KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 6)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Chúng ta đang triển khai vấn đề “Khế Lý - Khế Cơ”, trong đó: “Khế Lý” tức là chúng ta tu đúng theo lời Phật dạy, “Khế Cơ” là tùy sức, tùy căn mà áp dụng những lời nào chính xác cho căn cơ của chúng ta.
Khế Lý hoàn toàn không phải là ta nói cho hay, ta luận cho giỏi, ta nói những điều cao siêu huyền diệu. Hoàn toàn không phải như vậy! Thường thường những người thích nói điều cao siêu huyền diệu, hầu hết sau cùng không được phần vãng sanh nếu là người niệm Phật. Còn tu pháp môn khác mà thích nói cao siêu quá, sau cùng cũng khó thành tựu!
Khế Lý tức là đúng kinh Phật. Tuy nhiên kinh Phật nói có lúc thật là cao, cũng có lúc ứng dụng trong những hàng phàm phu tục tử chúng ta. Nên lựa những lời các Ngài chỉ cho hàng phàm phu tục tử chúng ta, rồi ứng dụng mà tu thì gọi là Khế Cơ.
Trong pháp niệm Phật của chúng ta, nhất định tâm tâm nguyện nguyện là làm sao trong một đời này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu niệm Phật mà không nghĩ tới cái chuyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, là không Khế Lý mà cũng không Khế Cơ luôn! Tức là đi lạc đường, dù hình thức có hay cách nào đi nữa, sau cùng cũng bị uổng thời gian công phu tu tập!
Ngày hôm qua chúng ta đang nói đến chỗ một người có cái tâm định vào Tây Phương Cực Lạc, định vào câu A-Di-Đà Phật thì mọi chuyện xảy ra với họ, họ tự nhiên thoải mái, họ không bị phân vân, chao đảo, thối chuyển. Thường thường điều làm cho chúng ta thối chuyển nhiều nhất là những cơn bịnh đến với chúng ta. Có nhiều người trong lúc khỏe mạnh tu hành tưởng là mình hay lắm, nhưng khi một chút thử thách đến, ví dụ như căn bệnh đến thì tự nhiên tinh thần của họ sụp đổ, và ý chí của họ hình như tan biến. Lúc đó ta mới thấy rõ rệt là chính cái tâm mình quá yếu rồi, không còn đủ nữa. Vì vậy, có nhiều người trước những cơn bịnh, họ cười vui vẻ thoải mái. Có những người khi mà cơn bịnh xảy ra thì tự nhiên tinh thần của họ đã bay ngõ nào mất hết, và cái định của họ nó cũng bay ngõ nào mất tiêu. Họ không còn tự tại nữa!... Đây là điều chúng ta nhắc nhở ngày hôm qua.
Trong kinh Bảo-Vương-Tam-Muội có nói, người học Phật đừng bao giờ cầu cho thân thể này không bịnh, vì những người thân thể không bịnh thường thường không tu được. Chính vì thế, khi mà bịnh đến với chúng ta, xin chư vị nếu đã biết đạo, biết đường về Tây Phương rồi, thì một căn bịnh đến giống như là một ân huệ giúp cho chúng ta được một chuyến đò để về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chúng ta không chịu ngộ ra đường đạo, thì một cơn bịnh đến tự nhiên có điều cản trở, làm cho tâm thối chuyển, hoang mang, lo sợ...
Hôm nay chúng ta nói tiếp một chút xíu nữa về những sơ suất của người học đạo, mà thường thường những cái sơ suất căn bản này làm cho chúng ta mất phần vãng sanh. Hẳn nhiên, xin nói cho rõ ra, là không phải sơ suất ở trong lý đạo cao siêu, mà chính là sơ suất ở những chỗ căn bản, gần gũi nhất, chứ không đâu xa lạ cả.
Vãng sanh về Tây Phương, nên nhớ rõ, là do quyền lợi của chính mình và được đức từ phụ A-Di-Đà thương xót chúng sanh, do lòng đại từ đại bi của Ngài tiếp dẫn mình về Tây Phương để một đời khi mình xả báo thân này, thay vì mình phải chịu đọa lạc trong những cảnh khổ sở đau đớn qua nhiều kiếp, kiếp này qua kiếp nọ, gọi là “Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”. Như vậy thì khi vãng sanh về Tây Phương chính là cái quyền lợi của mình, chứ không phải là quyền lợi của Phật.
Ấy thế mà có nhiều người tu hành lại nghĩ ngược lại, là khi ta vãng sanh về Tây Phương là do quyền lợi của Phật. Vì quyền lợi của Phật cho nên ta nguyện vãng sanh về Tây Phương. Chính vì vậy mới sinh ra những lời nguyện sai lầm, để dẫn tới chỗ sau cùng mất phần vãng sanh. Thường thường những người này họ nguyện như thế nào? Cứ... “Nam Mô A-Di-Đà Phật, Phật cho con về Tây Phương. Nhưng dù sao đi nữa Phật cũng cho con hết bịnh, dù sao đi nữa cũng cho con làm cho hết việc này, làm cho hết cái việc kia… rồi con mới đi”.
