Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (8)


Xem mục lục
GIẢI THÍCH: PHẨM SÁU ĐỘ TƯƠNG NHIẾP THỨ 68
(Kinh Đại Bát Nhã Phần 2 ghi: Phẩm Tương Nhiếp thứ 67)
KINH: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật mà được Giới ba-la-mật?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát khi bố thí, đem công đức bố thí ấy hồi hướng đến Nhất thiết trí, đối với chúng sinh giữ thân nghiệp từ, khẩu nghiệp từ, ý nghiệp từ; ấy là Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật mà được Giới ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật mà được Nhẫn ba-la-mật?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát khi bố thí bị người lãnh thọ thí sân giận, mắng nhục, nói lời hung dữ, khi ấy Bồ-tát nhẫn nhục không sinh tâm giận, ấy là Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật được Nhẫn ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật mà được Tấn ba-la-mật?

* Trang 760 *
device

Phật dạy: Bồ-tát khi bố thí bị người lãnh tho sân giận, mắng nhục, nói lời hung dữ, Bồ-tát càng bố thí thêm và tâm nghĩ rằng: Ta nên cấp thí, không nên tiếc gì, tức thời thân tinh tấn, tâm tinh tấn; ấy là Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật được Tấn ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật được Thiền ba-la-mật?
Phật dạy: Bồ-tát khi bố thí chỉ hồi hướng đến Nhất thiết trí, không hồi hướng đến Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa, chỉ nhất tâm quán niệm Nhất thiết trí; ấy là Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật được Thiền ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao trú trong Thí ba-la-mật được Bát-nhã ba-la-mật?
Phật dạy: Bồ-tát khi bố thí biết việc bố thí là không, như huyễn, không thấy vì bố thí cho chúng sinh là hữu ích, vô ích;[1] ấy là Bồ-tát trú trong Thí ba-la-mật được Bát-nhã ba-la-mật.
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Làm sao Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Thí ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật và Bát-nhã ba-la-mật?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật, thân, miệng, ý sinh phước đức bố thí, giúp thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; với
 

[1] T. 7: Đại bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (大般若波羅蜜多經), phần thứ hai (第二分), quyển 459, tr. 317a27-28: không thấy bố thí này đối với các hữu tình có ích có tổn, đạt được hết thảy pháp thắng nghĩa không.

* Trang 761 *
device

công đức ấy không thủ chứng Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa; trú trong Giới ba-la-mật không cướp mạng sống kẻ khác, không cướp tài vật kẻ khác, không hành tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không miệng dữ, không nói thêu dệt, không tham lam tật đố, không sân giận, không tà kiến. Thực hành bố thí, người đói cho ăn, người khát cho uống, cần xe cho xe, cần áo cho áo, cần hương cho hương, cần chuỗi anh lạc cho chuỗi anh lạc; hương xoa, đồ nằm, phòng nhà, đèn đuốc, các vật cần nuôi sống đều cấp cho hết. Đem công đức bố thí ấy chia sẻ cho chúng sinh cùng hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hồi hướng như vậy không đọa vào Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Thí ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Nhẫn ba-la-mật?
Phật dạy: Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật, nếu có chúng sinh đi đến cắt xẻ từng mảnh, Bồ-tát không sinh tâm sân giận, cho đến chỉ trong một giây lát, tự nói rằng: Ta được lợi lớn, chúng sinh đi đến lấy từng chi tiết thân ta để dùng, ta không một niệm sân giận; ấy là Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Nhẫn ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Tấn ba-la-mật?

* Trang 762 *
device

Phật dạy: Nếu Bồ-tát thân tinh tấn, tâm tinh tấn thường không bỏ, nghĩ rằng: Hết thảy chúng sinh ở trong sinh tử, ta sẽ cứu vớt đem đặt trên đất cam lồ, ấy là Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Tấn ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn!  Làm sao Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Thiền ba-la-mật?
Phật dạy: Bồ-tát vào Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, không tham Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa, nghĩ rằng: Ta sẽ trú trong Thiền ba-la-mật, độ hết thảy chúng sinh khỏi sinh tử; ấy là Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Thiền ba-la-mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Bát-nhã ba-la-mật?
Phật dạy: Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật không có pháp có thể thấy, hoặc tác pháp, hoặc hữu vi pháp, hoặc số pháp, hoặc tướng pháp, hoặc có, hoặc không; chỉ thấy các pháp không ngoài tướng Như. Vì có Bát-nhã ba-la-mật và sức phương tiện nên không đọa và Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa; ấy là Bồ-tát trú trong Giới ba-la-mật được Bát-nhã ba-la-mật.[1]
LUẬN : Cuối phẩm trước nói[2]: Làm sao Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ sáu Ba-la-mật? Phật đã mỗi mỗi đáp. Trong phẩm này Tu-bồ-đề hỏi: Làm sao Bồ-tát
 

