LỜI MỞ ĐẦU
1. Pháp thân. Xem trang 30 của Giới Thiệu Mở Đầu.
2. Rahu là hành tinh thứ tám với vương miện của nó là “Ketu”, được xem là hành tinh thứ chín, theo chiêm tinh học truyền thống. Thần thoại học Ấn diễn tả Rahu là một sức mạnh ma quỷ thuộc về cõi trời, hình dáng khủng khiếp, với chín đầu. Đi qua không gian, Rahu nuốt mặt trời và mặt trăng theo định kỳ, tạo ra nhật thực nguyệt thực. Rồi mặt trăng mặt trời tiếp tục di chuyển qua một chỗ mở trong cổ họng Rahu.
3. Năm Uẩn là năm hợp chất bị điều kiện hóa theo nhân quả của tất cả hiện hữu, nhất là con người. Thực thể cái ngã bề ngoài thực ra không gì hơn một tiến trình những hiện tượng, một đống những biến cố tâm lý thường trực lưu chuyển. Những tiến trình cấu thành này được sắp xếp thành năm cái : (1) hình dạng (sắc), (2) cảm nhận (thọ), (3) tri giác (tưởng), (4) những hiện tượng tâm thức (hành) và (5) ý thức (thức).
4. Tám thuộc tính hoàn thiện. Trong Phật giáo Tám Thuộc Tính Hoàn Thiện kể ra ở sau được cho là đặc biệt thuộc về cõi Phật Báo thân :
1. Thuộc tính biểu lộ hình tướng sai khác vô biên.
2. Thuộc tính truyền thông theo chủ ý với những người khác.
3. Thuộc tính trí huệ toàn thể.
4. Thuộc tính năng lực chuyển hóa thành hình tướng nào bất kỳ.
5. Thuộc tính tâm trùm khắp bao bọc tất cả các vũ trụ.
6. Thuộc tính tri giác và tham dự vào những cảm giác của thân thể do bởi giác ngộ.
7. Thuộc tính đem lại sự thành tựu những mong muốn và nguyện vọng của tất cả chúng sanh.
8. Thuộc tính năng lực duy trì bất cứ sắc tướng nào trong thời gian dài.
5. Mười năng lực siêu việt (thập lực) :
1. Năng lực của tâm Phật, bao trùm toàn bộ lãnh vực hiểu biết và trực tiếp tri giác bản tánh nội tại của những quy luật vũ trụ, đặc biệt khi chúng áp dụng vào đời sống của chúng sanh. Tâm Phật thấy với sự xác quyết tuyệt đối rằng hạnh phúc chỉ sanh ra từ những tư tưởng và hành vi thiện không bao giờ bởi những cái xấu ác, trong khi khổ đau chỉ sanh ra từ những tư tưởng và hành vi xấu ác và không bao giờ bởi những cái thiện.
2. Năng lực tri nhận một cách rạch ròi mọi kết quả tương lai của những loại nghiệp khác nhau. Cũng thế, năng lực thấy hậu quả của những lực tương tác ở mức độ vũ trụ.
3. Năng lực tri nhận tiềm năng cho giải thoát trong mỗi chúng sanh, chúng tạo thành bản chất nội tại của mười tám yếu tố tâm lý (sáu căn, sáu trần, sáu thức). Xem Con Mắt Trí Huệ của Dalai Lama XIV.
4. Năng lực tri nhận bản chất và cấp độ của nguyện vọng bên trong mỗi cá nhân.
5. Năng lực tri nhận sự nhạy cảm về trí năng của mỗi cá nhân.
6. Năng lực biết và tri giác mọi con đường khác nhau dẫn đến những cõi cao của đời sống, sự giải thoát và giác ngộ hoàn toàn.
7. Năng lực hiểu vô số hình thức của sự tham thiền trên nhiều giai đoạn của giác ngộ.
8. Năng lực tri nhận tất cả nghiệp quá khứ của mỗi cá nhân.
9. Năng lực tri nhận giờ phút chính xác về cái chết của mỗi chúng sanh và năng lực chuyển di dòng tâm thức của chúng sanh đó đến những đời kế tiếp.
10. Năng lực tri giác thấy mọi phương pháp khác nhau để chấm dứt dòng sanh tử hay chuyển hóa những nhiễm ô của tâm thức và thấy nhiều loại kết quả mà những phương pháp ấy tạo ra.
6. Dakini. Xem trang 36 của Giới Thiệu Mở Đầu.
7. Yidam. Xem trang 35 của Giới Thiệu Mở Đầu.
8. “Những người hỗ trợ đã thức tỉnh” là những dakini.
9. Kim Cương thừa. Xem trang 32 của Giới Thiệu Mở Đầu.
10. Bốn loại Tantra. Toàn bộ những bản văn bao gồm những giáo lý của Kim Cương thừa, được chia làm bốn phạm trù theo bản chất của thực hành thiền định và sự tiếp cận thuộc tâm lý phù hợp với mức độ tiềm năng của cá nhân. Bốn cái là :
1. Jagyu, dòng hoạt động (Kriya Tantra).
2. Chogyu, dòng hoạt động và thiền định (Charya Tantra).
3. Naljorgyu, dòng thanh tịnh bên trong (Yoga Tantra).
4. Naljor Lamagkigyu, dòng thanh tịnh bên trong tối thượng (Anuttrayoga Tantra).
11. Tám Phản Ứng Thế Gian là những phản ứng phiền não khởi từ tâm chấp ngã. Tám phản ứng được hợp thành hai nhóm, tích cực và tiêu cực. Bốn phản ứng tích cực là : thích thú với hài lòng, khen, được, và lời ngon ngọt ; bốn phản ứng tiêu cực : bị quấy nhiễu bởi không hài lòng, chê, mất và lời khó chịu.
12. Bồ tát. Ám chỉ Bồ đề tâm. Từ Bồ tát được dùng trong hai cách chính, theo hai cấp độ : con đường của Bồ tát và bản thân sự Chứng Ngộ Tối Hậu. Một Bồ tát là người nỗ lực làm phát sanh trong chính mình lòng đại bi cho chúng sanh và nỗ lực đạt đến trí huệ siêu việt để cho người ấy có thể vừa làm việc cho sự giải thoát của tất cả chúng sanh vừa hoàn thành giác ngộ trọn vẹn cho chính mình. Như thế một Bồ tát là một người đã hoàn thành giác ngộ thực sự nhưng đã chọn làm việc cho chúng sanh qua chuỗi tái sanh không dứt, hoặc là một cá nhân bình thường đã nhận Bồ tát giới và nhờ đó đã quyết định tìm kiếm sự giác ngộ cho chính mình vì lợi lạc cho chúng sanh.