Thường thường người ta đặt điều kiện như vậy, nhiều lắm! Vì những lầm lẫn nho nhỏ này mà làm con đường đi về Tây Phương của họ bị đoạn mất. Rất nhiều chứ không phải là không có. Khi đi hộ niệm sẽ thấy những trường hợp này. Những người nghèo người ta không nguyện như vậy, mà thường nguyện rằng, “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin Phật cho con về Tây Phương, về lúc nào cũng được, con không sợ gì cả, con quyết lòng về Tây Phương, nguyện thành Phật độ chúng sanh”.
Tại vì họ khổ quá rồi! Họ không muốn ở đây nữa. Nhưng một người sống sướng một chút, thì thường thường họ nguyện như vầy: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, trong một đời của con, con đâu có làm điều gì sai. Tại sao con lại bị bịnh? Nam Mô A-Di-Đà Phật, con cũng bố thí, cũng cúng dường, cũng xây chùa, cũng cất miễu, cũng làm cầu... nhiều lắm, tại sao Phật lại bất công... không chịu giúp cho con khỏe mạnh, an khang? Bất công quá!”.
Trong lúc tu hành họ có cái tâm trách móc. Mà thực ra, rõ rệt là những căn bịnh này, những sự khổ ách này, nhất định là do chính mình gây ra, chứ không phải là người khác. Chắc chắn. Nếu đời này mình có làm việc đại thiện đại lành gì đi nữa, mà mình vẫn bị tai nạn, vẫn bị đau đớn, vẫn chịu nhiều cảnh khổ là do trong tiền kiếp mình tạo ra cái nhân đó, nhất định không cách nào từ chối được. Thế gian còn có câu, “Nhất ẩm nhất trát mạc phi tiền định”. Một cái ăn, một cái uống, một cái gặp nhau trong đời này nhất định cũng do tiền định, thì một cơn đau mà đến với chúng ta, một căn bịnh ngặt nghèo đến với chúng ta, hoàn toàn là do chính chúng ta tạo ra. Vì thế, khi tu hành cần phải cố gắng nhớ điều này, “Nhân Duyên Quả Báo tơ hào không sai”!
Ba cái nó đi với nhau. Vì ưa nói gọn nên thành ra Nhân-Quả. Chứ thật ra phải nói là: Nhân-Duyên-Quả. Chính nhờ cái Duyên này mà ta mới thoát nạn đây. Duyên như thế nào? Nếu ta định vào trong câu A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương thì ta cứ một lòng niệm Phật, một lòng cầu về Tây Phương. Một cơn bịnh đến ta mừng ta vui, vì ta trả cái nghiệp này trong ngày hôm nay thì ba tháng sau ta khỏi trả. Nếu ta trả căn bịnh ngặt nghèo trong tháng này thì tháng sau ta khỏi trả. Ta trả tất cả những cái chuyện đau đớn này thì lúc lâm chung ta khỏi đau đớn. Hiểu được vậy thì tự nhiên ta an nhiên đón nhận căn bịnh.
Xin chú ý cho kỹ điểm này, là ta an nhiên đón nhận căn bịnh của ta, chứ không phải ta cầu mong cho căn bịnh đến với ta. Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Xin nhớ kỹ, chứ không thì dễ hiểu lầm chỗ này mà chúng ta lại có thể bị đại nạn. Có nhiều người sơ ý, khi tu hành thường phát ra những lời nguyện hết sức sai lầm! Ví dụ: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con nguyện sẽ trả cho hết tất cả những nghiệp chướng của con để con đi vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Con quyết tâm giải cho hết mọi ách nạn để rồi con được thành tựu”.
Đây là lời nguyện hoàn toàn sai lầm đối với một người niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Mà đúng ra nên nói rằng, ta an nhiên tự tại đón nhận căn bịnh. Căn bịnh nó đến nhiều ta an nhiên nhiều. Tâm ta định vào câu A-Di-Đà Phật. Xin nhớ, cái lực định này tự nó phá tan nghiệp chướng ngay lúc đó hồi nào không hay. Chứng tỏ được rõ rệt rằng, có nhiều người đau trên giường, các vị bác sĩ tới thăm, họ nghĩ rằng người này phải bị tê liệt, bán thân bất toại, nằm dài trên giường, không nói được, không đi được... thế mà họ đi ngờ ngờ vì tâm lực của họ nó quá mạnh. Cho nên mình phải nhớ, không nên tạo cái duyên cho cái nghiệp nó nở ra.
Làm sao không tạo cái duyên cho cái nghiệp khỏi nở ra?...
- Đừng sợ cái nghiệp,
- Đừng mong cái nghiệp,
- Đừng lo cái nghiệp,
- Đừng khổ vì cái nghiệp thì tự nhiên cái nghiệp nó nằm đó, nó chờ trong tương lai một kiếp nào đó nó mới hiện ra.
Trong thời gian chờ đợi tương lai hiện ra, thì ta đã được tương ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, đã về Tây Phương Cực Lạc rồi. Khi về tới Tây Phương Cực Lạc ta trở thành Bồ-Tát Bất-Thối-Chuyển, thần thông đạo lực, vô cùng nhiệm mầu, bao trùm pháp giới. Ta dùng cái thần thông đạo lực đó vì chúng sanh chịu khổ mà xuống các quốc độ cứu độ chúng sanh. Lúc đó ta trả nghiệp nhưng không phải là ta xuống dưới địa ngục để chịu hành hình, mà ta trả nghiệp bằng cách dùng thần thông đạo lực và trí huệ của một vị Bồ-Tát Bất-Thối đi cứu độ chúng sanh, giảng kinh thuyết đạo dẫn chúng sanh đi về Tây Phương để mà trả nghiệp. Cách này hay vô cùng.
