Nội không cho  đến vô tánh tự tánh không không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không xa lìa, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Nội không cho đến vô tánh tự tánh  không vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Nội  không cho đến vô tánh tự tánh không vô giác tri, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ cho đến  tám thánh đạo chi phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi  hữu. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô thật, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng vô thật. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô  tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Bốn niệm trụ cho  đến tám thánh đạo chi không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  không. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi xa lìa, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng xa lìa. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi  vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Bốn niệm  trụ cho đến tám thánh đạo chi vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến Phật mười  lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng phi hữu, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng phi hữu. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Phật  mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tánh, nên phải biết trụ  và tác ý như thế cũng vô tánh. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật  bất cộng không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng không. Phật mười  lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xa lìa, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng xa lìa. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng lặng. Phật  mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô giác tri, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Tất cả tam ma  địa môn, tất cả đà la ni môn phi hữu, nên phải biết trụ và tác ý như thế  cũng phi hữu. Tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn vô thật, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô thật. Tất cả tam ma địa môn, tất  cả đà la ni môn vô tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô  tánh. Tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn không, nên phải biết  trụ và tác ý như thế cũng không. Tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni  môn xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa.
Tất  cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn vắng lặng, nên phải biết trụ và  tác ý như thế cũng vắng lặng. Tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn  vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá  Lợi Tử! Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí phi hữu,  nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Nhất thiết trí, đạo  tướng trí, nhất thiết tướng trí vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như  thế cũng vô thật. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô  tánh, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Nhất thiết trí,  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng không. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí  xa lìa, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Nhất thiết trí,  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý  như thế cũng vắng lặng. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng  trí vô giác tri, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá  Lợi Tử! Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề phi hữu, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng phi hữu. Thanh văn Bồ đề, Độc giác  Bồ đề, Vô thượng Bồ đề vô thật, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  vô thật. Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề vô tánh, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô tánh. Thanh văn Bồ đề, Độc giác  Bồ đề, Vô thượng Bồ đề không, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng  không. Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề xa lìa, nên phải  biết trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề,  Vô thượng Bồ đề vắng lặng, nên phải biết trụ và tác ý như thế cũng vắng  lặng. Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề vô giác tri, nên  phải biết trụ và tác ý như thế cũng vô giác tri.
Xá Lợi Tử! Bởi  nhân duyên đây, các Bồ tát Ma ha tát với trụ như thế và tác ý này thường  chẳng bỏ lìa, cùng các hữu tình cũng không sai khác, vì tất cả pháp  không sai khác vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện rằng: Hay  thay, hay thay! Ngươi khéo giỏi vì các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát  nhã Ba la mật đa. Đây đều sức oai thần Như Lai. Nếu có kẻ muốn vì các Bồ  tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa đều nên như ngươi đã tuyên  nói. Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn học Bát nhã Ba la mật đa cũng đều nên  theo ngươi đã thuyết mà học. Nếu Bồ tát Ma ha tát theo ngươi đã thuyết  mà học Bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát này mau chứng Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng.
Khi cụ thọ  Thiện Hiện vì các chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu như thế, ở thế giới Tam thiên đại thiên đây sáu thứ biến động  là: Động rất động, đẳng rất động; vọt rất vọt, đẳng rất vọt; rung rất  rung, đẳng rất rung; kích rất kích, đẳng rất kích; rống rất rống, đẳng  rất rống; bạo rất bạo, đẳng rất bạo. Lại thế giới Tam thiên Đại thiên  đây: Đông vọt Tây lặn, Tây vọt Đông lặn, Nam vọt Bắc lặn, Bắc vọt Nam  lặn, giữa vọt bìa lặn, bìa vọt giữa lặn.
Bây giờ, Thế Tôn liền  bèn mỉm cười. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Nhân gì duyên gì hiệm  mỉm cười đây? Phật bảo: Thiện Hiện! Như Ta nay đây ở thế giới Tam thiên  đại thiên này vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật  đa, nay ở phương Đông vô lượng vô số vô biên thế giới đều có Như Lai Ứng  Chánh Đẳng Giác cũng vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba  la mật đa. Phương Nam Tây Bắc bốn phía trên dưới vô lượng vô số vô biên  thế giới cũng đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng các Bồ tát Ma  ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa. Như Ta nay đây ở thế giới Tam  thiên đại thiên này tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa, nên có mười hai vạn  ức trời, người, a tố lạc thảy được vô sanh pháp nhẫn. Nay ở mười phương  vô lượng vô số vô biên thế giới cũng đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác  tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa, nên cũng đều vô lượng vô số vô biên hữu  tình đều phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Giác được vui đại lợi.