13. Những daka và dakini và hai mươi bốn trung tâm năng lực của thân như kim cương của ngài. Có ba hạng dakini trong truyền thống Kim Cương thừa. Những dakini hạng thứ nhất, cũng được diễn tả là “dakini giác ngộ tự phát”, như là những yidam như Vajrayogini, Tara... sanh khởi từ năng lực của sự khai mở của Báo thân. Hạng thứ hai là những dakini vô hình được diễn tả là “những người sanh trong những cõi Trời”. Một số trong họ là những lưu xuất của những dakini hạng thứ nhất và những vị khác là người đã đạt đến mức độ này qua sự chứng đắc của họ. Theo nghĩa biểu hiện của truyền thống, họ tác động từ những cõi trời vô hình bao gồm hai mươi bốn nơi chốn thiêng liêng ở Ấn Độ và Tây Tạng. Tuy nhiên theo nghĩa hiện thực, những dakini tượng trưng bản tánh tối hậu của mọi lực lượng tâm sinh lý trong mỗi người và trong bản thân người đó có “hai mươi bốn cõi” tương đương.
Hạng thứ ba gồm những người sanh từ “sự chứng ngộ thần chú”. Họ ở giữa loài người, hoặc là những dakini tiềm thể hoặc là những người đã đạt đến những cấp độ của chứng ngộ bên trong qua sự hiểu biết bẩm sanh hay qua những giai đoạn của con đường Kim Cương thừa.
Nhân đây, những hình tướng khác nhau của những yidam trong cả hai phái giống được diễn tả trong hệ thống tranh tượng bí truyền chỉ là những biểu thị năng lực chuyển hóa của Báo thân. Sự khác biệt của những hình tướng và sự phân biệt giống phái (dễ làm bối rối) không thể và không phải được nhìn như những thực tại khách quan vì chúng chỉ là một phương cách tâm lý để truyền thông chân lý vĩ đại của tính tương đối duyên sanh cùng với tính bất nhị nội tại và tánh không của nó.
Thân như kim cương ám chỉ giáo lý Kim Cương thừa rằng tiềm ẩn trong thân tâm con người là những tiềm năng vĩ đại của sự thanh tịnh và thực tại vốn sẵn đủ. Kim Cương thừa xem năm uẩn của con người là năm bộ Phật và xem năm đại – đất, nước, gió lửa, không khí-năng lực, và không gian – là năm Phật nữ tính. Năm nhiễm ô được chuyển hóa thành Năm Trí Huệ Siêu Việt qua tiến trình thiền định. Một thiền giả như Milarepa có thể và hoàn thành giác ngộ bằng cách khai thác những tiềm năng ẩn kín trong thân tâm con người.
14. Heruka. Theo ngữ nguyên học, he nghĩa là tánh không nội tại của mọi nguyên nhân, ru là tánh không nội tại của mọi kết quả, và ka nghĩa là tánh không nằm trong bản tánh sâu nhất của mọi sự. Như thế, Heruka đồng nhất với bản tánh tối hậu của thực tại. Heruka cũng được dùng như danh hiệu cho những yidam trong hình dạng khủng khiếp.
Tuy nhiên có định danh khác về yidam hung nộ – “người uống máu” – phát sanh từ danh từ Sanskrit “Rudhika”. Bởi thế, Heruka là người giết bốn loại ma bằng cách uống máu chúng.
Trong phương pháp mật truyền, vị lama của cá nhân mình được xem là hiện thân của Heruka.
15. Tám bộ thiên long quỷ thần. Ám chỉ tám bộ những lực lượng siêu nhiên. Nhất là nó ám chỉ tám thủ lĩnh thống lĩnh tám đạo quân thiên, thiên nữ, yama (dạ ma), yaksa (dạ xoa), raksa (la sát), tsan, rồng và gyalpo.
16. Phương diện Ba Thân của tâm. Ám chỉ đặc tính tâm thức con người là một hệ thống toàn bộ. Tánh không nội tại của tâm hay dòng thức là Pháp thân ; sự sáng tỏ nội tại của tánh giác là Báo thân ; và những tri giác và những tư tưởng mở bày không chướng ngại là Hóa thân.
17. Phật Vajradhara. Vajradhara là sự biểu lộ cao nhất của giác ngộ, sự đại diện thấy được của Pháp thân. Nghĩa đen của “Vajra” là kim cương, nhất là trong phương diện cứng chắc không thể bể nát của nó. Trong nghĩa cao hơn, Vajra để chỉ bản tánh nội tại của giác ngộ – sự hợp nhất bất khả hoại và bất khả phân của trí huệ siêu việt và lòng bi vô hạn, cũng như lạc tối thượng và tánh không tối hậu.
Là sức mạnh vũ trụ tối cao khởi từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối thượng và nguồn bi mở khắp. Trong Vajradhara mọi hình tướng Báo thân, mọi phẩm tính và công năng của chúng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhiếp toàn khắp của mọi thuộc tính của giác ngộ.
18. Bốn Phương Diện của Giác Ngộ. Từ này để chỉ Ba Phương diện của Giác ngộ (Ba Thân Trikaya) cộng với Phương diện Tinh Túy (Svabhavekakaya). Phương diện Tinh Túy này là tính cách vốn có hay nền tảng của Pháp thân. Nó được định nghĩa đơn giản là cõi thanh tịnh của giác ngộ. Vốn không chất thể, nó cũng không dơ nhiễm và khiến cho sự loại trừ mọi nhiễm ô trí thức và tình cảm có thể được. Không gian thanh tịnh bên trong của giác ngộ và tánh giác tối hậu thường được gộp vào từ Pháp thân. Hai phương diện khác là sự biểu lộ cao nhất (Báo thân) và sự biểu lộ trần thế (Hóa thân).