Chính vì thế, xin thưa, nghiệp nó đến với chúng ta là do chúng ta mời nó. Còn nếu chúng ta cứ một lòng một dạ:
- Duyên với Tây Phương Cực Lạc.
- Nghĩ A-Di-Đà Phật.
- Nhớ A-Di-Đà Phật.
- Niệm A-Di-Đà Phật.
- Nguyện về Tây Phương với A-Di-Đà Phật...
Thì tự nhiên cái nhân đi về Tây Phương đã chín muồi trong tâm chúng ta, nhờ do sức nguyện làm thành cái Duyên để nảy nở cho chúng ta cái Quả báo, Quả báo đi về Tây Phương thành đạo.
Chính vì vậy, khi mà mình biết được một chút tu hành rồi, mong cho tất cả chư vị cố gắng bắt đầu từ hôm nay, tất cả những căn bịnh nào đến, chúng ta hãy an nhiên tự tại lên, đừng sợ... Nhất định đời này đã có vận hạn rồi, không sao cả. Khi cái tâm chúng ta buông ra thì tự nhiên cái nghiệp nó cũng buông chúng ta ra, nó nằm im đó để cho chúng ta lấy cái Nhân “A-Di-Đà Phật” để thành cái Quả “A-Di-Đà Phật”, gọi là “Niệm Phật Là Nhân, Thành Phật Là Quả”.
Còn tất cả những nghiệp khác ta “Đới” nó. Đới là đem về Tây Phương. Đem về Tây Phương ta dùng thần thông đạo lực, biết hết trong vô lượng kiếp chúng ta làm gì, ta bắt đầu đi cứu độ chúng sanh để trả nghiệp. Đây là con đường rất là vi diệu, tuyệt vời của những người niệm Phật vãng sanh như chúng ta.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 7)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Tu hành cần phải “Khế Lý - Khế Cơ”. Người phàm phu tục tử chúng ta, ráng cố gắng tránh những hiếu kỳ ngoài khả năng của mình, để sau cùng mình khỏi bị vướng những cái bẫy hay những sơ suất đáng tiếc! Trong pháp niệm Phật vãng sanh, hai điểm này rất là quan trọng.
- Thứ nhất là “Niềm Tin”. Đừng nên nói, “Để khi lâm chung rồi tôi phát khởi tin cho nó vững, chứ bây giờ đây chưa cần”! Không phải như vậy! Cho nên ráng chú ý xét soi coi mình có thiếu niềm tin hay không? Nếu mà thiếu niềm tin vãng sanh, thiếu niềm tin về Tây Phương Cực Lạc thì bây giờ chúng ta tu ba, bốn chục năm, một ngày niệm Phật mười vạn tiếng, tức là một trăm ngàn câu A-Di-Đà Phật, sau cùng chúng ta cũng không hưởng được phước phần giải thoát.
Nếu mà lời Nguyện Vãng Sanh của chúng ta không vững, thì dầu cho có đến đạo tràng này tu suốt cả cuộc đời, ngày nào cũng tu, một ngày chúng ta niệm một trăm ngàn tiếng Phật hiệu, thì đến sau cùng cũng không hưởng được phước phần vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Đây là điều mà chư Tổ thường cũng nhắc nhở như vậy đó.
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói... “Niềm Tin vững vàng, phát nguyện vãng sanh tha thiết, thì dẫu cho tán tâm niệm Phật, loạn tâm niệm Phật cũng được vãng sanh”.
Xin chư vị nghe cho kỹ những lời của Tổ, đừng nên hiếu kỳ tìm những lý luận xa vời cao siêu làm chi! Hãy nghe cho thật kỹ những lời Tổ dạy. Ngài nói...
“Vãng sanh về Tây Phương được hay không là nhờ TÍN và NGUYỆN”. Nghĩa là, phải tin tưởng cho vững và phải tha thiết nguyện vãng sanh về Tây Phương. “Còn phẩm hạnh ở trên cõi Tây Phương cao hay thấp là do niệm Phật sâu hay cạn”.
Câu này quan trọng lắm! Nhiều người tu mà quên câu này nên sau cùng chúng ta mới thấy những chuyện xảy ra khá lạ lùng! Có nhiều người tu rất nhiều mà không được vãng sanh, có lẽ là sơ ý chỗ này. Muốn vãng sanh về Tây Phương cao phẩm hay hạ phẩm, thì chúng ta cũng phải về tới Tây Phương trước đã, sau đó mới có thể nói cao phẩm hay thấp phẩm. Chứ nếu không về được tới Tây Phương thì cao phẩm ở chỗ nào? Thấp phẩm ở chỗ nào? Yếu tố nào để về được Tây Phương? Chính là Niềm Tin và sự Phát Nguyện… Rõ ràng!
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, “Nếu không phát nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, niềm tin yếu ớt, thì dẫu cho niệm Phật đến “Nhất tâm bất loạn” cũng không được vãng sanh”. Ngài nói rõ rệt như vậy!