[1] T. 7: Đại bát-nhã ba-la-mật kinh (大般若波羅蜜多經), phần thứ hai (第二分), quyển 459, tr. 317b29-c8: Thiện Hiện! Nếu Bồ-tát trú trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không thấy có pháp hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc hữu ký, hoặc vô ký, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi,  hoặc đọa có số, hoặc đọa không số, hoặc có tướng, hoặc không tướng, chỉ quán các pháp, không lìa chơn như, rộng nói cho đến bất tư nghì giới, chơn như này cũng không thể có được, vì phương tiện thiện xảo ba-la-mật-đa này nên không đọa vào Thanh-văn, Độc-giác địa, chỉ cầu Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Thiện Hiện! ấy là Bồ-tát ma-ha-tát an trú trong tịnh giới ba-la-mật-đa nên được bát-nhã ba-la-mật-đa.
[2] Cuối phẩm trước nói: Đại trí độ luận, quyển 67, tr. 622b26-c11.

* Trang 763 *
device

tu một Ba-la-mật mà thu nhiếp năm Ba-la-mật. Hỏi rằng: Sáu Ba-la-mật mỗi tướng khác nhau làm sao tu một Ba-la-mật mà thu nhiếp năm Ba-la-mật? Đáp rằng: Bồ-tát do sức phương tiện nên tu một Ba-la-mật có thể thu nhiếp năm Ba-la-mật.
* Lại nữa, pháp hữu vi vì nhân duyên quả báo tiếp tục nhau nên tạo thành nhau; thiện pháp làm nhân duyên cho thiện pháp; các Ba-la-mật đều là thiện pháp, nên tu một thời nhiếp được năm; lấy một Ba-la-mật làm chủ, các Ba-la-mật khác làm chi phần. Có Bồ-tát tu sâu về Thí ba-la-mật, an trú trong Thí ba-la-mật, khi bố thí cho chúng sinh, được có tâm từ, từ tâm từ khởi lên thân nghiệp từ, khẩu nghiệp từ, khi ấy Bồ-tát liền được Giới ba-la-mật, vì sao? Vì nghiệp từ là ba thiện đạo, căn bản của Giới ba-la-mật là không tham, không sân và chánh kiến. Ba nghiệp từ ấy sinh ra ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng. Từ tức là thiện nghiệp, vì lợi ích chúng sinh nên gọi là từ.
Được Tấn ba-la-mật (vīrya-pāramitā) là Bồ-tát vì Nhất thiết trí nên bố thí.
Bị người lãnh thọ giận là nếu thí chủ xướng rằng : Ta có thể bố thí hết thảy, nhưng người lãnh thọ không được vừa ý liền nói rằng: Ai bảo ông mời ta đến mà không theo ý ta? Giận là ý nghiệp ác (akuśala-manas-karma), mắng là khẩu nghiệp ác (akuśala-vāk-karma), đánh hại là thân nghiệp ác (akuśala-kāya-karma). Giận có thượng, trung, hạ. Thượng là giết hại; trung là mắng nhiếc; hạ là tâm giận. Bấy giờ Bồ-tát không sinh ba thứ ác nghiệp, ý nghiệp là gốc nên chỉ nói ý nghiệp (manas-karma), nghĩ rằng: 