19. Năm Trí Huệ Siêu Việt. Xem Chú thích 13 ở trên và Chú thích 2, Phần Một, Chương 3.
PHẦN MỘT, CHƯƠNG 1
1. Yogin trong tiếng Sanskrit và yogi trong tiếng Hindi (thiền giả).
2. Tilopa, Naropa và Marpa. Hai dòng chính của phái Kagyuš là Ringyu, “dòng dài” những vị thầy và Nyegyu, “dòng ngắn” những vị thầy (còn được gọi là dòng trực tiếp). Dòng sau truyền xuống từ đại sư Tilopa, ngài đã nhận lãnh sự trao truyền bí mật bằng miệng về những giáo lý mật truyền, đặc biệt là những cái về sau được biết với tên là Sáu Giáo Pháp của Naropa. (Xem Chú thích 6, Phần Hai, Chương 4.)
3. Ngonga và Ogmin : những tên Tịnh độ của Phật. Ngonga : Hoan Hỷ Toàn Hảo, cõi Phật của Akshobhaya (A Súc Bệ, Bậc Bất Động). Khi một thiền giả nhập môn quán tưởng Năm Cõi Phật trong thiền định, Ngonga được định vị ở phương Đông. Từ Ogmin nghĩa đen là “không trên”, tức là cõi Phật cao nhất của Báo thân. Đôi khi Ogmin như là một tĩnh từ trợ nghĩa cho danh từ Ngonga thành Ogmin Ngonga, Cõi Hoan Hỷ Tối Cao.
4. Nyingma. “Cổ Phái”, cũng gọi là “Cựu Dịch”, phát sinh từ thế kỷ thứ tám bởi Guru Padmasambhava và Vimalamitra, cả hai vị đều đến từ Ấn Độ. Đây là một trong bốn phái chính của Phật giáo Tây Tạng còn hiện diện cho đến ngày nay ở trong và ngoài Tây Tạng.
5. Mantra. Một thần chú là một chữ đơn hay một số chữ thiêng liêng. Trong thiền định mật thừa Phật giáo, những thần chú được quán tưởng trong hình thức phát sáng hay được hát theo nhiều cấp độ giọng. Tuy nhiên đôi khi, sự thực hành mang hình thức một sự chuyển hóa im lặng âm thanh thần chú thành sự hợp nhất với năng lực năng động của hơi thở.
Những bản văn mật thừa cùng với những nguyên lý và những thực hành của sự tự chuyển hóa vốn được các đại đạo sư giác ngộ ban truyền. Những thần chú có nhiều cấp độ ý nghĩa, chúng chỉ có thể được học từ một vị thầy có kinh nghiệm, và chỉ bằng cách theo thủ tục đã định sẵn của ngài.
6. “Papa Mila !” “Cha ơi, quả là một người ! Cha ơi, quả là một người !” Trong tiếng Tây Tạng, “mi” nghĩa là người và “la” là một từ tán thán cần thiết nhấn mạnh. Như thế là sự biểu lộ, Cha ơi, quả là một người ! (JB)
7. Hình thờ. Sự sử dụng những hình thờ phát xuất từ phong tục xưa của tôn giáo bản địa Tây Tạng gọi là Bošn, một hình thức thờ thiên nhiên. Những hình tạc đàn ông, đàn bà và thậm chí thú vật nuôi trong nhà được làm từ gỗ hay bột tráng bằng bơ màu để cúng trời, thần và những hồn linh để giải thoát những nạn nhân khỏi ảnh hưởng xấu của họ. Những nghi lễ được cử hành ở nhà hoặc bởi thầy cúng hay đôi khi bởi những vị tăng Phật giáo mật thừa. Xem Chú thích 4, Phần Hai, Chương 8.
8. Tsa : viết tắt của Kya Ngatsa.
9. Năm con Rồng Thủy. Năm 1052.
PHẦN MỘT, CHƯƠNG 2
1. Dzo : con vật lai giống giữa trâu yak và bò thường. (JB)
2. Chuba : Ống tay áo của áo chuba Tây Tạng, khi xếp vào lên quá khuỷu tay và có thể dùng như một cái roi quất.
3. Chúng tôi sẽ chạy đến khi nghe tiếng trống và khi khói bốc lên. Ám chỉ hoàn cảnh của những nghười nghèo khổ và ăn xin, nhất là khi những nhà có lễ tôn giáo với âm thanh của nhạc, như tiếng trống và khi khói bốc lên từ những ống khói lò bếp. Những dịp ấy chủ nhà sẽ phân phát thức ăn.
4. Thờ cúng tám con rồng : Tám Con Rồng là tám Thiên Long.
PHẦN MỘT, CHƯƠNG 3
1. Dza mặt màu hạt dẻ, một trong ba thần bảo vệ chánh của Phái Nyingma. Là Dza, ngài cũng được xem là một lực lượng cõi trời đồng hóa với hành tinh thứ tám, Rahu, và hành tinh thứ chín, Ketu. Dza là vua của những lực lượng ma quỷ trong tám đạo quân của các vị trời và quỷ thần. (Xem Chú thích 15, Lời Mở Đầu.)
2. Hum. Đây là một phần của loại thần chú đặc biệt gọi là drak-ngak, một thần chú làm kinh sợ. Chữ “Hum” thiêng liêng về tổng quát tượng trưng bản tánh, những thuộc tính và thần lực của Phật tâm. Chia thành năm phần, chữ này trong tiếng Sanskrit hay Tây Tạng tượng trưng Năm Trí Huệ Siêu việt của Phật tâm : (1) trí huệ về tánh không toàn khắp, (2) trí huệ như tấm gương (Đại viên cảnh trí), (3) trí huệ của lòng bi tự khởi, (4) trí huệ của sự phân biệt (Diệu quan sát trí) và (5) trí huệ của sự bình đẳng (Bình đẳng tánh trí).
3. Paht là chữ cuối của thần chú gây kinh hãi này. Một phù thủy thốt lên chữ này với những chữ khác khi ném một lời chú thuật lên kẻ thù. Ngược lại, một thiền giả, thốt lên thần chú này như một phần của tiến trình thiền định để giải tan những lực lượng đối nghịch bên trong ngăn chặn trên con đường giác ngộ. Trong thiền định mật truyền, chữ này được thốt lên hết cả sức mạnh để đem tâm trở lại sự chú ý.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 1
1. Giáo lý Đại Toàn Thiện. Câu này ám chỉ giáo pháp Atiyoga, là hình thức cao nhất của giáo lý bí truyền trong truyền thống Tây Tạng.
