Kính lễ đức Quán Thế Âm !
Đây là những giáo huấn thực hành sâu xa của Quán Thế Âm. Vào lúc kết thúc ba mươi chương về những giáo huấn về sự hợp nhất của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện tôi muốn tổng hợp nghĩa của những giáo huấn này. Orgyen Rinpoche nói, “Tổng hợp của nghĩa là để đem lại sự thích thú ý vị với những giáo lý.” Cách để tổng hợp nghĩa được Orgyen Rinpoche gợi ý với lời tiên tri, “Sự hiện thân lưu xuất về ngữ của tôi với tên là Dipamïkara sẽ là một Bồ tát, người ấy sẽ tịnh hóa xứ Tây Tạng.” Đúng theo sự tiên tri ấy, bậc đáng tôn kính, Atisha vinh quang, ngài như viên ngọc vương miện giữa năm trăm pháp sư ở Ấn Độ, đã đến Tây Tạng.
Vào thời đó, đại dịch giả Rinchen Zangpo, ngài là một hiện thân lưu xuất của Văn Thù, đã học và tu dưới hơn hai mươi pháp sư ; và ngài giống như nguồn tuyết của mọi dòng suối Pháp của Trường Phái Tân Dịch Thuật. Ngài nghĩ, “Ngày nay không có ai có những phẩm tính vĩ đại hơn tôi, và tôi không có gì để hỏi Pháp Sư (Atisha). Tuy nhiên, do một điềm lành trong một giấc mộng, tôi sẽ đến đảnh lễ ngài.” Trong một giấc mộng đêm ấy một người màu trắng xuất hiện và nói với ngài, “Ngài rất hãnh diện về sự phục vụ chúng sanh của ngài. Ngài vẫn còn nhiều câu hỏi để hỏi. Dù ngài có hỗn hợp tất cả dịch giả và pháp sư làm một người, thì người ấy cũng không có đủ tất cả những phẩm tính của pháp sư kia. Tây Tạng đã chưa nhận tất cả những giáo huấn truyền miệng.” Rồi người đó biến mất.
Rinchen Zangpo bèn làm một cuộc hành trình dài để gặp Atisha và mời ngài đến chỗ của mình, mời ngài ngồi trên một chỗ ngồi cao bằng mình. Trong phòng thờ ở tầng trệt có những bổn tôn của thừa chung (Tiểu thừa), trong phòng ở tầng nhì là những vị của Đại thừa, và trên tầng ba là những hình tượng những bổn tôn của Mật thừa. Atisha làm những bài kệ tán thán tất cả các vị. Lần đầu tiên biết được đức tin trong những lời, những kệ của Atisha, dịch giả cất bỏ ba lớp của chỗ ngồi đến không còn tấm đệm nào. Dịch giả hỏi ngài nhiều câu hỏi, và lần đầu được nghe nhiều điều mới lạ, ông bị chấn động bởi hiểu biết của Atisha, và sự kiêu hãnh của ông sụp đổ. Với mọi câu hỏi của Atisha, ông chỉ trả lời điều ông biết.
Atisha cũng hài lòng với dịch giả, và ngài bình phẩm, “Với người như ngài ở Tây Tạng, không cần ai phải mời tôi đến Tây Tạng.” Rồi ngài hỏi, “Thưa dịch giả, nếu ngài hỗn hợp tất cả những giáo lý này trong một thời thiền định và thực hành chúng, ngài làm như thế nào ?” Dịch giả trả lời, “Tôi không hỗn hợp các thừa. Hơn nữa, tôi giữ mỗi cái riêng biệt với nhau, không trộn lẫn chúng, tôi thực hành mỗi cái riêng biệt.” Đức Atisha bấy giờ nhận xét, “Điều này chỉ ra rằng ngài dịch giả đã lầm. Cuối cùng tôi cần phải có mặt ở Tây Tạng !”
Đêm ấy dịch giả thiền định trong ba thời, quán tưởng ba thừa theo thứ tự trong ba chỗ của thân thể của ông. Pháp Sư biết điều ông đang làm và nói với ông, “Thưa dịch giả, thế chưa tốt. Ngài sẽ không có kết quả đâu !” Rinchen Zangpo hỏi ngài, “Vậy thì ngài làm thế nào ?”
“Bất cứ điều gì tôi nói, bất cứ nơi nào tôi ở, bất cứ ai tôi cùng đi, bất cứ điều gì tôi làm, tôi lấy giới luật làm nền tảng. Bởi vì tất cả chúng sanh đã là mẹ của tôi, tôi phải thiền định về họ như vậy. Tôi tu hành cái thấy thanh tịnh nhìn họ là mẹ của tôi. Những bổn tôn vốn vô sanh, tôi thiền định về các vị như vậy. Nếu ngài không biết làm sao hỗn hợp những cái này, ngài sẽ không có được cái tinh túy.”
Đức Atisha cũng nói :
Bậc Thầy của chúng ta đã dạy rõ ràng
Rằng giới luật là căn bản của mọi phẩm tính tuyệt hảo.
Bồ đề tâm, nối kết với đại bi,
Được tán thán vượt trên tất cả.
Giác ngộ thì chắc chắn với sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và thành tựu,
Chúng không bị ràng buộc bởi những dấu hiệu của những tư tưởng thiện.
Đây là những công việc của những cá nhân khả năng nhỏ, lớn cũng như vừa :
Hãy nhấn mạnh (sự thiền định về) vô thường, cúng dường, và thỉnh cầu (chuyển pháp luân).
Nếu ngài bỏ chấp ngã, ngài đang theo lời dạy của bậc Điều Ngự.
Những luận bàn rộng rãi về điều này dành cho người học.
Chân chính là những cá nhân tổng hợp tinh túy
Và thực hành nó.
Cao cả là những người cẩn trọng này
Họ không coi thường những hành động và những hậu quả của chúng.
Biết mọi thứ, nhưng bám chấp vào một thứ là một khuyết điểm của những học giả.
Không dấn thân vào thực hành là một lỗi lầm.
Không lấy (tốt) và bỏ (xấu),
Hãy thực hiện một mặt tiền trống không của sự cao cả.
Hãy sống với trí huệ, Rinchen Zangpo !
Đây là sự khuyến tấn của bậc Đại Bi.
Sự tin chắc sanh khởi trong tâm của dịch giả Rin-chen Zangpo, và ngài phát một lời nguyện dành cuộc đời còn lại để ẩn tu thiền định. Như một kết quả của thực hành, ngài đi đến Khasarpana mà không để lại thân xác. Đức Atisha cũng ban cho những giáo huấn thực hành về bốn loại tantra trên chỉ một đệm thiền và ngài viết những bản luận bằng tiếng Ấn về sự thực hành năm nhánh. Do đó, Phagmo Drušpa vinh quang có 5.800 đệ tử lỗi lạc, tất cả đều được giải thoát chỉ nhờ thực hành năm nhánh. Bậc Bảo Vệ Jigten Sumgošn nói :
Đại Ấn giống như một con sư tử,
Nhưng không có thực hành năm nhánh nó như một người mù.