Ở đây có nhiều người thấy những tập sách hướng dẫn một cách tu trì nào đó sao hay quá! Người ta định được ba năm vãng sanh, hai năm vãng sanh, quyết được “Nhất tâm bất loạn”... thì liền muốn chạy theo để được “Nhất tâm bất loạn”! Trong khi đó thì chính mình nguyện vãng sanh không tha thiết. Điều này được chứng minh rõ rệt là khi vừa ngã bịnh xuống thì tinh thần hình như mất hết! Nhìn vô thấy không còn một nét vui nào trên khuôn mặt nữa! Từng giờ, từng phút lo âu!... Lo lắng không biết làm sao để chữa bịnh này? Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, nếu mà bạn niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn, mà bạn không nhắm về Tây Phương, nhất định cũng không được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Ngài Trung-Phong Đại Sư nói, “Niệm Phật mà không nguyện vãng sanh về Tây Phương, dẫu cho công hạnh có cao dày cho đến đâu đi nữa cũng trở nên nên hư thiết”. Tất cả các vị Tổ đều nói như vậy.
Chính vì thế, khi quý vị quyết lòng đi về Tây Phương để một đời này thành đạo, thì xin thưa thực, ở đây có A-Di-Đà Phật, ảnh tượng của Ngài tại đây, lời thề của Ngài cũng tại đây, Ngài phóng quang chiếu khắp tất cả mọi nơi để cứu độ từng người, từng người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Về Tây Phương với Ngài chúng ta thành Phật. Ấy thế mà trong sự tu hành, chúng ta không chịu tự kiểm điểm lấy, cứ chạy theo những cái lý hão huyền xa vời! Với năng lực của một người phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng này, không chịu nắm lấy những cái hết sức căn bản, hết sức vững vàng, gọi là “Sự tu vững vang” để đi về Tây Phương, mà cứ chạy theo cái “LÝ”, gọi là “Lý nhiệm mầu!” mà quên mất “Sự tu vững vàng”...
Chúng ta nên biết, là đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật Ngài dạy có những cái “Lý nhiệm mầu”, tối nhiệm mầu. Ngài nói cho ai? Đại Bồ-Tát tu trì. Bên cạnh đó, Ngài cũng nói những cái “Sự tu hành” cụ thể, chắc chắn, vững vàng cho người chấp trì để thành tựu. Người này là ai? Là hạng hạ căn phàm phu. Cho nên đối với pháp Phật, người thượng căn thành tựu đạo quả?... Dư! Người hạ căn có thành tựu đạo quả không?... Cũng dư luôn! Chính vì vậy mà pháp Phật được gọi là Pháp Cứu Độ Nhất Thiết Chúng Sanh, không phải chỉ cứu độ hàng thượng căn thượng cơ, còn bỏ rơi hàng phàm phu đâu. Chỉ vì hàng phàm phu chúng ta không chịu xác định mình là phàm phu, cứ tưởng mình là hàng cao cơ nên sơ suất đó thôi!...
Hôm trước Thượng Tọa Thích-Trí-Thoát đã giảng câu hay quá. Ngài nói rằng, Càng tu chúng ta càng cúi mình xuống để cho cái vạt áo của mình, vạt áo trước nó có thần thông, nó dài ra. Nó dài ra như vậy, mỗi lần mình bước đi cái áo nó cứ đập, đập, đập vô trong chân của mình, nó nhắc nhở cho mình đi phải chậm chậm, đi phải từ từ, để đi vững vàng. Đừng quá vội mà vấp, mà té. Một lần mà vấp té rồi thì muôn đời muôn kiếp không cách nào có thể gỡ được.
Thường thường những người tu hành hay bị chướng nạn này, là không chịu cúi mình xuống, mà cứ ngửa lên nhìn trên mây xanh để tìm đạo lý nhiệm mầu? Trong khi đó cái chân của mình cứ muốn bước đi cho nhanh mà không để ý những cạm bẫy, những gai góc đang giăng giăng phía trước. Một lần lỡ sa vào hố rồi, rơi xuống hố sâu thăm thẳm, lúc đó, nhìn lên bầu trời cao những lý đạo nhiệm mầu đã tan biến vào hư vọng hết rồi! Rồi nhìn lại một thực tế gì đây? Có phải chăng đang nằm dưới hố sâu đời đời kiếp kiếp, biết bao giờ mới có thể ngóc đầu lên được?!
Thầy Trí-Thoát nói lên một câu nhắc nhở chúng ta cần nên nhớ, nhất định phải khiêm nhường!...
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư, thị hiện một đời của Ngài cống cao ngã mạn. Ngài khinh thường câu A-Di-Đà Phật, Ngài coi đó không ra gì hết. Nhưng khi Ngài ngã một cơn bịnh, cơn bịnh thập tử nhất sanh, Ngài tưởng rằng Ngài phải chết trong cơn bịnh đó. Nhưng may mắn Ngài vượt qua được. Khi Ngài vượt qua được rồi, Ngài nói rằng: “Ủa! Nếu trong lúc bịnh như vậy, mà ta chết, thì ta đi đâu?”. Đặt lên một câu hỏi này, làm Ngài giựt mình! Ngài tưởng rằng hồi giờ Ngài tu tốt, tu cao! Nhưng khi đau xuống, những cơn đau quằn quại chịu không nổi! Lúc đó tâm thần tán loạn, không biết đường nào mà đi! Ngài hỏi, trong lúc tán loạn như vậy, ta đi đâu? Ngài cầm quyển kinh A-Di-Đà lên, Ngài ngộ ra liền con đường niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Ngài quyết lòng buông xả, niệm Phật cầu vãng sanh. Ngài trở thành vị Tổ thứ 9 của Tịnh-Độ-Tông Trung-Hoa.