Câu đầu toàn thiện ở gốc rễ nói đến tính cách thâm sâu nhất của con người, tánh giác bổn nguyên của nó. Tánh giác này không bị ô nhiễm bởi năng lực của cái ngã và ngay cả chư Phật cũng không thể làm biến chất nó. Tinh túy tối hậu là một hợp nhất không thể phân ly của sự tri nhận siêu việt và tánh không vốn sẵn của nó đến mức sự hợp nhất đó vượt khỏi nhị nguyên của sanh tử và niết bàn, nhị nguyên này còn hiện hữu chừng nào con người còn bị sự mê lầm về cái ngã và về những hiện tượng cai trị.
Điều này dẫn đến câu toàn thiện ở chót đỉnh, nó bao hàm một quán chiếu cao hơn trong con đường nhờ một sự thức tỉnh tự nhiên. Trạng thái này được đem lại trước tiên nhờ sự quán đảnh truyền pháp nhập môn và rồi được nhen nhúm lại nhờ thiền định trong mọi cách thức tự chuyển hóa. Câu toàn thiện nơi quả của giác ngộ ám chỉ giác ngộ không phải là một đối tượng lìa khỏi tánh tỉnh giác nguyên sơ của con người. Thiền định về nó ban ngày thì thành Phật trong một ngày... Chỉ rằng cái giác ngộ này là vốn sẵn, bẩm sinh trong sự tỉnh giác vào mỗi khoảnh khắc của dòng hiện sinh của người ta và rằng người sơ học chỉ việc tự mở mình ra với chân lý này.
2. Ngọn cờ chiến thắng, là một trong tám biểu trưng tốt lành. Hình tượng truyền thống này được dương lên trên đỉnh các chùa Phật giáo, những tu viện và nhà riêng có trọn bộ Đại tạng.
3. Rinpoche là một từ tôn kính, nghĩa đen là “Bậc Quý Báu” dùng để chỉ những vị lama. Từ này cũng nối kết với biểu tượng truyền thống Viên Ngọc Như Ý. Khi cầu nguyện vị lama bổn sư của mình, một đệ tử có thể nói đến ngài như “vị lama của con, ngài là Viên Ngọc Như Ý.”
PHẦN HAI, CHƯƠNG 2
1. Yidam Chakrasamvara. Chakrasamvasra là một bổn tôn yidam đặc biệt thuộc về tantra Mẹ. Lý thuyết và thực hành của sự tự chuyển hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát triển của trí huệ siêu việt và về sự chứng ngộ tánh giác nguyên sơ, được diễn tả như tánh không của sự sáng tỏ quang minh. Tuy nhiên, nó không loại trừ phương pháp đạt đến hình tướng Báo thân, cái này là thực hành chính của Guhyasamaja. (Xem Chú thích 2, ở dưới.)
2. Guhyasamaja. Một yidam, của Anuttara Tantra. Guhyasamaja là sự biểu lộ của Pháp thân thống nhất trong nó những thuộc tính của tất cả chư Phật. Lý thuyết và thực hành của sự tự chuyển hóa nối kết với yidam này chủ yếu về sự phát triển lòng bi vô biên như là một sức mạnh động lực và về những chuyển hóa thiện xảo khéo léo những hợp uẩn tâm sinh lý, và đặc biệt những năng lực dấu kín của chúng, thành hình tướng Báo thân. Yidam này thuộc về tantra Cha. Có những hình thức khác nhau của Guhyasamaja.
3. Dorje Pahgmo. Vajravarahi trong tiếng Sanskrit. Tên của một dakini và một hình thức thực hành thiền định.
4. Hevajra. Một yidam theo Anuttara Tantra. Giáo lý của dòng thực hành này thuộc về truyền thống Bất Nhị (nghĩa là không thuộc riêng tantra Cha hay tantra Mẹ). Nó phối hợp những yếu tố của cả hai tantra Cha và tantra Mẹ. Trong một nghĩa thực hành điều đó có nghĩa là phối hợp hai thực hành chính yếu, tức là sự chuyển hóa thân thể phàm trần thành cấp độ Báo thân và sự chứng ngộ tánh không bẩm sinh của tánh giác.
5. Tám Ngàn Bài Kệ. Astasahasrika Prajnaparamita.
6. Taktugnu. Một Bồ tát trải qua nhiều thử thách không thể nghĩ bàn để tìm cầu Pháp. Có một tiểu sử Taktugnu trong tiếng Tây Tạng.
7. Hai Phần. Ám chỉ những bộ phận chính của Hevajra Tantra.
8. Mudra. Ấn là những cử chỉ tượng trưng của bàn tay hay tư thế thân thể là một phần của thực hành mật truyền.
9. Maitrepa, là một vị thầy Phật giáo Ấn Độ. Marpa đã nhận giáo lý mật truyền về Đại Ấn từ ngài khi du hành qua Ấn Độ. Marpa trao truyền giáo lý này cho Milarepa, Mila lại trao truyền cho Gampopa, Retchungpa... cho đến những vị thầy của ngày nay.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 3
1. Chén rượu bằng sọ người. Kapala trong tiếng Sanskrit. Chén rượu làm bằng chỏm của một cái sọ người.
2. Mạn đà la Chakrasamvara. Mạn đà la tượng trưng “cung điện-chùa” là chỗ nhóm hội của sáu mươi hai thần do Chakra-samvara và dakini phối ngẫu Vajravarahi làm chủ. Cung điện-chùa và những vị trú ngụ cũng tượng trưng cho thực tại tối cao, trong đó Pháp thân của Phật có thể phóng chiếu ra ngoài và Lama Marpa cũng phô bày thực tại đó qua hành động của Tâm Giác Ngộ khi quán đảnh cho Milarepa.