– Những thực hành năm nhánh là (1) trau dồi Bồ đề tâm, (2) thiền định về thân của chính bạn là thân của một bổn tôn, (3) thiền định về người hướng dẫn tâm linh của bạn là bổn tôn, (4) trau dồi cái thấy về vô niệm, và (5) niêm dấu sự thực hành của bạn với những cầu nguyện hồi hướng. Thực hành bốn loại tantra trên chỉ một đệm thiền có nghĩa là làm điều đó chỉ trong một thời khóa thiền định. –
Có kể lại rằng do huấn luyện những đệ tử bằng thực hành năm nhánh, 180.000 người đã đạt tri giác siêu giác quan và những khả năng siêu thường. Về thực hành ấy, có nói rằng :
Hãy trau dồi Bồ đề tâm và bổn tôn đã chọn,
Hãy thiền định về thầy và Đại Ấn
Và hãy thực hành Pháp hồi hướng.
Không có loại thực hành nào của Kinh thừa hay Mật thừa theo Trường Phái Tân Dịch Thuật mà không gồm trong năm chủ đề này.
Truyền thống của những giáo huấn này thêm vào đó Nhảy Qua của Đại Toàn Thiện, bởi thế làm đầy đủ những thực hành của chín thừa. Bạn nên thực hành chúng chỉ trên một nệm thiền, hay chỉ trong một thời thiền duy nhất. Tôi sẽ cho một tổng lược khúc chiết nghĩa của chúng như được dạy trong Phác Họa Đại Ấn của Đức Phagmo Drušpa và Ba Pháp của Jigten Sumgošn.
Nếu bạn không thiền định về một bổn tôn, sẽ có những chướng ngại. Lầm lẫn nhân dạng đích thực của bạn, dù bạn có thực hành trọn đời, sự thực hành của bạn thiếu sự biết ơn, và nó sẽ đi lạc. Không có một bổn tôn đã chọn, bạn vẫn là một người bình thường ; và không thiền định về một bổn tôn, bạn sẽ không đạt được thức tỉnh tâm linh dù thực hành cái gì. Truyền thống Kinh đòi hỏi ba vô số kiếp để đạt thức tỉnh tâm linh. Do thiền định về một bổn tôn, những quỷ cái là những tư tưởng xấu có do chấp ngã, sẽ được làm bình lặng, mọi con người mạnh mẽ đều nằm dưới ảnh hưởng của bạn, những xuất hiện hình tướng được chế ngự, và trí huệ bổn nguyên của sự phân biệt sanh khởi, những đam mê được thăng hoa, bạn hấp dẫn những người theo, và bạn không lầm lẫn về nhân dạng của chính bạn.
– Những năm trước Dalai Lama khuyên tôi thực hành Vajra-kalya như bổn tôn, bình luận rằng ngài cũng theo thực hành đó, và ngài đã cho tôi một số viên thuốc được ban phước phù hợp với bổn tôn đã chọn này. Tôi đã theo lời khuyên của ngài. Thời gian sau khi ở Nepal, tôi gặp Đức Ngài Dudjom Rinpoche, và ngài cũng ban cho tôi những giáo huấn y hệt. Tôi trả lời rằng Dalai Lama đã gợi ý điều này trước kia và tôi đã làm theo, Dudjom Rinpoche nói rằng tôi đã làm cái cần thiết.
Thiền định về một bổn tôn đã chọn nói chung và về Vajrakalya nói riêng là rất quan trọng. Cần phải chống lại những chướng ngại sanh khởi do thiếu công đức và những chướng ngại của những dấu in của nghiệp quá khứ khi bạn thực hành. Để gạt chúng đi, rất có ích khi thiền định về bổn tôn. Nhưng hãy chắc rằng bạn không tưởng tượng bổn tôn có chất thể như một bức tượng. Hãy nghĩ đến bổn tôn có xuất hiện nhưng không có tự tánh. Hãy thiền định về bổn tôn này như là một biểu lộ thuần túy của trí huệ bổn nguyên. Theo cách này, sự thực hành bổn tôn sẽ là một sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và thành tựu, với sự xuất hiện của bổn tôn là giai đoạn phát sanh và tánh không là giai đoạn thành tựu. Nhưng hãy nhớ rằng không phải sự xuất hiện là một cái và tánh không là cái kia. Chúng là một bản tánh. Cái xuất hiện chính là cái trống không.
Theo truyền thống Kinh, bạn không phát sanh chính mình là bổn tôn, bạn thờ phụng và cúng dường bổn tôn được quán tưởng trước mặt bạn. Thực hành như vậy, cần ba vô số kiếp để đạt đến Phật quả. Do thiền định về bổn tôn, những đam mê, tham muốn, khao khát của bạn được thăng hoa hơn là dẫn bạn thêm nữa vào sanh tử. –
Không có Đại Ấn, không có giải thoát khỏi vòng sanh tử. Do thiền định về Đại Ấn, mê lầm tiêu tan ; loài rồng được làm cho an lặng ; bạn thoát khỏi vòng sanh tử ; trí huệ bổn nguyên của không gian tuyệt đối của những hiện tượng được chứng ngộ ; bạn thành một đạo sư của sanh tử và niết bàn ; Pháp thân và Tự Tánh thân được đạt đến.
Như vậy, những thiền định về giai đoạn phát sanh của bổn tôn đã chọn thuộc thân và giai đoạn thành tựu về nghĩa của tánh không thuộc tâm được người bắt đầu tu thực hành trong những phần đoạn trước và sau của thời thiền. Khi đã quen với việc đó, hãy thiền định chúng hợp nhất, vì đó là thực hành chính dạy trong Kim Cương thừa.
– Người mới tu trước tiên thực hành giai đoạn phát sanh và rồi chuyển qua giai đoạn thành tựu trong phần sau của thời thiền. Bản tánh sâu xa của tâm bạn là bổn tôn, và bản tánh cốt lõi của nó là tánh Không. Là người mới tu, bạn thấy khó giữ được điều này trong tâm cùng một lúc. Sự quán tưởng ban đầu thiếu sót và mờ ảo. Về sau, khi bạn đã duy trì được một quán tưởng mạnh mẽ, hãy nhớ rằng bản tánh cốt lõi của tâm là tánh không, việc này đưa vào giai đoạn thành tựu. Sự phát sanh của bổn tôn phát xuất từ tâm và hoàn toàn tan biến trở lại trong tâm, và bản tánh của tâm đó là trống không. Điểm chánh của thực hành này là tri giác mọi xuất hiện, đặc biệt là những xuất hiện thị giác là thân của bổn tôn, mọi âm thanh là ngữ của bổn tôn và mọi biến cố của tâm thức là tâm của bổn tôn. –
Cách tốt nhất để xua tan những can thiệp và nâng cấp thực hành hai giai đoạn (phát sanh và thành tựu) là guruyoga, thế nên cái này là cốt yếu. Nếu bạn không thiền định về nó, bạn sẽ không chứng ngộ trạng thái tâm của thầy bạn, bạn sẽ không nhận được những ban phước ; không có những chứng ngộ thực nghiệm ; thậm chí những người theo bạn sẽ không có tôn kính hay sùng mộ. Do thiền định về thầy, kiêu hãnh được thăng hoa ; loài deva-putra được làm an lặng ; người ghen ghét được ở dưới ảnh hưởng của bạn ; tánh giác được thấu hiểu và bạn được ban phước ; trí huệ bổn nguyên của bình đẳng sanh khởi ; bạn được mọi người tôn kính, và bạn đạt được trạng thái của thầy bạn.