Trong khi chúng ta là phàm phu tục tử, tội chướng sâu nặng mà không tự liệu thân. Bịnh là do nghiệp, là do tội chướng mang đến cho mình. Nó là của mình, nhất định không trước thì sau mình cũng phải nhận. Nếu ngộ ra một chút đạo này, thì nhận trước khỏi nhận sau. Nếu ngộ ra một chút đạo này, thì bịnh nó đến mình càng vui hơn nữa. Vì sao vậy? Vì nó nhắc nhở cho mình biết mình là phàm phu tục tử, nó nhắc nhở cho mình nhất định Tín-Hạnh-Nguyện không thể nào ly ra được.
Cho nên:
- Càng bịnh càng nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
- Càng bịnh càng khiêm nhường.
- Càng bịnh càng phải ngày ngày ráng cố gắng niệm Phật để tạo công đức hồi hướng cho oan gia trái chủ, hồi hướng cho những cái nghiệp nhân mà mình đã tạo ra trong quá khứ.
Phải thành tâm làm hàng ngày, cứ Tín-Nguyện-Hạnh, Tín-Nguyện-Hạnh như vậy mà đi. Nếu tín vững vàng, tin vào lời Phật dạy. Phật dạy sao? Người nào tội chướng nặng cho mấy đi nữa mà bây giờ quyết lòng sám hối... Làm sao sám hối? theo lời Hòa Thượng Tịnh-Không dạy đi, “Bất nhị quá”, đừng có làm như vậy nữa...
- Tôi ghét một người nào, nhất định hôm nay tôi không ghét nữa.
- Tôi chửi một người nào, nhất định từ nay tôi không chửi nữa.
- Tôi cống cao ngã mạn, nhất định tôi không cống cao ngã mạn nữa.
- Tôi không làm ra những điều sai nữa... quyết định tự mình phải bỏ.
Nếu tự mình không bỏ, thì nhất định “Tín” mình không đúng. Mình không bỏ thế gian này xuống, không chịu nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thì khi bịnh xuống, mình sợ! Sợ là phiền não!... Mình có đầy đủ những thứ chướng nạn đó, thì nhất định cái cõi Ta-bà này nó sẽ trói mình lại. Mình niệm Phật dù cho mười vạn tiếng, ngài Tịnh-Không nói, mười vạn tiếng là niệm 100.000 câu A-Di-Đà Phật hàng ngày, Ngài nói cũng như không! Ngài Trung-Phong nói, không nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, dẫu cho công hạnh cao cho mấy đi nữa cũng trở nên “Hư Thiết”. “Hư” là không; “Thiết” là cần thiết. “Hư Thiết” là không thiết thực!... Rõ ràng.
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, nếu không chịu tha thiết nguyện vãng sanh mà cứ nguyện những cái gì khác. Tu để kiếm chút phước này, kiếm chút phước nọ... Niềm tin không đủ! Nói chung, hai cái điểm đầu không đủ, thì dù cho quý vị có tu suốt cuộc đời cũng không được vãng sanh! Nên nhớ như vậy...
Cho nên rõ rệt Tín-Hạnh-Nguyện là điều căn bản để cho chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải “Nhất Tâm Bất Loạn” mới được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nên nhớ, thời mạt pháp này chính trong kinh Phật đã nói: “Ức ức người tu hành, khó có một người nào có khả năng chứng đắc”. Nhất tâm bất loạn là cảnh giới chứng đắc, chứ không phải là một điều an khang nào đó trong lúc nhiếp tâm niệm Phật. Vậy mà có rất nhiều người sơ ý, cẩu thả mong cầu chuyện nhất tâm bất loạn!
Ngài cư sĩ Hạ-Liên-Cư nói, “Niệm Phật không cầu nhất tâm bất loạn, mới được nhất tâm bất loạn”. Người nào cầu nhất tâm bất loạn, nhất định tâm sẽ loạn. Loạn đến có thể bị tẩu hỏa nhập ma, vì đời này là đời mạt pháp rồi!... Ngài Tịnh-Không nói, cư sĩ Hạ-Liên-Cư không phải là người bình thường, thân phận dù chưa có thố lộ ra, nhưng Ngài nói, đây không phải là người tầm thường?...
Nguyện mong cho chư vị nhớ những điểm này, đã đến đạo tràng này thì quyết lòng phải đi, đi đúng đường, đi cho đến Tây Phương Cực Lạc để thành đạo. Đây là điều mong ước của A-Di-Đà Phật đang chờ đợi chúng ta thành đạo giải thoát, trên cõi Tây Phương Cực Lạc vậy.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 8)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Mỗi lần nổi lên một cơn bịnh, mình mới ngộ ra rằng mình chính thị là phàm phu tục tử!
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư bị một cơn bịnh thập tử nhất sanh thì Ngài ngộ ra, Ngài lo niệm Phật và trở thành một đại Tổ Sư, còn mình chính hiệu là phàm phu tục tử, bịnh rề rề, năm này cũng bịnh, năm kia cũng bịnh, mình có quá nhiều dịp để ngộ rằng mình là phàm phu tục tử!