* Trang 764 *
device

Đó là tội của ta. Ta mời người kia đến mà không thể làm vừa ý họ, do ta phước mỏng nên không thể bố thí đầy đủ. Nếu ta sân giận thời đã mất tài vật lại mất luôn phước đức, thế nên không nên giận.
Được Tấn ba-la-mật là nếu Bồ-tát khi bố thí bị người lãnh thọ đánh hại, tâm không thoái thất, không bỏ. Vì bố thí nên thân tâm siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Ta đời trước không cố gắng bố thí nên nay không thể làm vừa lòng người lãnh thọ, hãy nên siêng bố thí, không nên tính kể các việc nhỏ khác.
Được Thiền ba-la-mật (dhyāna-pāramitā) là Bồ-tát bố thí không cầu phước lạc đời nay, không cầu làm Chuyển luân Thánh vương, vua trời, vua người đời sau; cũng không cầu cái vui thiền định thế gian, vì chúng sinh nên không cầu cái vui Niết-bàn. Chỉ thu nhiếp các ý ấy vào trong trí Nhất thiết chủng không cho tán loạn.
Được Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā) là Bồ-tát trong khi bố thí, thường quán hết thảy pháp hữu vi tạo tác đều hư dối không kiên cố, như huyễn, như mộng. Khi bố thí cho chúng sinh, không thấy có ích, không ích, vì sao? Vì vật bố thí chẳng phải nhất định là nhân duyên của vui, hoặc có khi được ăn no bụng sình trướng mà chết; hoặc có khi được của cải mà bị giặc hại; hoặc cũng vì được của cải nên sinh tâm xan tham mà đọa vào ngạ quỷ. Lại, tài vật là tướng hữu vi, niệm niệm sinh diệt vô thường, là nhân duyên sinh ra khổ.
* Lại nữa, của cải vào trong các pháp thật tướng rốt ráo không, không phân biệt có lợi, không lợi. Thế 

* Trang 765 *
device

Thế nên, Bồ-tát đối với người lãnh thọ không cầu báo ân, đối với việc bố thí không mong quả báo. Giả sử cầu quả báo, nếu người kia không đền đáp thì sinh oán hận. Bồ-tát nghĩ rằng: các pháp rốt ráo không, nên ta không có cho gì; nếu cầu quả báo, hãy nên cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rốt ráo không. Như tướng bố thí, nên không thấy có ích; vì rốt ráo không nên cũng không thấy không có ích. Như vậy, ở nơi Thí ba-la-mật có được năm Ba-la-mật.
Bồ-tát lấy Giới ba-la-mật làm chủ, có thân, miệng, ý thiện nghiệp, bố thí, đa văn, tư duy, trì giới giúp thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; vì sức trì giới lớn nên tổng quát gọi là Giới ba-la-mật (śīla-pāramitā), vì sao? Vì ở trong cõi Dục, việc trì giới là trên hết, còn việc bố thí, đa văn, tư duy, tu tập trí tuệ, vì tâm ở cõi Dục tán loạn nên đắc lực mỏng manh. Như trong A-tỳ-đàm nói : Pháp để ra khỏi sự trói buộc vào cõi Dục, Sắc và Vô sắc chính là thiền định thanh tịnh; pháp học, vô học và Niết-bàn,[1] Bồ-tát cho việc trì giới v.v... ấy không hướng đến Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa, chỉ an trú trong Giới ba-la-mật, không cướp mạng sống của chúng sinh cho đến giới không tà kiến; đó là Giới trợ đạo, đầy đủ mười giới thiện đạo. Bồ-tát trú trong hai thứ giới ấy mà bố thí cho chúng sinh. Nếu cần ăn cho ăn v.v... như trong phẩm đầu đã nói rõ.[2] Đều đem phước ấy hồi hướng đến Phật đạo, không hướng đến Nhị thừa, vì sao? Vì Bồ-tát có hai thứ phá giới : Một là làm mười bất thiện đạo; hai là hướng tới Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa; trái với hai thứ ấy là hai thứ trì giới.
 

[1] T. 26: Chúng sự phần a-tỳ-đàm luận (眾事分阿毘曇論), quyển 4, tr. 649a9-a14: pháp để ra khỏi sự trói buộc vào dục giới; sắc giới và vô sắc giới là tịch tịnh thiện chánh thọ; học pháp, vô học pháp; và trạch diệt (số diệt); T. 26: Phẩm loại túc luận (品類足論), quyển 6, tr. 716, b19-23.
[2] Đại trí độ luận, quyển 30, chương 42: giải thích thiện căn cúng dường, tr. 277b10-279b1.