3. Ba mươi hai nơi chốn linh thánh và tám nơi hỏa thiêu vĩ đại. Tám chỗ hỏa táng hay nghĩa địa lớn, được đề cập trong nhiều bản văn mật thừa quan trọng được tin là nằm trong nhiều miền của bán lục địa Ấn Độ. Chúng đã được nhiều hành giả và thiền giả chọn và sùng bái như những nơi để thực hành những chuyển hóa nhận thức về những hoàn cảnh ghê gớm. Trong truyền thống Tây Tạng “hai mươi bốn nơi linh thánh” và “tám nơi hỏa thiêu vĩ đại” đôi khi để ám chỉ “ba mươi hai nơi linh thánh”. Có nói rằng đó là những nơi được ban phước bởi đức Phật với những hóa hiện của Ngài trong hình tướng Chakrasamvara và hội những hóa thần bổn tôn. Ngày nay những nơi ấy được xem là những cõi vô hình của các daka và dakini, những vị nâng đỡ cho sự thực hành của những người đã nhập môn. Mật thừa Phật giáo xem những phần đặc biệt của thân thể con người là phần tiểu vũ trụ tương đương với ba mươi hai nơi linh thánh.
4. Ta đã đi gặp con trong giả trang làm một người cày ruộng. Marpa đã thực hiện một hành động kính trọng mà không biểu lộ ra như thế. Mọi hành động kỳ lạ của Marpa như vậy có một ý nghĩa dấu kín nhưng rất giản dị. Người ta càng đi xa bao nhiêu để gặp một người khách, thì sự tôn trọng càng lớn lao.
5. Lửa Tummo. Danh từ “Tummo” nghĩa là “người (nữ) làm những lực lượng chấp ngã phải kinh hãi”. “Tum” là hành động anh hùng như là một phương tiện thiện xảo, trong khi “mo” để chỉ trí huệ tối thượng. Lửa ẩn kín Tummo khởi lên trong Tsa-u-ma (trung tâm thần kinh ở chính giữa) và trong những mạng lưới trong xương sống và làm cho những năng lực hoạt động của hai kinh mạch của hệ thống thần kinh trung ương được chuyển đúng trong kinh. Bấy giờ “lửa” này được dùng cho sự chế ngự và khai thác năng lực sáng tạo. Tiến trình này bảo đảm cho sự tịnh hóa những yếu tố vật lý và tâm lý được thành tựu đồng thời với cảm giác về lạc tối thượng được sản sanh. Dù tự thân lửa không phải là đối tượng thật sự cho nguồn cầu đạo, tuy nhiên nó được dùng như là một phương tiện để hoàn thành một sự tự chuyển hóa toàn triệt một cách hiệu quả nhất. Hành giả đem tri giác về thực tại trong khi thiền định đến việc trải qua kinh nghiệm phi thường này. Một tri giác sanh từ trí huệ như thế thấy trong cái lạc tối thượng này tánh không của bản ngã và của mọi hiện tượng và nhờ đó hiểu được sự hợp nhất của lạc và không.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 4
1. Sáu mươi giọng Phạm Thiên. Sáu mươi phẩm tính, phương diện và âm điệu của giọng nói đức Phật. Trong đó có năng lực độc nhất của giọng nói hay ngôn ngữ của Phật có khả năng truyền thông đến mỗi cá thể theo cách mà cá thể đó hiểu rõ nhất.
2. Tám mươi bốn ngàn phương diện. Kinh điển Phật giáo nói đến tám muơi bốn ngàn phương diện mê lầm và ô nhiễm của tâm thức và bởi thế có tám mươi bốn ngàn phương thuốc chữa của Pháp. Con số này nói lên tầm lớn rộng và sai khác của tâm thức con người. Tám vạn bốn ngàn phương diện chia ra làm bốn phạm trù. Mọi nhiễm ô của tâm thức gồm bốn nhóm : (1) mê lầm, (2) tham, (3) sân và (4) sự hỗn hợp của ba phiền não này. Tương tự, có bốn loại phương thuốc của Pháp là những giáo lý. Loại thứ nhất nói về cách tri giác thực tại được chỉ ra trong abi dharma (a tỳ đàm) và bát nhã ba la mật ; loại thứ hai, giới luật trong Luật tạng ; thứ ba, sự làm bình lặng tính nhị nguyên của tâm thức và đánh thức phần cao hơn của tâm thức trong Kinh. Và thứ tư là sự nhanh chóng đạt được sự tự chuyển hóa trong Tantra.
3. Bồ đề tâm. Nguyên lý trung tâm của Đại thừa. Đó là Tâm Giác Ngộ, một quan tâm toàn diện và vô điều kiện đối với sự giải thoát của chúng sanh khỏi sự trói buộc của vòng sanh tử. Mỗi người theo Pháp cần phát triển không chỉ lòng đại bi cho tất cả chúng sanh, mà cũng phải thành tựu một thức tỉnh trọn vẹn với cấp độ tối hậu của Bồ đề tâm. chỉ lúc bấy giờ người ta mới hoàn thành giác ngộ qua hành động vô ngã của lòng bi và trí huệ tối thượng.
4. Bốn phương diện của quán đảnh. Bốn giai đoạn quán đảnh truyền pháp theo Kim Cương thừa là như sau :
1. Quán đảnh “cái bình” là sự truyền pháp qua sự biểu lộ của một hóa thần bổn tôn, việc này chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa bên trong của những hình tướng tri giác.
2. Quán đảnh “sự hợp nhất được che giấu” là sự truyền pháp qua ngữ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa những năng lực của thân, ngữ và âm thanh.
3. Quán đảnh “trí huệ tối thượng” là sự truyền pháp qua tâm giác ngộ của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự chuyển hóa thức.
4. Quán đảnh “đồng hóa không thể nghĩ bàn” là sự truyền pháp qua bản tánh tối hậu của hóa thần bổn tôn, nó chuẩn bị cho người nhập môn sự Giác Ngộ Viên Mãn.
Để rõ thêm về nghĩa che giấu, xem Chú thích 11 dưới đây.
5. Đại Ấn (Mahamudra). Ám chỉ một trạng thái thức tỉnh (được diễn tả như là “tánh giác nguyên sơ”) bao gồm cái nhất thể mở bày toàn khắp của lạc tối thượng và tánh không vô sanh của nó, nghĩa là kinh nghiệm giác ngộ và thành tựu. Thiền định Đại Ấn là một phương tiện để thực hiện cái ấy một cách trực tiếp. Đại Ấn được định danh như vậy bởi vì mỗi người nhập môn đã thoáng thấy một trạng thái “tánh giác” trong khi quán đảnh, và họ tiếp tục “dán cái đại ấn” ấy của sự quán thấy thấu suốt của họ vào mọi tri giác của họ về thực tại. Phái Kagyuš nói đến hai truyền thống Đại Ấn, một theo Kinh và một theo Tantra.