Trau dồi Bồ đề tâm ban đầu quan trọng cho giác ngộ, vì nó như hạt giống. Trong giai đoạn giữa nó như nước và phân bón, và cuối cùng nó giống như một vụ thu hoạch đầy dẫy. Nếu Bồ đề tâm không được trau dồi, thì dù bạn có để cả cuộc đời hiến mình cho Pháp, bạn cũng chỉ hướng vào những trạng thái của Thanh Văn và Bích Chi Phật ; bạn không đạt đến quả giác ngộ ; bạn không thu hút người ta theo ; và dù có những người theo, họ bị mắc vào những cãi nhau, lộn xộn. Nhờ nuôi dưỡng Bồ đề tâm, giận ghét được thăng hoa ; những nội ma và ngoại ma được làm cho bình lặng ; mọi người thù ghét được đặt dưới ảnh hưởng của bạn ; những nhu cầu của thế giới được đáp ứng ; trí huệ bổn nguyên như tấm gương sanh khởi ; những người theo bạn hòa hợp với nhau ; và bạn hoàn thành kết quả của những hóa thân khác nhau.
Thực hành tâm linh giống như một con ngựa tốt trên đó bạn đặt yên và chỗ đặt chân, và sự hồi hướng giống như hướng dẫn con ngựa bằng dây cương, đi bất kỳ đâu bạn muốn. Thế nên điều này là quan trọng. Không có hồi hướng bạn không đạt được những kết quả bạn muốn. Dù bạn có hấp dẫn một thời gian ngắn người theo, họ cũng rơi vào ảnh hưởng của người khác. Nếu bạn thực hành hồi hướng, ghen ghét đố kỵ được thăng hoa ; loài rồng và quỷ được làm cho bình lặng ; người ghen tỵ được đem đến dưới ảnh hưởng của bạn ; những thiện căn không bị hướng sai đường ; trí huệ bổn nguyên của thành tựu sanh khởi ; và những người theo bạn không rơi vào ảnh hưởng của những người khác.
– Nếu bạn đi vào thực hành tâm linh, bạn có được những nhân để sanh vào cõi thanh tịnh Cực Lạc. Dù nguyên nhân có đó, nhưng không hồi hướng sự thực hành, những cản trở khác có thể can thiệp vào, nên hạt giống đó sẽ không có quả mong muốn. Do hồi hướng công đức của thực hành để sanh về Cực Lạc, nó chắc chắn sẽ thành quả. Điều này giống như đổ một chén nước nhỏ của đức hạnh của bạn vào đại dương, nó không thể tiêu mất trừ phi hết thảy đại dương bốc hơi. Tương tự, bằng cách hồi hướng những thiện căn, bạn bảo vệ chúng, và chúng tăng trưởng cho đến khi giác ngộ thành tựu. Đó giống như tưới nước cho cây giác ngộ. Không có hồi hướng công đức, những thiện căn sẽ không tăng trưởng, và chỉ một sự bùng nổ cơn giận cũng có thể hủy hoại chúng.
Một hồi hướng tổng quát là lời cầu nguyện đơn giản rằng chư Phật quá khứ đã hồi hướng công đức của các ngài như thế nào, con cũng hồi hướng như vậy. Điều này đem lại niềm vui tạm thời lẫn hạnh phúc tối hậu cho tất cả chúng sanh trong sanh tử. –
Nếu bạn không thiền định về “Nhảy Qua” thuộc phần tịnh quang, sự thực hành chín thừa sẽ không đầy đủ ; những giáo huấn về giải thoát qua sự quan sát không nhận được ; bạn vẫn còn lận đận với một cái thấy kèm theo sự nắm bắt của phân tích thuộc trí óc ; và khi những xuất hiện mê vọng của trung ấm sanh khởi, sẽ khó nhận biết chúng. Nếu Nhảy Qua thuộc phần tịnh quang được thường trực quán sát, cái thấy của bạn không còn vướng vào phân tích trí óc ; năm trí huệ bổn nguyên được tri giác trực tiếp ; trong trường hợp tốt nhất, bạn trực tiếp gặp gỡ chúng hội những bổn tôn an bình và hung nộ ; dù bạn không gặp các ngài, khi bạn thấy các ngài trong trung ấm, bạn sẽ nhận ra được và chắc chắn giải thoát ; sự thực hành chín thừa đầy đủ trọn vẹn ; những hồn linh trái đất được làm bình lặng ; những dakini và hộ pháp săn sóc cho bạn như con ; và cuối cùng bạn đạt được thân cầu vồng, nhất là thân đại chuyển di của Pháp thân. Bạn sớm thấy những bindu sáng chói, rực rỡ phi thường của ánh sáng cầu vồng ; và khi bạn thấy chúng, đó là cái nhìn thấy của tri giác trực tiếp về tự thân thực tại.
– Khi bạn còn ở trong sự bám nắm của phân tích trí óc, bạn tiếp tục gán nhãn hiệu và xếp loại những thực hành, “Đây là bổn tôn. Đây là tịnh độ. Đây là sự xuất hiện. Đây là tánh Không.” Theo cách đó bạn tạo lập lớp này đến lớp khác của sự bám nắm ý niệm.
Bạn có thể nghĩ bạn quen thuộc với sanh tử, còn niết bàn thì rất xa, hầu như không thể đạt đến. Thực ra, không phải thế. Không nhận biết bản tánh của niết bàn là không nhận biết bản tánh của chính bạn. Toàn thể thế giới hiện tượng gồm năm nguyên tố : đất, nước, lửa, gió và không gian. Bản tánh thuần túy của chúng là năm phối ngẫu, năm biểu lộ nữ tính của giác ngộ, nối kết chặt chẽ với năm trí bổn nguyên, hay năm bộ Phật. Tất cả chúng sanh đều được hợp tạo bởi năm nguyên tố đó. Quan điểm của Dzogchen là tất cả những nguyên tố đó đều là những thể hiện sáng tạo của tánh giác. Khi thật tánh của năm nguyên tố không được nhận biết, bấy giờ chúng tạo thành sanh tử. Khi chúng ta nhận biết thật tánh của năm nguyên tố, chúng là niết bàn. Những xuất hiện chúng ta đã kinh nghiệm hôm qua không là gì khác hơn tâm. Những kinh nghiệm giấc mộng chúng ta sẽ có đêm nay không là gì khác hơn tâm. Tác nhân làm thiện hạnh và ác hạnh là tâm. Những kinh nghiệm vui và buồn không gì khác hơn là tâm. –
Những lợi lạc của điều đó được dạy trong Tantra Bí Mật của Mặt Trời của Pháp Giới Trong Sáng Chói Ngời của những Dakini :
Tất cả chư Phật của ba đời,
Năm bộ chư Như Lai, ba bộ hộ pháp,
Và những dakini và vira an bình và hung nộ
Được thấy nhờ tri giác trực tiếp.
