Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (8)


Xem mục lục

 

BÀI THỨ CHÍN
NÓI VỀ BA LƯỢNG VÀ BA CẢNH
(CÓ BA ĐOẠN)

  Phàm khi nào Thức khởi hiện hành, thì đều có hai phần:

1- Phần thấy (kiến phần).

2- Phần bị thấy(tướng phần)

  Bởi phần thấy (kiến phần) có sai khác nhau, cho nên chia ra làm ba “lượng”. Bởi phần bị thấy(tướng phần) tánh chất không đồng, nên cũng có thể phân làm ba “cảnh”.

I. NÓI VỀ BA LƯỢNG

A. Hiện lượng (trực giác). Như khi Nhãn thức v.v… duyên sắc trần v.v…chỉ duyên một cách trực giác, không phân biệt cái sắc đó là tên gì và chủng loại nào, như thế gọi là “hiện lượng”.

B. Tỷ lượng (so sánh phân biệt). Như ở xa thấy khói, so sánh biết có lửa, cách vách thấy có sừng trâu, so sánh biết có trâu. Vì so sánh mà biết nên gọi là “Tỷ lượng”.

C. Phi lượng (phân biệt sai lầm). Như Tâm vương và Tâm sở khi duyên cảnh, phân biệt một cách lầm lạc hay so sánh chẳng đúng, thì gọi là “Phi lượng”.

II. NÓI VỀ BA CẢNH

A. Tánh cảnh (thật cảnh). Cảnh này có thật thể và thật dụng, từ chủng tử sanh Kiến phần năng duyên, duyên được cái “tướng” của nó (thật cảnh). Có hai loại Tánh cảnh:

1. Vô bản chất tánh cảnh. – Như Tạng thức của chúng ta biến ra “tướng phần” là cảnh ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc), rồi Tạng thức lấy Kiến phần duyên qua tướng phần; như thế gọi là “Vô bản chất tánh cảnh”.

2. Hữu bản chất tánh cảnh. – Như năm Thức trước, hoặc “Hiện lượng” của Ngũ câu ý thức, mỗi Thức tự duyên cảnh tướng phần của mình; như  thế gọi là “Hữu bản chất tánh cảnh”.

B. Độc ảnh cảnh (cái bóng đơn độc). Cảnh này không có thật thể, dụng và cũng không từ nơi thật chủng tử sanh; chỉ có ảnh hưởng đơn độc, cho nên gọi là “Độc ảnh cảnh”. Có hai loại Độc ảnh cảnh:

1-     Hữu bản chất độc ảnh cảnh (ảnh tượng đơn độc và có bản chất). Như Ý thức khi duyên năm căn và duyên Tâm vương, Tâm sở của người khác, cố nhiên nó phải gá nương cái cảnh đó làm bản chất, rồi tự biến trở lại ảnh tượng để duyên, như thế gọi là “Hữu bản chất độc ảnh”.

2-     Vô bản chất độc ảnh cảnh (cái cảnh ảnh tượng đơn độc và không bản chất). Như Thức thứ sáu duyên lông rùa, sừng thỏ hay hoa đóm giữa hư không, hoặc những cảnh quá khứ vị lai. Vì lông rùa, sừng thỏ hay hoa đóm v.v… không có bản chất để cho Thức gá nương, nên kêu là “Vô bản chất độc ảnh cảnh”.

C. Đới chất cảnh (cảnh có liên đới bản chất). Như Tâm năng duyên khi duyên cảnh sở duyên, tuy rằng có gá nương cảnh kia làm bản chất, nhưng mà không có duyên đặng tự tướng của cảnh kia. Có hai loại Đới chất cảnh:

2-     Chơn đới chất (thật có liên đới bản chất). Như đệ thất Thức, duyên kiến phần của đệ bát Thức chấp làm ngã, thì cái tướng phần (ngã) này, là do liên đới giữa hai kiến phần của Đệ thất và Đệ bát Thức chung sinh, nên gọi là “Chơn đới chất”.

2-     Tợ đới chất (in như có kèm bản chất). Như Ý thức duyên những hình tướng, dài, ngắn, vuông, tròn của năm trần; tuy rằng có gá nương các trần cảnh làm bản chất, để biến trở lại tướng phần vuông, tròn v.v…, nhưng cái tướng phần này, chỉ do một mình Ý thức sanh thôi, nên gọi “Tợ đới chất cảnh”.

III. DÙNG THÍ DỤ ĐỂ GIẢI RÕ BA CẢNH

Trên đã nói ba cảnh, cũng nên lập một thí dụ để giải thiách rõ thêm.

1.      Vô bản chất tánh cảnh. -Dụ như ông thầy giáo, viết ra chữ  “son” để cho đứa học trò đồ. Chữ son này tự tay ông Thầy viết ra, chứ không có nương đâu cả, nên dụ cho “Vô bản chất tánh cảnh”.

2.      Hữu bản chất tánh cảnh. –Dụ như đứa học trò nương trên chữ son đó rồi đồ lại chữ mực. Chữ mực này là nương bản chất của chữ son mà đồ lại, nên dụ cho “Hữu bản chất tánh cảnh”.

Cả hai loại này, đều do Thức trực tiếp duyên đặng tự tướng của cảnh; vì cảnh này có thật thể và thật dụng, nên gọi là “Tánh cảnh”.

3.      Chơn đới chất cảnh. –Dụ như ông thầy giáo viết chữ mực (thiếp) bảo đứa học trò trải tờ giấy trắng lên trên tờ thiếp, rồi ông thầy cầm tay đứa học trò đồ lại trên thiếp; do cái công của thầy lẫn trò, hai người mới viết ra chữ, nên dụ cho “Chơn đới chất cảnh”.

4.      Tợ đới chất cảnh. –Như đứa học trò tự nó lấy giấy trắng trải lên chữ thiếp rồi đồ lại, tuy rằng có gá nương chữ của ông thầy làm bản chất, nhưng chỉ do sức của một mình đứa học trò viết ra, nên dụ cho “Tợ đới chất”.

5.      Hữu chất độc ảnh. –Như đứa học trò tự tay nó viết ra chữ, nhưng còn phải xem theo chữ thiếp của ông thầy.

6.      Vô chất độc ảnh. -Như đứa học trò tự  ý nó viết ra chữ, không cần phải xem chữ trong thiếp.

Xem mục lục