Những trường phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng đem lại những quan điểm khác nhau về giáo lý và đường lối thiền định liên hệ với Đại Ấn.
6. Sáu Giáo Pháp Mật Truyền : Ám chỉ đến những phương diện trọng yếu của Yoga mật thừa Phật giáo. Đôi khi được biết như là sáu giáo pháp của Naropa :
1. Yoga xử lý với Lửa tối thượng Tummo
2. Yoga của thân vi tế
3. Yoga của giấc mộng
4. Yoga của tánh giác quang minh
5. Yoga của sự chuyển di dòng tâm thức
6. Yoga của trạng thái trung ấm Bardo
7. Chuyển di Tâm thức vào Xác chết. Sự thực hành này của sự chuyển di dòng tâm thức vào một người vừa mới chết hay con vật mới chết thì khác biệt với sự chuyển di vào một cõi đã chọn vào lúc chết. Marpa đã đem giáo lý trước vào Tây Tạng và truyền cho Milarepa và người con trai của mình, Darma Doday. Darma Doday đã chuyển di dòng tâm thức của mình vào thân một con chim vào lúc ông chết trong một tai nạn. Theo những dạy bảo của Marpa, con chim bay đến Ấn Độ, ở đó Doday chuyển vào xác chết của một người Bà la môn trẻ, người về sau trở thành một vị thầy được biết với tên là Bồ Câu Của Cây Huyền Bí.
8. Garuda (Kim Xí Điểu) Theo thần thoại cổ, Garuda là một chúng sanh cõi trời cư ngụ nơi cây như ý trong cõi trời thứ ba mươi ba. Nó là một lực lượng chống lại những rồng trời (long) ở dưới đáy biển. Trong truyền thống mật thừa Phật giáo có những yidam Garuda thuộc về năm bộ Phật.
9. Quán đảnh Anatmata. Ám chỉ Anatmata, dakini phối ngẫu của Chakrasamvara.
10. Sự Thanh Tịnh của Tánh Giác : Một trong sáu giáo pháp mật truyền, đồng nghĩa với Sự Sáng Tỏ Quang Minh của Tánh Giác. Xem Chú thích 6 ở trên.
11. Sáu cách và bốn phương pháp. Bốn phương pháp giải thoát và sáu cách soi sáng giáo pháp mật thừa Phật giáo. Bốn phương pháp là : (1) nghĩa đen, gồm nghĩa tượng trưng và mật chú ; (2) nghĩa tổng quát ; (3) nghĩa che giấu (những sự nói bóng gió đến một vài giải thích trọng yếu bị bỏ đi) ; (4) nghĩa tối hậu. Sáu cách là : (1) và (2) những giáo lý được ban với ý định che giấu hay không ; (3) và (4) những giáo lý có những nghĩa bề ngoài hay tối hậu ; (5) và (6) những giáo lý có những nghĩa đen theo ngữ nguyên và những giáo lý có một nghĩa khác với nghĩa đen.
12. Những viên thuốc “tiên”. Nguồn gốc của những viên thuốc này là những đạo sư giác ngộ Ấn và Tạng cổ thời có thần lực và cách luyện đan bí truyền khiến các ngài có thể chuyển hóa năm loại thịt và năm loại chất lỏng thành thuốc cho những người nhập môn. Thời nay, những viên thuốc được làm từ những loại cây cỏ khác nhau và những chiết xuất từ những viên thuốc cổ xưa còn lại. Rồi chúng được gia bị bằng sự thiền định của những lama. Một sọ người, thật hay làm giả, được dùng để chứa. Sọ người là biểu trưng của tánh giác cao nhất bao gồm lạc và tánh không của tánh giác. Một thiền giả thực hành sự chuyển hóa trọn vẹn những giác quan thành năm phương diện của tánh giác sáng tỏ, tức là giác ngộ, điều này là sự dung nhập trọn vẹn của quán thấy thấu suốt của trí huệ và cảm giác về lạc tối thượng.
13. Năm Bộ Phật : Năm biểu lộ của Báo thân : Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Ratnasambara (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu) và Vairochana (Tỳ Lô Giá Na). Mỗi vị Phật này hiện thân những phương diện đặc biệt của tánh giác đã giác ngộ (hay trí huệ giác ngộ) : trí huệ như tấm gương, trí huệ của sự bình đẳng, trí huệ phân biệt, trí huệ của sự thành tựu hành động một cách tự nhiên, và trí huệ tánh không toàn khắp.
14. Damaru và kapala : Damaru là một cái trống đôi làm bằng hai đỉnh sọ đâu vào nhau. Kapala là một cái sọ đựng rượu, đôi khi thiên nhiên, đôi khi làm bằng chất liệu quý.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 5
1. Lâu Đài Châu Ngọc. Ám chỉ kinh Maharatnakuta, một kinh Đại thừa. Maharatnakuta gồm sáu trong 104 bộ kinh được sưu tập thành đại Tạng Kangyur.
2. Ma. Có bốn loại khác nhau : (1) như là mê lầm bên trong, (2) như là năm uẩn nhốt tù con người trong vòng quay của sanh tử, (3) như năng lực không thể đánh bại của cái chết, (4) như ma quỷ cả ở trong lẫn ở ngoài – như Vua Garab Ouangduk của cõi Trời Làm Mê Lầm, và như năng lực của chấp ngã, cả hai loại ma này tìm cách quyến rũ người ta vào những hành động tai hại và lôi kéo nó ra khỏi những theo đuổi thực sự lợi lạc.
3. Om, Ah, Hum. Om tượng trưng sự biểu lộ của giác ngộ. Ah tượng trưng ngữ của giác ngộ. Hum tượng trưng hiểu biết tối thượng.
4. Núi Tisi. Núi Kailas. Đối với người Tây Tạng đây là chỗ ở thiêng liêng của Yidam Chakrasmvara và nhiều vị A La Hán bất tử, trong khi đối với người Ấn Độ đó là cõi của Shiva và phối ngẫu là Uma.
5. Cõi của những Dakini. Ngoài nghĩa bề ngoài, nghĩa thật là trạng thái tối thượng của Pháp thân.
6. Những dakini của ba giai đoạn của con đường. Những vị này ở trong ba cõi, tức là không gian, mặt đất và dưới mặt đất. Những daka và dakini, hoặc vô hình hay là người, đã hoàn thành sự chuyển hóa ban đầu, cao hơn hay đã giác ngộ.