Những che chướng thuộc nghiệp và những khuynh hướng thói quen tan biến.
Một nhà tham thiền thấy điều này
Không có tên tuổi nữa trong ba cõi sanh tử
Và ba hiện thân được xác lập.
Với con, nếu con thấy nơi chốn giải thoát này chỉ một lần,
Thì tiến trình quá độ của trở thành vừa sanh khởi,
Chắc chắn con sẽ chọn một tái sanh diệu kỳ
Trong một cõi hóa thân tự nhiên.
Như thế, cốt yếu phải dấn thân vào sự thực hành thường trực sáu cái này : Bổn tôn đã chọn, Đại Ấn, vị hướng dẫn tâm linh, Bồ đề tâm, tịnh quang và hồi hướng. Dù bạn ở nơi ẩn cư mười ba năm, sáu năm... hay thậm chí chỉ một tuần, đây là sự thực hành. Về thời khóa biểu đều đặn, hoặc một ngày bốn thời, ba, hai thời, hay chỉ một thời, bạn cần thiền định về điều này.
Thiền định này được thực hiện bằng tư thế ngồi thiền. Hãy xem xét, “Than ôi ! Mọi sự đều có bản chất là vô thường. Hôm nay ta phải thực hành cho được. Ngày mai sẽ tồn tại được gì ?” Hãy trau dồi một động lực tốt đẹp, nghĩ rằng, “Vì lợi lạc cho tất cả chúng sanh ta phải đạt đến thức tỉnh tâm linh hoàn toàn. Để làm được điều đó, ta sẽ thực hành hai giai đoạn phát sanh và thành tựu.” Với động lực đó, quán tưởng rõ ràng thân bạn trong hình tướng của Bậc Đại Bi. Màu sắc của thân là trắng như mặt trăng mùa thu. Mặt bạn bình an và mỉm cười. Bạn trang sức bằng một vương miện quý bằng ngọc và vị hướng dẫn tâm linh của bạn, đức A Di Đà hiện diện trên đỉnh đầu bạn. Bạn có bốn cánh tay, hai bàn tay thứ nhất chắp lại ở trái tim, tay ở thấp hơn bên phải cầm một xâu chuỗi pha lê trắng, tay thấp hơn bên trái cầm một hoa sen tám cánh màu trắng. Bạn mang một khăn choàng, váy nhiều thứ tơ, và tấm da sơn dương đắp qua vai trái. Bạn ngồi trên một dĩa mặt trăng trong trung tâm một hoa sen nhiều màu, hai chân trong thế kim cương. Một chữ Hrih trắng đứng thẳng trong trung tâm một dĩa mặt trăng tròn ở trái tim trong thân bạn. Thân này bên trong trống không và tinh khiết. Trên chu vi của dĩa là sáu chữ sắp theo chiều kim đồng hồ.
Từ những chữ ấy, những tia sáng đủ màu phóng ra mười phương như những tia sáng của một cầu vồng. Tất cả những vị hướng dẫn tâm linh, bổn tôn, chư Phật và Bồ tát trong mười phương trong ba thời vân tập lơ lửng như những bông tuyết trong một cơn bão tuyết. Tất cả những vị thầy hàng đầu và truyền dòng của bạn tan và Đấng của Gia Đình A Di Đà, đó là sự tổng hòa của tất cả các vị thầy. Tất cả bổn tôn, chư Phật và chư Bồ tát tan vào trong bạn như Bậc Đại Bi. Đó là tổng hòa tất cả bổn tôn đã chọn. Những thần chú gốc của các vị, những âm cốt lõi và những âm phụ, tất cả tan vào trong sáu âm ở tim bạn, nhờ đó tổng hòa tất cả thần chú, minh chú và đà la ni. Thiền định về điều này không chỉ một lần mà với sự nhiệt thành lớn lao. Đây là lời khuyên dạy thực hành để thành tựu mọi sự với một vị thầy, một bổn tôn, và một thần chú.
Bấy giờ sáu âm phát ra những tia sáng khi chúng đi vòng, chuyển hóa toàn bộ vũ trụ bên ngoài thành cõi Cực Lạc, và chuyển hóa tất cả chúng sanh trong sáu trạng thái sanh tử thành những sắc tướng của Bậc Đại Bi. Hãy quán tưởng mỗi người bạn thấy là sắc tướng của Bậc Đại Bi. Dù bạn không duy trì điều đó một cách rõ ràng, hãy tưởng tượng rằng họ chính là Bậc Đại Bi. Đó là sự chuyển hóa những xuất hiện hình tướng thành thân thiêng liêng, và nếu điều đó rõ ràng, cũng tốt nếu bạn không hoàn thành sự nhập thất. Về việc thấy người khác và v.v... trong khi ẩn cư, đây là lời khuyên dạy thực hành để không phạm lỗi bỏ dở sự ẩn cư.
Bấy giờ nếu bạn tụng sáu âm với một giọng rất to, điều này không nên, và nó sẽ mất một thời gian dài để hoàn thành ; và nếu những hồn linh xấu ở nơi đó có mặt, chúng có thể làm hại bạn. Nếu giọng của bạn quá yếu, những âm sẽ không rõ, thế nên thần lực của chúng không khởi lên. Hãy tụng chúng rõ ràng và tinh chất với âm thanh ngâm nga của một con ong. Hãy tưởng tượng khi bạn ngâm bài ca của bạn phần riêng mình, tất cả chúng sanh của sáu cõi đều tụng cùng bạn. Hãy tưởng tượng rằng mọi âm thanh của lửa, gió, chuyển động và mọi tiếng khác đều ngân vang sáu âm thần chú. Đó là sự chuyển hóa những âm thanh thành ngữ thiêng liêng. Nếu điều đó rõ ràng, thậm chí một tiếng đơn độc cũng được nhân lên hàng trăm triệu lần. Đây là lời khuyên dạy thực hành để hoàn thành trạng thái của một bậc thánh với một trăm thần chú. Nếu điều đó là rõ ràng, cũng tốt dù nếu bạn không duy trì sự im lặng được. Khi bạn đang nhập thất, cũng là tốt dù nó bị lẫn với nói chuyện, bởi vì tất cả ngữ là thần chú. Có nói rằng nếu bạn đang thực hành với xâu chuỗi, điều đó sẽ đền bù cho những bỏ sót và lỡ thêm âm.