Vô thường đến bất kỳ lúc nào, không bao giờ nó chờ đợi, không có hẹn được. Chính vì vậy mà khi mình biết được con đường niệm Phật, mình biết trước cả khi mình bịnh nữa, tức là so ra mình hơn ngài Ngẫu-Ích Đại Sư một chút. Ngài ngộ ra sau khi cơn bịnh, còn ta biết niệm Phật trước khi cơn bịnh, vậy thì phải lo chuẩn bị.
Trong đường vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, hôm trước mình có nói qua, cái điểm quan trọng nhất là “Niềm Tin” và “Lời Phát Nguyện”. Nếu mà niềm tin yếu thì ta phát nguyện không có tha thiết. Nếu ta không muốn đi về Tây Phương thì thường thường ta sẽ có những sự phát nguyện lệch đi và sau cùng thì mất phần vãng sanh. Xin đưa qua đây vài mẫu chuyện có thực...
Ví dụ như ở bên ngoài kia có cái phần hộ niệm vãng sanh, quý vị coi đĩa Sư Bà Thích-Như-Định, Ngài là Sư Bà trụ trì một Ni-Viện, nhưng mà khi Ngài bịnh, Ngài dặn dò các hàng đệ tử và Ngài viết thư nhờ các Ngài khác đừng lo gì khi Ngài chết, mà phải giao cho các ban hộ niệm họ hộ niệm. Họ hộ niệm xong rồi quý vị mới làm theo các nghi lễ. Thấy lạ lùng không? Một Sư Bà mà khi ra đi lại giao cho các vị Phật tử, tôi nhớ không lầm, chính chị Diệu Thường hộ niệm cho Sư Bà. Sư Bà ra đi bất khả tư nghì, thoại tướng tốt không thể nào tưởng tượng. Trong khi đó thì cách đây cũng không lâu cũng có một vị Ni, đã tuyên bố là nhất tâm bất loạn, định được ngày giờ ra đi và có rất nhiều vị Tăng Ni, đông lắm tới hộ niệm. Nhưng mà sau cùng thì không đi! Không đi được, mà sau đó thì những chướng nạn đến dồn dập!...
Trong những lời tọa đàm về hộ niệm trước đây, chắc quý vị còn nhớ một câu chuyện, cũng là một vị Ni, khi bị bịnh rất nặng và bác sĩ đã chịu thua. Vị này được một vị Đại Đức cùng với những ban hộ niệm, ban hộ niệm đó Diệu Âm biết, những người đó họ khai thị tốt lắm. Vị Đại Đức cũng quyết lòng hộ niệm cho vị Ni đó. Hộ niệm được mười sáu ngày thì tự nhiên căn bịnh hết, không còn bịnh nữa và vị Ni đó công phu trở lại được, coi như người bình thường. Sau khi có hiện tượng như vậy, thì vị Ni đó mới nói với Thầy rằng, “Chắc là con nghiệp chướng còn, nên Phật muốn con đem cái thân nghiệp chướng này để độ chúng sanh chăng?”. Vị Ni đó đã đổi lời nguyện, (nghĩa là nguyện độ chúng sanh chứ không nguyện vãng sanh nữa). Đổi lời nguyện xong thì khoảng mười ngày sau bị phát bịnh trở lại. Thì cũng chính vị Đại Đức và ban hộ niệm đó đến hộ niệm, nhưng mà vị Ni này ra đi không có một cái thoại tướng nào chứng tỏ rằng được vãng sanh Cực Lạc cả, ngay cả cái thân thể mềm cũng không được luôn!
Tại sao lại như vậy?...
Tại vì lời nguyện. Lời nguyện không chính! Lời nguyện không thẳng! Chúng ta tu hành, nhiều khi có những điều sơ suất, như vọng tâm nổi lên, một sự ngã mạn hay một sơ ý nào đó nổi lên, nó có thể đưa chúng ta đi lệch con đường vãng sanh về Tây Phương liền.
Ví dụ như hôm qua mình có nói vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thứ nhất là do quyền lợi của chính mình. Trong vô lượng kiếp qua mình bị đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, chắc chắn ở đó cũng có những cảnh giới tam ác đạo trong đó mà mình không hay. Với tai nạn lớn như vậy mà bây giờ gặp được câu A-Di-Đà Phật, nhờ đại nguyện của đức A-Di-Đà mà mình được về tới Tây Phương, mà về tới Tây Phương thì ngay trong những lời nguyện đầu Ngài nói, hễ về tới Tây Phương thì tất cả chư vị đều thành Bồ-Tát hết, thần thông đạo lực nhiệm mầu. Như vậy cơ hội này là để cho chúng ta thoát nạn. Ấy thế mà chúng ta sơ ý, cứ tưởng rằng là đi về bên Tây Phương là do quyền lợi của A-Di-Đà Phật... Cho nên, có nhiều người than:
“A-Di-Đà Phật ơi! Con tu hành tốt quá, con muốn về Tây Phương. Nhưng mà có gì có chứ Ngài cũng cho con hết bịnh, Ngài phải làm cho con hết bịnh… Tức là đặt điều kiện với Ngài. Con hết bịnh rồi thì con niệm Phật mới được chứ. Tại sao con niệm Ngài mà Ngài hổng cho con hết bịnh”.