7. Mười hai thiên nữ. Mười hai dakini vô hình đã được Guru Padmasambhava hàng phục ở Palmo Palthang xứ Porong, miền tây Tây Tạng, và được ngài chỉ định bảo vệ những người nhập môn tu học và những thiền giả của dòng Kim Cương thừa.
8. Dusolma. Một thiên nữ có hình dạng hung nộ mà Marpa xem là vị bảo hộ của truyền thống Kagyuš.
9. Thầy đến trong chỉ ba ngày. Trong ba ngày, Milarepa đã làm một cuộc hành trình mà nếu bằng phương tiện tự nhiên người ta phải mất hàng tháng.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 6
1. Xương của mẹ thầy. Xương được tán và trộn với đất sét để làm thành những tượng nhỏ hay tháp nhỏ.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 7
1. Tsayi Koron. Một tên khác của nơi sanh Milarepa, Kya Ngatsa.
2. Dây thiền định. Là một sợi dây để ngồi thiền được làm từ vải hay len. Thiền giả mang nó từ vai bên trái vòng qua ngực và xuống một hay hai đầu gối.
3. Nguồn thức. Ám chỉ cái được xem là nguồn của tất cả thức (Alaya-vijnana tiếng Sanskrit). Phái Duy tâm thức của Phật giáo Ấn Độ đề nghị lý thuyết rằng mọi tiến trình tư tưởng phát sinh từ và tự tan vào trong nguồn thức. Toàn thể thế giới hiện tượng chỉ là một sản phẩm của tâm thức, “thực tại khách quan” là một ảo tưởng của tâm thức. Cũng chính tâm thức này tạo ra một cái ta “có thực” từ tưởng tượng thuần túy. Khi từ chối một sự nhị nguyên như vậy, phái này xác nhận thực tại chủ thể của nguồn thức – được định nghĩa như thuần chỉ trong suốt và tỉnh giác. Nó được xem là hoàn toàn trung tính, trong nghĩa là một nền tảng hay căn cứ. Trong truyền thống mật truyền, nguồn thức là trí huệ như tấm gương, nó được chứng ngộ khi những mê lầm của tâm thức đã được trừ sạch. Tâm thức bình thường bị những tư tưởng nhiễm ô khống chế, chúng có thể được so sánh với sự dơ bẩn làm dơ nhiễm nguồn thức. Qua tiến trình chuyển hóa, sự nhiễm ô của những tư tưởng bị xóa tan và bản tánh của tánh giác thanh tịnh bấy giờ được thấu hiểu như là giác ngộ.
4. Cái nồi màu lục : Vật thiêng liêng này hiện còn và được giữ gìn ở Tsahilhunpo.
5. Con sẽ trộn cái gì với nước ? Thêm bột lúa mì vào nước là một tục lệ của người Tây Tạng.
6. Kali Yuga (Thời đen tối). Ám chỉ chu kỳ thứ tư và cuối cùng của thời gian của vũ trụ của chúng ta. Ba chu kỳ đầu là Satya Yuga (hoàn thành hạnh phúc), Treta Yuga (hạnh phúc ba phần) và Dwapara Yuga (hạnh phúc hai phần). Thời đại Kali Yuga được đánh dấu bởi (1) ngụy biện trí thức nơi lãnh vực của sự chứng đắc tâm linh, (2) sự suy đồi về phẩm chất của đời sống, (3) sự đe dọa tăng lên đối với một cuộc đời ngắn ngủi, (4) những quan niệm sai lầm và sự bất tịnh của tâm trí, và (5) sự lan tràn của bạo lực và xung đột.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 8
1. Thiên nữ Tseringma. Một trong năm thiên nữ chị em, họ đã trở thành những đệ tử của Milarepa và sau này là những hộ pháp cho dòng phái của ngài.
2. Sáu Cách Thức Giác về Lama của Mình. Bài ca của Milarepa trong đó ngài kê ra sự tưởng nhớ sáu phần về lama của ngài. (Bài ca này có ghi lại trong “Một Trăm Ngàn Bài Ca” Xem bản dịch tiếng Anh của Garma Chang.)
3. Thiên nữ Tara là một trong những yidam. Có nhiều hình tướng, ngài được xem là hiện thân của lòng bi mở khắp của tất cả chư Phật.
4. Bošn là tôn giáo cổ của Tây Tạng trước Phật giáo. Tôn giáo Bošn nguyên thủy là một hình thức thờ phụng thiên nhiên. Nó dạy niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, gồm đấng sáng tạo tối thượng, bạn đạo giữa cộng đồng con người và sống hòa điệu với thiên nhiên xung quanh. Tôn giáo Bošn ngày nay là một hệ thống phát triển cao những lý thuyết siêu hình học và những kỹ thuật thiền định.
5. Chidroš Thigtsakma. Bài ca của Milarepa với tiêu đề này nói về sự thực hành Pháp để cho người ta có thể đối mặt với cái chết không thể tránh của mình với hoan hỷ lớn lao. Từ Chidroš nghĩa là niềm vui khi chết ; Thigtsakma, giống như sự sửa lại đúng thời một tấm trần hư dột.
PHẦN HAI, CHƯƠNG 9
1. Geshe. Một danh hiệu dành cho những lama hay nhà sư đã thành công trải qua những kỳ thi trong hình thức tranh luận công khai về những chủ đề trong kinh điển Phật giáo về siêu hình học và luận lý.
2. Năm đối tượng của niềm vui giác quan : Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
3. Năm cấp độ của cái nhìn thấy. Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn.
4. Năng lực Bốn phần của Hành động. Một “thần bảo vệ quyền năng”, một bồ tát đã thành tựu năng lực phi thường, tự nhận công việc làm cho hoàn thành những mục tiêu khác nhau của chính ngài và của những người khác qua Bốn Hành Động :
1. Hành Động Làm Bình Lặng : tịnh hóa tâm thức, loại trừ khổ đau và chữa lành những bệnh tật.
2. Hành Động Hoàn Thành Dần Dần : những thực hành để mở rộng những khả năng của trí năng, tăng trưởng hạnh phúc, kéo dài tuổi thọ và v.v...