Nếu sự thực hành của bạn tốt, khi bạn thiền định về những điểm này mà không động lìa khỏi bản tánh của tâm bạn, đó là sự hợp nhất tối thượng của giai đoạn phát sanh và giai đoạn thành tựu. Điều đó sẽ xảy ra một khi khởi tưởng xảy ra như thiền định. Giai đoạn phát sanh là khởi tưởng ; khởi tưởng là tâm ; và tâm là tánh không. Tâm và khởi tưởng như nước và những làn sóng, thế nên khi sự chuyển động nhỏ nhất này khởi sanh như thiền định, đó là sự hợp nhất. Nếu sự hợp nhất đó vượt quá khả năng của những người mới học, trước tiên bạn cần thiền định nhất tâm về những quán tưởng của giai đoạn phát sanh.
Bạn có thể hơi mệt mỏi vì những quán tưởng này. Sự yên lặng của tâm trong việc quán tưởng là định tĩnh. Khi quan sát tâm của thiền giả, bạn sẽ có một cái nhìn thấy đặc biệt về tánh không, nó là không có nền tảng, không đặt nền trong mọi sự ; và đó là quán chiếu. Hãy an trụ tâm một cách vững chắc và bình lặng đến mức độ nào có thể được trong trạng thái này. Nếu tư tưởng tuôn chảy trở lại, hãy quan sát bản tánh của chúng và để cho chúng giải thoát tự chính chúng. Đó là kỹ thuật cho những người mới học đã có kinh nghiệm.
Một khi bạn đã quen với điều này, không còn cần phải canh chừng theo sự tuôn chảy của những tư tưởng từ bản tánh cốt lõi. Như khi bạn thưởng thức ngắm nhìn một mặt hồ trong sáng lấp lánh vào mùa xuân, hãy quan sát một cách nghỉ ngơi bản tánh của tâm, đơn giản và không xao lãng. Như những làn sóng khởi lên từ nước và tan lại vào hồ, mà không làm hại hồ, dầu có một chuyển động nhỏ khởi lên từ trạng thái tĩnh lặng, nó không làm hại sự tĩnh lặng ; và nó tan lại vào trạng thái tĩnh lặng. Một khi bạn đã quen với điều này, dù nhiều tư tưởng xảy ra, chúng không làm biến chất sự tĩnh lặng ; mà như những bông tuyết rơi xuống một hồ nước, chúng tan vào kinh nghiệm của sự tĩnh lặng. Bằng cách tự làm quen với điều này, những tư tưởng sẽ xuất hiện như thiền định. Khi khởi tưởng sanh khởi như thiền định, đó là sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và thành tựu, vì giai đoạn phát sanh là khởi tưởng.
Nếu tâm còn có cái gì để quan sát, đó là nó đang không thấy bản tánh của nó. Bấy giờ hãy thống nhất người đang quan sát và cái được quan sát. Bấy giờ bạn sẽ có được cái hiểu biết chắc chắn về một tánh không chói sáng, an vui, đồng nhất, và sẽ không còn cái gì để bám nắm. Không có cái gì để bạn có thể nói, “Đây là nó”, và không có cái gì để bạn có thể nói, “Đây là thiền định”. Cái này không giống bất cứ cái gì bạn đã kinh nghiệm trước kia, nhưng nghi ngờ có thể sanh khởi. Hãy yên lặng, ngừng cố gắng, và chỉ đơn giản không xao lãng, không có điều gì để làm cả. Khi điều này xảy ra, bản tánh của thức bình thường đã được thấy. Nếu tháp canh của chánh niệm bị mất, bạn sẽ lang thang vào mê lầm như cũ. Chỉ đơn giản không mất tháp canh của chánh niệm không xao lãng. Đó là nghĩa của lời tuyên bố của Tilopa :
Nếu tâm không có đối tượng có chủ ý, đó là Đại Ấn.
Nếu bạn làm quen và rất quen thuộc với nó, thức tỉnh tối thượng sẽ đạt được.
– Không phải ngồi thẳng lưng, mắt không chớp mà cho đó là thiền định thực sự. Đặc biệt có những thiền giả thực hành giai đoạn phát sanh, quán tưởng chính họ, môi trường chung quanh và những bổn tôn như là thật có bản chất ; rồi đến giai đoạn thành tựu, họ lại phá hủy tất cả những gì họ đã quán tưởng. Đây là cách tiếp cận sai lầm hai giai đoạn thực hành. Thật ra, hai thực hành này có cùng một bản chất. Những hiện tượng trong những thực hành đó xuất hiện, tuy chúng không có tự tánh. Sự xuất hiện của chúng và sự không có tự tánh của chúng, hai cái đó cùng một bản chất, với giai đoạn phát sanh tương đương với sự xuất hiện, và giai đoạn thành tựu tương đương với sự không có tự tánh, tức là tánh không. Thật vậy, điều này đúng với tất cả mọi hiện tượng – chúng xuất hiện, nhưng vô tự tánh.
Sự tiến bộ của hai cách tiếp cận của thực hành định tĩnh là thiền định với những dấu hiệu và rồi không có dấu hiệu. Ban đầu, bạn trau dồi và dần quen với thực hành định tĩnh với những dấu hiệu, trong khi mục tiêu cao hơn là thực hành định tĩnh không có một đối tượng và không có một dấu hiệu. Thiền giả là bạn, và cái bạn đang thiền định là bạn. Cả hai đều không có nền tảng, nghĩa là vô tự tánh. Như thế ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, sự xuất hiện và sự biến mất đều vô tự tánh.
Sự kiện tâm không có một đối tượng chủ định nữa không có nghĩa là rơi vào hư vô vô ký. Bạn không trống trơn, mà tâm đang thiền định như thế phải được thấm nhuần sức mạnh của trí huệ – bản thân tánh giác là trí huệ. Như một kết quả với sự quen thuộc với nó, bạn sẽ đạt được quả của Dzogchen, tức là Phật quả. –
Nếu bạn thiền định mà không mất tháp canh của chánh niệm, đó là quân bình thiền định (định). Nếu tháp canh của chánh niệm bị quên mất, đó là trạng thái sau thiền định.