Rõ ràng đây là lời nguyện sai lầm! Nhân-Quả của chúng ta chư Phật không có xen vào được. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật có nói là “Nghiệp nhân quả báo bất khả tư nghì”, chư Phật không thể chen chân vào được, mà chính chúng ta phải giải quyết. Giải quyết bằng cách nào? Nếu chúng ta bây giờ không nhớ A-Di-Đà Phật, không niệm A-Di-Đà Phật, không nguyện về Tây Phương Cực Lạc thì nhất định chúng ta nhớ lục đạo luân hồi. Nhớ lục đạo luân hồi thì “Duyên” với lục đạo luân hồi, nhất định chúng ta bị kẹt lại. Niệm Phật là để vãng sanh, khi một cơn bịnh xảy ra mà mình sợ chết. Sợ chết là gì? Thèm cái thân mạng. Thèm cái thân mạng này chứng tỏ là quyến luyến cái thân mạng, tâm chúng ta quyến luyến cái nào nhất định đây là cái “Duyên”, ta sẽ theo cái duyên đó để thọ những cái đại nạn trong lục đạo luân hồi.
Cho nên, những người không hiểu đạo, nên lúc lâm chung thường thường sợ chết. Vì sợ chết nên khi chết không bao giờ nhắm mắt được, con mắt mở trao tráo ra. Tại sao vậy? Tại vì trong lúc ngộp ngộp người ta sợ chết chứ có gì đâu, người ta ráng mở con mắt ra, hả cái miệng thiệt to ra để thở, để cố kéo lại sự sống. Vì tha thiết cái mạng sống này nên bắt buộc họ phải theo cái cục thịt này mà xuống dưới nấm mồ, rồi lang thang từ chỗ này qua chỗ nọ, bám víu vào những gốc cây... Vô tình ngàn đời vạn kiếp chịu khổ! Còn người niệm Phật lúc thấy ngóp ngóp, biết rằng sắp chết, họ quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương, họ mừng lên, họ vui lên, tự nhiên những lúc đó họ mỉm cười. Họ mỉm cười ra đi, để về Tây Phương Cực Lạc. Niềm tin tưởng của họ mạnh mẽ vô cùng! Sức nguyện của họ tha thiết vô cùng! Trong những lúc đau đớn đó, có thể họ niệm Phật không vô, nhưng nhờ những vị đồng tu hộ niệm, họ nghe lời niệm của người hộ niệm để niệm theo, dù là có thể nghe mang máng, nhưng giúp cho tâm nguyện của họ quyết chí hơn để đi về Tây Phương.
Phật dạy tất cả đều do tâm tạo. Tâm ở đâu? Ở ngay cái ý muốn của mình đó. Chính vì vậy, khi chúng ta niệm Phật mà không muốn về Tây Phương, thì dù cho mình tu có một trăm năm đi nữa, một ngày mình niệm mười vạn câu Phật hiệu đi nữa, nhất định đây cũng chỉ là phước báu nhân thiên, mà phước báu nhân thiên của những người niệm Phật lớn lắm. Nếu việc ác không làm, việc thiện làm, mà còn niệm Phật nữa thì họ sẽ trở nên những người giàu có, những người trong nhà vua chúa. Nếu biết đạo mình nên sợ chỗ này, vì khi thuộc về hàng đó rồi, thì quyền lực quá mạnh, thế lực quá mạnh rồi, thường thường không ai tu được cả, mà bên cạnh cái quyền lực đó, sinh sát ở trong tay, tạo ra nghiệp trùng trùng để đời sau nữa phải chịu nạn nặng vô cùng! Đó gọi là “Tam Thế Oán”: Một đời làm thiện, một đời hưởng quả phước báu, giàu có, sau đó là đại nạn!
Chính vì vậy, mà cái cơ hội vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc này, xin chư vị nắm cho vững, đừng để sơ suất. Nếu sơ suất thì mình đi vào con đường sai lạc, sau cùng không ai có thể cứu mình được nữa. Cách đây cỡ chừng hai tuần chúng ta có đi hộ niệm cho mấy vị, gia đình đó ở ngoài Inala. Tôi dặn dò rất kỹ. Nhưng có một lần tình cờ tôi đem cái máy bấm để tới biếu cho bà Cụ, thì vì đi tới bất ngờ, khi bước vào nhà tôi thấy hai mẹ con đang ngồi coi phim. Đang coi phim Đại Hàn... Tôi không nói một tiếng nào hết, nhưng thứ bảy sau đó trong một buổi hộ niệm, tôi nói rất nhẹ nhàng nhưng mà rất cương quyết:
“Nếu bác không lo cái vận mệnh của bác, nếu bác không muốn về Tây Phương, mà ngồi ôm coi cái phim này, tôi bắt gặp một lần nữa, nhất định, bây giờ bác có năn nỉ, tôi cũng không đi hộ niệm. Tại vì có hộ niệm cho bác, chắc chắn bác cũng không được vãng sanh”...
“Vì sao? Vì rõ ràng là bác bị bịnh, đang chờ từng ngày để chết mà không lo cho chính cái huệ mạng của bác, không lo cho bác thì Phật cứu cũng không được, làm sao tôi có thể cứu?”. Tôi nói rất là nhẹ nhàng. Tôi nói tiếp...