3. Hành Động Cảm Ứng những người Cầu Đạo : ám chỉ sự thu hút tất cả những vũ trụ và chúng sanh đến với mình và đặt họ vào ảnh hưởng tâm linh của mình, hay để làm tăng sự phụng sự tâm linh của mình cho lợi lạc của họ.
4. Hành Động Hung Nộ : ám chỉ sự nắm lấy năng lực tiêu cực để loại trừ mọi ảnh hưởng đối nghịch và để bảo vệ nhân loại khỏi sự hoành hành, cai trị của những thế lực nghịch với đạo pháp.
5. Shonnu (Kumara) Điều này ám chỉ một sự ví von của Milarepa về giờ phút chết là không thể tránh và không thể đảo ngược. Dù đức Phật cũng đã bị bệnh nặng và cho phép y sĩ Shonnu bắt mạch xem bệnh ngài.
6. Đại Ấn của tánh Không. Tánh Không được xem là Đại Ấn, như là bản tánh tối hậu của thực tại, khiến một tâm thức đã thức tỉnh tri giác dấu in không thể tẩy xóa của tánh Không trên tất cả mọi sự vật, có điều kiện hay không bị điều kiện hóa, (hữu vi hay vô vi). (Cũng xem Chú thích 5, Phần Hai, Chương 4.)
7. Chòm sao thứ chín âm lịch. Một chùm sao mà tính chất là vững chắc và viên mãn. Như thế ngày đó đánh dấu sự đại viên mãn của Milarepa, sự đi vào tánh Không của Pháp thân.
8. Năm bộ dakini. Chúng hội những dakini đại diện năm tính chất tâm linh hay những thuộc tính tâm lý vừa cả trong bản tánh siêu việt vừa trong sự biểu lộ thân xác của họ. Năm hình thức dakini giống như năm bộ Phật và năm phương diện của trí huệ siêu việt.
9. Ram. Chữ, âm thiêng liêng này tượng trưng Nguồn của Yếu tố Lửa trong bản tánh tối hậu của tánh Không bẩm sinh nội tại trong lửa.
10. Sunyata. Một từ có nghĩa tánh Không, phân biệt với không có gì. Những trường phái Phật giáo nhận thức Sunyata là tánh không nội tại của ngã hoặc của pháp, hay tánh không của cả ngã và pháp. Cái sau là quan niệm của Trung Đạo về thực tại như là tánh không toàn diện, không có bất kỳ thực thể nào dù xuống đến tận nguyên tử cực vi. Tuy nhiên một tánh không như thế cũng được hiểu là nguồn của mọi nhân và quả có thể được trong thế giới vật chất hay thế giới tâm thức. Sự tương thuộc duyên sanh của những nguyên nhân và kết quả thuộc hiệân tượng là đồng nghĩa với tánh không nội tại của mọi sự.
11. Bardo. Trạng thái của chu kỳ đời sống giữa đời hiện tại và đời tương lai. Những biến cố của Bardo bắt đầu từ giai đoạn chót của cái chết khi sự tan rã của những nguyên tố và năng lượng trong các uẩn tâm sinh lý xảy ra. Truyền thống Tây Tạng xem sự thấu hiểu về cái chết và Bardo là một yếu tố cần thiết trong sự chuyển hóa những kinh nghiệm sống của con người.
12. Tám biểu hiện tốt lành. (1) Một cái lọng, (2) một cặp cá bằng vàng, (3) một vỏ tù và xoáy về bên phải, (4) một cái nút không có chỗ chấm dứt, (5) lá phướn của sự tuyệt hảo tối thượng, (6) Bánh Xe Pháp, (7) bình kho tàng vĩ đại,
(8) hoa sen.
13. Bảy biểu hiện vương giả. Hoàng hậu quý báu, thừa tướng, chiến sĩ, ngọc như ý, bánh xe, voi và ngựa. Chúng tượng trưng Bảy Ngọc Báu của những Bậc Giác Ngộ. (Xem Chú thích 1, Kết Từ, ở dưới.)
14. Chữ Vạn. Là một biểu tượng Phật giáo của chân lý và vĩnh cửu. Danh từ này nghĩa đen là “cái vĩnh cửu”.
15. Những chủng tử tự của thần chú. Ám chỉ “thần chú gốc” (Tsa-ngak). Đó là thần chú căn bản nối kết với mỗi yidam. Thần chú gốc được gọi như vậy bởi vì một vài chữ đơn giản có thể phơi bày một giáo lý bao la và đa dạng về sự chuyển hóa trọn vẹn những điều kiện bẩm sinh của con người.
16. Một Ngàn Lẻ Hai Vị Phật. Ám chỉ đến một ngàn vị Phật của kiếp này.
17. Một mạn đà la của những dakini. Ở đây nghĩa là một chúng hội dakini.
18. Avaloketsvara (Quán Thế Âm), yidam hiện thân lòng bi vô cùng của chư Phật. Những hóa thân chính của Avaloketsvara ngày nay là đức Dalai Lama và đức Gyalwa Karmapa.
PHỤ CHÚ
1. Năm dakini chị em. Năm thiên nữ chị em : Dorje Tseringma, Dorje Yudonma, Miyolosangma, Chopen Drinzangma, và Tekar Drozangma.
2. Acharya Maitrepa. Thầy của Marpa, đã truyền cho ngài Đại Ấn. (Xem Chú thích 9, Phần Hai, Chương 2.)
3. Bốn Biểu Lộ Tối Thượng là chi tiết của ba phương diện của Phật, tức là Tự tánh thân (Svabhavekakaya), Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Shambayakaya) và Hóa thân (Nirmanakaya).
4. Năm Phương Diện của Trí Huệ : Xem Chú thích 13, Lời Mở Đầu và Chú thích 2, Phần Một, Chương 3.
KẾT TỪ
1. Bảy Ngọc Báu của các Bậc Giác Ngộ. Bảy Ngọc Báu của các A La Hán được gọi như vậy vì chúng cần thiết cho sự hoàn thành giải thoát : (1) niềm tin đầy đủ vào Tam Bảo, (2) trong sạch về đạo đức, (3) rộng lượng, (4) sở đắc hiểu biết chơn chánh, (5) cần mẫn tích cực, (6) tự chế trong những cân nhắc về xã hội và môi trường, và (7) hạnh kiểm tận tâm, chu đáo.