* Trang 766 *
device

Được Nhẫn ba-la-mật (kṣānti-pāramitā) là Bồ-tát ở trong Giới ba-la-mật muốn đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu có chúng sinh đi đến cắt xẻo thân thể từng mảnh đem đi, cho đến Bồ-tát không sinh một niệm giận, huống gì khởi lên thân, khẩu, ác nghiệp.
Hỏi: Nhẫn nhục là đối với hết thảy việc xâm hại đều nhẫn được, cớ gì chỉ nói nhẫn trước việc cắt xẻo thân thể?
Đáp: Vật được ưa đắm có trong, có ngoài. Trong là tự thân đầu, mắt, tủy, não v.v...; ngoài là vợ con, châu báu v.v... tuy đều là vật ưa đắm, nhưng vật ưa đắm bên trong sâu hơn. Có người nói đắm đuối theo của cải mà chết, ấy cũng là thân. Lại, người ta phần nhiều tiếc thân, có khi tiếc của, vì tiếc của ít nên không nói. Lại, người ấy còn không tiếc thân, huống gì tiền của! Thế nên chỉ nói việc lớn là đủ nhiếp việc nhỏ.
Hỏi: Bồ-tát cho đến không sinh một niệm giận, đó là đối với thân biến hóa hay là đối với thân cha mẹ sinh? Nếu đối với thân biến hóa thời không có gì kì lạ; nếu đối với thân cha mẹ sinh thì người chưa dứt kiết sử, làm sao không sinh một niệm giận được?
Đáp: Có người nói: Do phiền não nghiệp làm nhân duyên sinh thân, Bồ-tát trong vô lượng kiếp vì chúng sinh mà tu tập từ tâm, dầu có bị cắt xẻ cũng không giận, như cha mẹ lành nuôi con dại, tuy nó đái ỉa trên thân, vì lòng quá thương yêu mà không giận, lại thương nó không biết gì; Bồ-tát đối với chúng sinh cũng như vậy, những người chưa được Thánh đạo đều như trẻ nít, ta là Bồ-tát, nên sinh tâm từ; 

* Trang 767 *
device

như cha mẹ, dầu chúng sinh có gây ác đến với ta, ta không nên giận, vì sao? Vì chúng sinh bị phiền não sai sử, không được tự tại.
* Lại nữa, Bồ-tát từ vô lượng kiếp lại đây thường tu pháp rốt ráo không, không thấy người hại, người mắng, người lành, người dữ, hết thảy đều như huyễn, như mộng; những người sân giận đều là vô minh; nếu ta đáp trả họ, thời ta với họ không khác.
* Lại nữa, Bồ-tát nghĩ rằng: Chỗ đáng giận mà ta không giận thời là lợi lớn.
Được Tinh tấn ba-la-mật là ở trong Giới ba-la-mật phần nhiều là hạng người xuất gia, thỉnh thoảng có hạng người tại gia. Hết thảy người xuất gia đều được vô lượng giới luật nghi, đầy đủ bốn mươi thứ thiện đạo, sâu vào thật tướng các pháp, vượt quá Thanh-văn, Bích-chi-Phật  địa; ba thứ giới ấy gọi là Giới ba-la-mật. Người tại gia không có vô lượng giới luật nghi, thế nên không đầy đủ ở trong Giới ba-la-mật. Bồ-tát nghĩ rằng: ta nay bỏ cái vui thế gian mà vào đạo, không thể chỉ trú ở trì giới, vì trì giới là trú xứ của các công đức khác, nếu chỉ được trú xứ, không được các công đức khác thời được lợi rất ít; thí như người ở trong hòn đảo châu báu mà chỉ lấy được ngọc thủy tinh thời lợi rất ít. Vì thế nên, Bồ-tát muốn đủ năm Ba-la-mật nên thân tâm siêng năng tinh tấn. Thân tinh tấn là đúng như pháp làm ra của cải dùng đem bố thí; tâm tinh tấn là các ác tâm xan, tham v.v... hiện đến phá sáu Ba-la-mật, không để cho vào. Được hai thứ tinh tấn ấy rồi, nên nghĩ rằng: Hết thảy