Cách tốt nhất để chống lại những lực lượng cản trở, tránh sa bẫy, và nâng cấp thực hành của bạn là guruyoga. Hãy quán tưởng A Di Đà, Đấng của Bộ Liên Hoa, như là tháp canh của chánh niệm trên đỉnh đầu bạn với tư cách là Bậc Đại Bi. Thân ngài màu đỏ giống như san hô, và có mọi dấu hiệu và tượng trưng của giác ngộ, với một đảnh nhục kế. Hai tay ngài trong ấn quân bình thiền định, cầm một bình bát đầy cam lồ. Hãy tưởng tượng ngài trên một hoa sen và một chỗ ngồi mặt trăng, hai chân trong tư thế kim cương. Hãy mời tất cả những vị thầy hàng đầu và nối dòng, và các vị tan vào trong ngài. Hãy nghĩ đến bất cứ lời khẩn cầu nào bạn biết, hãy tụng đọc, “Con cầu nguyện A Di Đà pháp thân. Con cầu nguyện Bậc Đại Bi báo thân. Con cầu nguyện Padma-sambhava hóa thân. Con cầu nguyện những vị thầy hàng đầu và nối dòng của con.” Tụng sáu âm theo một lối cầu xin, hay tụng một chuỗi hột thần chú vajrasattva, vì đây là tinh túy của những cầu xin. Từ sâu thẳm của lòng bạn, không chỉ ngoài môi, hoàn toàn đặt đức tin của bạn vào ngài với sự quyết chắc, “Ngài biết tất cả những điều gì xảy ra trong cuộc đời này, trong những đời tương lai và trong trạng thái trung ấm”. Hãy làm điều đó với sự tôn kính và sùng mộ thành tâm đến độ tóc lông dựng lên và bạn chảy nước mắt.
Mỗi khi bạn cầu khẩn như vầy, hãy làm theo cách kêu cầu vị thầy của bạn từ nơi xa. Do làm như vậy, những tư tưởng phân tán bên ngoài sẽ trôi đi, và những tư tưởng bên trong sẽ sanh khởi trần trụi như quang minh trống không. Bất cứ kinh nghiệm nào sanh khởi nhờ thần lực của những ban phước từ cầu nguyện theo lối ấy, hãy duy trì nó. Có nói rằng như một kết quả, sẽ không có một lực lượng cản trở hay sự sa bẫy.
Bấy giờ đây là cách để nâng cấp sự thực hành của bạn dựa vào Bồ đề tâm, từ và bi. Tất cả chúng sanh trong sáu cõi đã từng rất tốt với bạn vì họ đã là cha mẹ bạn nhiều lần trong vô số đời quá khứ. Như vậy, hãy phát sanh lòng bi mãnh liệt khi bạn thấy rằng họ không có cơ may thoát ra khỏi được khổ đau của sáu cõi. Rồi khi bạn thở ra qua hai lỗ mũi, hãy tưởng tượng rằng tất cả công đức và thiện căn của bạn êm ả tan vào tất cả chúng sanh ; và hãy tưởng tượng họ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc vô lượng và có công đức không thể tính đếm như là nguyên nhân của niềm vui. Hãy tụng hoặc bằng lời hoặc trong tâm, “Nguyện tất cả chúng sanh được đầy đủ niềm vui và những nguyên nhân của niềm vui.”
Khi thở vào, hãy tưởng tượng tất cả những khổ đau, cái xấu và những che ám của tất cả chúng sanh hội tụ và tan vào trong bản thân bạn. Hình tướng của bạn như Quán Thế Âm sáng chói rực rỡ, như gỗ thêm vào lửa, và tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau của sáu cõi luân hồi. Hãy tưởng tượng rằng họ thoát khỏi những khổ đau của tất cả những cái xấu và che ám, chúng là những nguyên nhân của khổ đau. Hãy tụng hoặc bằng lời hoặc trong tâm, “Nguyện tất cả chúng sanh được thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau.” Đó là sự trau dồi lòng bi. Nếu bạn chảy nước mắt vì từ và bi, đó là đại từ và đại bi. Nếu bạn có một cảm thức bình đẳng, không thiên vị, với tất cả chúng sanh, đó là lòng từ vô lượng và lòng bi vô lượng. Hơn nữa, nếu bạn có thể thiền định khi ở trong một trạng thái thực hành không xao lãng về bản tánh của tâm, đó là samadhi bẩm sinh vốn sẵn của đại từ và tánh không mang tinh túy của lòng bi. Đây là gốc Pháp của truyền thống Kinh của Đại thừa.
Có nói rằng không có gì sâu xa hơn điều này về việc hoàn thiện công đức, tịnh hóa những che chướng, và nó như là một bánh xe của sự bảo vệ. Có nói đến 640.000 Tantra Atiyoga, trong đó mười bảy cái còn thịnh hành hiện nay. Có mười bảy tantra “con nhỏ”, mười bảy tantra mẹ và con của Loại Tâm, Tinh Túy của Những Dakini, Tinh Túy của Pháp Giới Trong Sáng, Bình Giảng Tinh Túy của Vị Hướng Dẫn Tâm Linh và v.v... Nghĩa chủ yếu của tất cả những tantra đó là cái tịnh quang của Nhảy Qua này. Đây là giáo huấn thực hành về thức tỉnh mà không có thiền định, và nó là giáo huấn thực hành sâu xa về giải thoát nhờ sự quan sát. Cái nhìn thấy ánh sáng năm màu này không giống như thấy một cầu vồng ; nó là một cái nhìn thấy năm trí huệ bổn nguyên một cách trực tiếp thuộc tri giác. Có nói rằng không có sự khác biệt giữa việc này và việc thực sự gặp gỡ năm bộ Phật. Khác với khi bạn làm những quan sát đầu tiên, bạn sẽ thấy một sự rực rỡ lạ lùng. Có nói rằng nếu khi điều đó được chứng nghiệm, khi những hội chúng những bổn tôn an bình và hung nộ xuất hiện trong trung ấm, chắc chắn bạn sẽ được giải thoát trong trạng thái đó. Không có con đường nào ngắn hơn con đường này. Nếu bạn nhìn ngắm thường trực, bạn sẽ trực tiếp thấy nhiều bổn tôn an bình và hung nộ, gồm năm bộ Phật. Có nói rằng khi các vị ấy được thấy, không cần phải đi qua trung ấm. Bởi thế, quan trọng là bạn chăm chú nhìn ngắm thường trực suốt sáng và chiều.
– Nếu bạn muốn tích tập nhiều hơn công đức để quán đảnh truyền pháp và nâng cấp sự thực hành tâm linh của bạn, thì không có cái gì sâu xa hơn thực hành tonglen này của guruyoga, trong đó guru thì không chia biệt với bổn tôn đã chọn và bạn nhận lấy sự khổ đau của những người khác và ban cho họ hạnh phúc. Nếu bạn muốn xóa tan những che ám của dòng tâm bạn, không có phương pháp nào quyền năng hơn. Nếu bạn chú ý đến những che ám và những lực lượng xấu ác, không có bánh xe bảo vệ nào hiệu lực hơn.