* Trang 768 *
device

chúng sinh chìm đắm trong sinh tử, ta nên cứu vớt, đặt lên chỗ cam lồ, người Thanh-văn  chỉ độ một thân còn không nên giải đãi, huống gì Bồ-tát độ mình, độ chúng sinh mà giải đãi; vì lẽ ấy nên ta không nên giải đãi, phế bỏ; tuy thân khổ nhọc mà tâm không nên ngừng, vì cớ sao? Vì pháp Đại thừa này nếu không vận dụng thời bị bại hoại.
Được Thiền ba-la-mật là Bồ-tát ở trong Giới ba-la-mật hoặc vì chưa được pháp vô sinh nhẫn nên gió phiền não thổi động cây đại nguyện, muốn phá hoại Giới ba-la-mật ấy. Bấy giờ nên cầu cái vui thiền định, trừ bỏ cái vui năm dục lạc; cái vui năm dục trừ, nên giới được thanh tịnh, phiền não tuy chưa dứt hết, cũng đã bị nhiếp phục nên không thể gây loạn. Thí như rắn độc, vì bị sức chú thuật nên độc không thể phun nhằm. Thiền là bốn thiền, bốn định vô sắc, bốn tâm vô lượng. Bồ-tát được thiền, tâm tuy mềm dịu song vì an trú trong Giới ba-la-mật nên cũng không thủ lấy Thanh-văn, Bích-chi-Phật địa. Bồ-tát nghĩ rằng: Ta nên tu Thiền ba-la-mật, không vì Niết-bàn Tiểu thừa, cũng không vì quả báo, chỉ vì độ chúng sinh nên nói thật tướng các pháp. Trí thật tướng ấy từ thiền định sinh, tâm ấy không bị giác quán làm lay động, cũng không bị tham dục, sân nhuế làm ô trược, buộc tâm một nơi thanh tịnh, mềm dịu, thời phát sinh thật trí. Như nước đứng lặn thời chiếu sáng phân minh. Bồ-tát ở trong Giới ba-la-mật được thiền ấy, được thiền định nên tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh nên biết các pháp như thật. Pháp hữu vi do nhân duyên hòa hợp sinh, hư dối. Bồ-tát lấy mắt tuệ quán sát không 

* Trang 769 *
device

thấy pháp hữu vi ấy có thật. Pháp hữu vi có nhiều tên gọi là tác pháp, hữu vi, số pháp, tướng pháp, hoặc có hoặc không, vì hữu vi nên có thể nói vô vi; tướng hữu vi còn không thể có được, huống gì vô vi.
 Hỏi: Pháp hữu vi là có tướng, pháp vô vi là không tướng, nay sao trong pháp hữu vi lại nói không có tướng?
Đáp: Vô vi có hai thứ: Một là tịch diệt không có tướng, không có hý luận, như Niết-Bàn; hai là đối đãi nhau, không nhơn nơi có mà sanh. Như ở tại miếu đường không có con ngựa, thời có thể sinh vô tâm, vô tâm ấy là nhơn duyên sinh phiền não, làm sao là pháp vô vi được? Vì Bồ-Tát không thấy pháp có không, chỉ thấy các pháp như như, pháp tánh, thật tế.
Hỏi: Ông trước nói lìa “có” thời không có “không”[1] nay sao nói thấy như như, pháp tánh, thực tế?
Đáp: Không thấy pháp hữu vi hoặc thường, lạc, ngã, tịnh, pháp hư dối ấy nếu không có, tức là pháp thật. Vì thấy pháp vô sinh nên có thể xa lìa pháp hữu sinh; pháp vô sinh ấy không có định tướng có thể thủ đắc, chỉ có khả năng khiến người ta xa lìa pháp hữu sinh hư dối, nên gọi là vô sinh. Nếu có được trí tuệ như vậy, lại do sức phương tiện và bổn nguyện bi tâm nên không thủ chứng Nhị thừa mà thẳng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ấy gọi là Bồ-tát ở trong Giới ba-la-mật được đầy đủ năm Ba-la- mật
                            (Hết cuốn 80 theo bản Hán)
 

[1] Đại trí độ luận, quyển 12, chương 20: Đàn ba-la-mật pháp thí, tr. 147b8-c21; quyển 15, giải thích Sằn-đề ba-la-mật pháp nhẫn, tr. 170c15-171c7; quyển 18, chương 27: bát-nhã ba-la-mật, tr. 194b1-195a11; quyển 31, chương 43: giải thích 18 không, tr. 293c22-c27.

* Trang 770 *
device

Xem mục lục