Một lần nữa, nhắc đến giác ngộ mà không thiền định không có nghĩa không cần gì cả đến thiền định. Nó có nghĩa là bạn có thể đạt đến giác ngộ rất nhanh chóng. Cũng thế, khi thực hành Nhảy Qua, những cái nhìn thấy đến dần dần khi bạn càng ngày càng quen hơn với thực hành. –
Buổi tối, khi bạn sắp ngủ, bạn cần đóng dấu ấn niêm với những cầu nguyện hồi hướng bất cứ đức hạnh nào bạn đã làm trong ngày. Nếu bạn hồi hướng bằng việc sự vật hóa người hồi hướng, đối tượng hồi hướng, và bản thân sự hồi hướng, sự hồi hướng là có nhiễm độc ; thế nên nó không dẫn đến con đường thức tỉnh. Thực hiện một hồi hướng trong một trạng thái không xao lãng khỏi bản tánh của tâm là một hồi hướng toàn hảo về cả ba, tác nhân, đối tượng và hành động ; thế nên nó dẫn đến con đường thức tỉnh.
Dù Pháp nào hay thực hành nào, một kết thúc bằng lời nguyện hồi hướng với một tâm không xao lãng chắc chắn sẽ thành sự thật về sau. Bởi thế, quan trọng là không có hiểu sai trong việc hồi hướng. Hãy xem điều bạn muốn trong tương lai là một kết quả của sự nhận lãnh những giáo huấn và của việc dấn thân vào thực hành. Tốt nhất là hiến dâng chính bản thân mình, và cầu khẩn được phụng sự cho những nhu cầu của chúng sanh bao giờ cho đến khi vòng sanh tử còn tồn tại.
Có nói rằng trong chư Phật chỉ có một Phật Thích Ca Mâu Ni, và trong chư Bồ tát, chỉ có những Bậc Bảo Vệ của Ba Bộ (Manjushri, Avalokiteshvara, và Vajrapani). Chúng ta có thể trở thành các vị không ? Chúng ta có sợ hãi những thống khổ của sanh tử ? Một người không băn khoăn hay choáng váng trước viễn tượng sẽ kinh nghiệm những thống khổ của sanh và tử nhiều trăm triệu lần, mà đạt đến thức tỉnh tâm linh trong một trạng thái hoan hỷ và hạnh phúc được gọi là một Bồ tát uể oải, lười biếng, và có nói Phật Di Lặc là một vị như vậy. Tôi nghĩ rằng không có gì sai lầm khi chúng ta cũng làm như ngài. Làm như vậy, rốt cuộc chúng ta sanh ra trong một tịnh độ. Dù nếu chúng ta được sanh ở Potala, Tusita hay Núi Vinh Quang Màu Đồng, không bảo đảm chúng ta sẽ không rớt trở lại. Có nói rằng, người ta không thể sanh trong những cõi tịnh độ khác như Abhirati cho đến khi người ta đạt đến ít nhất sơ địa. Thế nên dù nếu người ta cầu nguyện cũng sẽ rất khó đến đó.
Những Bồ tát tình nguyện phụng sự chúng sanh thì không e ngại những thống khổ của vòng sanh tử. Ngược lại, chúng ta sợ hãi sanh tử, nếu chúng ta muốn đạt đến thức tỉnh tâm linh trong một trạng thái hoan hỷ và hạnh phúc, không kinh nghiệm khổ đau, chúng ta nên cầu nguyện sanh về Cực Lạc. Nếu chúng ta cầu nguyện sanh về đó – trừ những tội phải đền đáp tức thời và sự từ bỏ Pháp – sự sanh ra ở đó của chúng ta sẽ nhờ vào thần lực của những lời nguyện của A Di Đà. Nếu chúng ta được sanh ở đó, chúng ta sẽ không có chút khổ đau nào, và sự hoan hỷ và hạnh phúc sẽ tràn đầy. Chúng ta sẽ có thể đi một cách diệu kỳ đến Abhirati, Núi Vinh Quang Màu Đồng, và Tusita (Đâu Suất), gặp (chư Phật ở đó) và nhận Pháp. Với tri giác siêu giác quan vô ngại và những khả năng siêu thường, chúng ta sẽ có thể dẫn dắt những người có mối liên kết với chúng ta ra khỏi trung ấm. Trong vô số trăm triệu kiếp, không có bệnh, già và chết. Chúng ta sẽ thấy được khuôn mặt của Phật A Di Đà và nghe Pháp. Vô số đám mây của những đồ cúng dường sẽ được hoàn thiện và chúng ta sẽ giác ngộ.
Dễ như thế nào việc sanh ra ở đó ? Có nói rằng nếu người ta cầu nguyện nhiệt thành mười lần, người ta sẽ sanh ở đó. Không có điểm nào nghi ngờ về chuyện bạn có được sanh ra ở đó hay không. Nếu bạn nuôi dưỡng những nghi ngờ, bạn sẽ sanh ra ở cõi thanh tịnh ấy, nhưng hoa sen (trong đó bạn sanh ra) sẽ không nở trong năm trăm năm. Có nói rằng trong thời gian đó, bạn sẽ kinh nghiệm hoan hỷ và hạnh phúc, và bạn sẽ nghe tiếng nói của Phật, nhưng không may là có một sự trễ nãi trong việc thấy khuôn mặt ngài. Bởi thế, không chứa chấp những nghi ngờ, ban đêm khi bạn sắp ngủ, bạn nên hồi hướng bất cứ thực hành nào đã làm trong ngày để tái sanh về đó. Nếu bạn biết, hãy tụng Cầu Nguyện của Hạnh Lành và Cầu Nguyện Cực Lạc, nếu bạn không biết hai bài cầu nguyện đó, hãy nói, “Nguyện con sanh trong Cực Lạc !” là đủ. Do làm thế, khi bạn chết – dù bạn có thể duy trì thực hành hay không, hoặc thành công trong sự chuyển di, hoặc nhận ra hội chúng những bổn tôn an bình và hung nộ trong tiến trình quá độ của tự thân thực tại hay không – hai tuần sau khi bạn chết, bạn sẽ xác định rằng bạn đã chết ; và trước khi sứ giả của thần chết Yama đến, và trước khi có lời phán quyết về những hành động của bạn và những nghiệp quả của chúng, với tri giác siêu giác quan có nhiễm ô bạn sẽ ý thức những đời quá khứ và tương lai và những trạng thái trung ấm. Bạn sẽ có thể biểu lộ những khả năng siêu thường khác nhau, và bạn sẽ có tự do lớn lao để đi đến nơi nào bạn muốn. Vào lúc đó, hãy giữ lấy Phật A Di Đà trong tâm, và đi đến Cực Lạc. Không chút nghi ngờ gì bạn sẽ đến đó chỉ bằng cách nghĩ đến nó.
Ráng cố gắng không quên nghĩa của Pháp bạn đã nhận bây giờ đây. Mọi người chắc chắn có thể thực hành điều này, vì nó là một bàn luận giản phác của Pháp. Đây là tinh túy của những lời Phật dạy, của những kinh, những tantra và những kho tàng giáo lý. Ồ, bây giờ trong khóa học một tháng này chúng ta đã hoàn tất mười tám thời Pháp chính và mười hai thời Pháp phụ.
– Trọn bản văn này có nhiều bàn luận phức tạp, khó khăn và cao tột về Đại Toàn Thiện và Đại Ấn. Tuy nhiên, những giáo lý này về tái sanh trong Cực Lạc gồm những thực hành đơn giản và dễ làm.
Bây giờ chúng ta đã hoàn tất những chương phụ trong ba mươi thời giáo lý của Karma Chagmé, và tôi muốn có một ít nhận xét kết luận. Chớ cố gắng với những thực hành quá tầm với của mình. Quan trọng là nhận thức của bạn ở mức độ thực hành nào và rồi dấn thân vào đó. Sự thực hành cầu nguyện sanh vào Cực Lạc cũng thế. Chỉ bằng cầu nguyện được tái sanh trong Cực Lạc, chúng ta được bảo đảm điều đó sẽ xảy ra. Bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đều đồng ý điều này, và nó được rộng rãi chấp nhận trong Phật giáo Trung Hoa và Nhật Bản. Hoàn toàn không có nghi ngờ gì về điều này. Làm những cầu nguyện như thế, khi chúng ta chết, ít nhất chúng ta cũng có thể hoàn thành sự an toàn hạnh phúc cho riêng chúng ta, và thậm chí có thể hoàn thành hạnh phúc cho những người khác. Dù bạn là một vị thầy hay một học giả, địa vị xã hội cao hay thấp, giàu hay nghèo, một người ăn xin hay thậm chí một người khờ dại, không có ai có thể nói là bạn không thể đến Cực Lạc. Những ngày hôm nay có nhiều bàn luận về nhân quyền. Trong tất cả mọi nhân quyền, quyền đi đến Cực Lạc là cái vĩ đại nhất ! –
May mắn thay có sự hiện hữu của Acarya Padmasambhava !
May mắn thay có sự hiện hữu của Bậc Đại Bi !
May mắn thay có đại dương những vira !
May mắn thay có đại dương những dakini !
May mắn thay có đại dương những hộ pháp đã
thề nguyền !
Rồi làm những cầu nguyện hồi hướng bài dài. Hãy nói lên những bài kệ tán thán, rải hạt từ tay bạn, điều này kết thúc thời Pháp này.
Kỳ diệu thay ! Đây là một tổng hợp ý nghĩa của tất cả Kinh và Tantra của những trường phái Tân và Cựu Dịch.
Đây là một tổng hợp của những ban phước của Tân và Cựu Dịch và những giáo lý kho tàng.
Đây là một tổng hợp của những thực hành của tất cả những giáo huấn cốt lõi của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện.
Đây là một tổng hợp những trích dẫn từ toàn bộ đại dương của những kinh và những tantra.
Đây là một tổng hợp của những tham thiền của tất cả vidyadhara và siddha.
Đây là một tổng hợp của những thực hành của tất cả những người căn cơ cao và thấp.
Đây là một tổng hợp của tất cả những hệ thống triết học, vượt qua hết thảy chúng.
Nhờ thần lực của lòng bi Quán Thế Âm,
Cái này được kết hợp hoàn hảo bởi Raga Asey,
Nhà tham thiền về Bậc Đại Bi trong những thời suy đồi này.
Bhiksu Tsondru đã viết ra.
Bất cứ những sự thiếu nhất quán, lỗi lầm hay khuyết điểm có thể có trong này,
Tôi sám hối với hội chúng những bổn tôn của Tam Bảo.
Do công đức tạo luận, nguyện cho tôi, người chép,
Và mọi người tìm thấy một nối kết với những giáo huấn này
Hưởng tuổi thọ và sức khỏe tốt trong đời này, và mong những chứng ngộ qua kinh nghiệm của chúng tôi tăng trưởng.
Khi tới lúc đi ra khỏi đời này,
Nguyện chúng tôi được tái sanh kỳ diệu trong cõi Cực Lạc,
Không có đời nào khác đi vào những chốn nửa chừng.
Bấy giờ nguyện chúng tôi làm hài lòng Bậc Bảo vệ Amitabha bằng cách cúng dường,
Và trong hiện hữu thân thể đó nguyện chúng tôi trở thành giác ngộ.
Một khi chúng tôi đã hoàn toàn giác ngộ,
Nguyện chúng tôi lưu xuất để đáp ứng những nhu cầu của thế gian đến chừng nào không gian còn tồn tại.
Đối với mỗi phẩm tính của mỗi thân lưu xuất,
Nguyện chúng tôi có uy lực như một tỷ Vajrapani,
Trí huệ tối thượng như một tỷ Manjushri,
Những khả năng siêu thường như một tỷ Padmasambhava,
Và khả năng thống nhất để đáp ứng những nhu cầu của thế gian như một tỷ Avalokitesvara.
Nguyện dòng giáo lý của những giáo huấn này và những khẩu truyền của chúng,
Ngày càng tăng trưởng, và trong sáu trăm năm
Nguyện chúng không suy vi, mà lớn mạnh và nở hoa thịnh vượng.
Nguyện hải hội của chư Hộ Pháp đã thề nguyền, gồm cả Ekajati và Mahakala,
Làm phát triển Pháp này và làm nó hưng thịnh.
Xin hãy bảo vệ những người thực hành Pháp này !
Nguyện hải hội những bổn tôn sung túc, gồm cả Vaisravana,
Cung cấp những thứ cần thiết của cuộc sống cho những người thực hành Pháp này.
Nguyện những chúng hội của (mười hai) drïdïha, (mười ba) anh em thần rừng, (hai mươi mốt) upasaka, và những thần địa phương
Làm phát triển Pháp này và giúp nó hưng thịnh.
Chớ vi phạm thề nguyền xưa kia và samaya của các vị.
Về sự chỉ dạy, suy nghĩ và thiền định về Pháp này,
Nếu có những kẻ thù, những lực lượng ngăn cản, hay những người hướng dẫn giả mạo tạo ra những nhiễu loạn,
Và người nào làm biến chất Pháp này với những tạo tác của riêng họ,
Hãy trừng phạt họ tức thời và nghiêm khắc !
Thần lực của đại dương những Hộ Pháp đã thề nguyền có hiện hữu hay không ? Vào lúc này tôi sẽ trông chờ, thế nên hãy nhớ điểm này trong tâm.
Trong những giáo huấn này những ban phước có hay không ?
Hãy thực hành như bạn được dạy trong luận văn, và điều đó sẽ rõ ràng.
Cái này có tương hợp với nghĩa của những kinh và những tantra hay không ?
Hãy nhìn xem rộng rãi vào những Dịch Phẩm Tân và Cựu và những giáo lý kho tàng.
Hãy nhìn theo sự thực hành của những giai đoạn phát sanh và thành tựu.
Một vài người bạn có thành kiến và có hiểu biết ít phần
Có thể chỉ trích cái này,
Nhưng tôi không ân hận, những kinh và tantra là người làm chứng của tôi.
Nguyện vinh quang của dịp may chiếu sáng, và nguyện cái này là một trang hoàng cho thế giới !
Mangalam !