“Bác phải bỏ hẳn từ ngày hôm nay, nếu để tôi bắt gặp một lần nữa, bây giờ bác có năn nỉ đi nữa, tôi không đi hộ niệm là không đi hộ niệm, tại vì đi hộ niệm như vậy... Vô ích!”.
Xin thưa với chư vị, không phải mình niệm Phật này là niệm cho A-Di-Đà Phật, mà niệm cho mình và phải tương ứng cho đúng với đại nguyện của Ngài. Tín-Hạnh-Nguyện phải cho đúng. Hạnh là lo niệm Phật chứ không phải là ngồi coi phim, không phải hạnh là sợ này sợ nọ. Chỉ cần đi đúng như vậy, đơn giản rõ ràng, người tội chướng nghiệp nặng này... chúng ta vẫn được Ngài tiếp độ về Tây Phương để một đời thành tựu đạo quả.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 9)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Trong đề tài đang nêu ra, nhằm để chúng ta tránh bớt những sơ suất về vấn đề “Khế Lý - Khế Cơ”. Tại vì mình sơ suất, nên thường có những sự lầm lẫn có tính đáng tiếc để sau cùng bị trở ngại!
Nên nhớ, chúng ta toàn là người hạ căn hạ cơ, mà hạ căn hạ cơ thì chuyện hộ niệm rất quan trọng. Hộ niệm chính là dành cho những người không có khả năng chứng đắc, nói đúng theo danh từ của người niệm Phật, tức là không có khả năng đạt đến cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”. Chứ nếu chúng ta có thể đạt được cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”, thì không cần hộ niệm nữa. Nói rõ ra, pháp hộ niệm chỉ dành cho những người rất dở, gọi là dở thậm tệ! Chúng ta xin tự nhận là những người dở thậm tệ, nên phải chú ý đến điểm này.
Cách đây cũng mấy năm, có một người tới nói với tôi như thế này:
- Bây giờ chúng ta phải quyết lòng tu một thời gian, cho đến khi nào mình có năng lực đã. Khi thấy có năng lực rồi thì tôi sẽ đi ra làm đạo, cứu người.
Nghe nói vậy thì tôi nói:
-Tốt! Rất là tốt! Có chí khí!
Nhưng mà trong tâm của tôi thì thầm nêu ra câu hỏi:
- Ủa!... Chứ chừng nào anh mới có đủ năng lực vậy?
Chỉ thầm nghĩ như vậy chứ không dám nói ra. Khi tu hành mà tự nhận mình có năng lực, thì chưa biết cái năng lực đó đúng hay sai? Chưa biết! Nhưng theo lời khai thị của các vị Tổ Sư, thì chúng ta đã đi ngược lại với lời dạy của các Ngài rồi. Các Ngài luôn luôn dạy chúng ta càng tu càng phải khiêm nhường, càng tu càng thấy mình còn phàm phu, tội chướng sâu nặng. Mà càng thấy mình tội chướng sâu nặng rồi, thì làm sao dám đặt vấn đề là đến một ngày nào đó tôi sẽ có năng lực!... Năng lực gì đây?
Cách đây cỡ chừng sáu năm, có một vị tu rất tốt! Rất tinh tấn! Một ngày hành trì của vị này cỡ 16-17 tiếng đồng hồ niệm Phật. Thật không phải dễ! Vị này đã tuyên bố mình chứng đắc và định được ngày giờ vãng sanh, rồi đã thông báo cho nhiều người biết rằng A-Di-Đà Phật đã chính thức thọ ký rồi. Vị này cũng lập ra một chương trình cho đại chúng tu học: Mười ngày thì ngửi được hương thơm. Bốn tới năm tuần thì nghe được âm thanh niệm Phật từ trong tâm phát ra. Khoảng một đến hai tháng, khoảng thời gian như vậy thì thấy được ánh sáng, quang minh... Vị đó đã đưa ra một chương trình tu học trong vòng ba năm nhất định được “Nhất tâm bất loạn”, chắc chắn được vãng sanh. Vị đó tuyên bố rằng:
- Tôi sẽ lấy chính cái năng lực của tôi, cái chứng đắc của tôi để chứng minh cho chư vị biết.
Sự việc có như vậy…
Đến ngày giờ đã định để vãng sanh, thì… làm thinh? Không chịu vãng sanh! Vị đó ra tuyên bố rằng, A-Di-Đà Phật đã thông báo cho tôi biết ngày đó Ngài bị bận... nên không tới tiếp dẫn được. Ngài hẹn lại một tháng sau...
Thì một tháng sau nó cũng đến liền, rồi sự việc cũng im lặng như tờ. Vị đó lại thông báo lại, nói rằng, tại vì trong thời gian qua quý vị làm ồn ào quá, tôi báo cho chư vị biết mà chư vị đi nói lung tung, nên A-Di-Đà Phật quở trách. Ngài phải dời lại cuộc vãng sanh hai tháng.
Rồi hai tháng nữa, sự việc cũng im lìm. Người đó lại nói, tại vì có một chút chuyện, nên bây giờ Ngài lại dời thêm hai tháng nữa. Chắc chắn?!...
Sự thực là đến bây giờ người đó vẫn còn sống... mà kèm theo cái sống đó... trở ngại chập chùng!...
Xin thưa, đây là những chuyện có thực xin nói lên để nhắc nhở cho nhau biết rằng, tu hành phải hết sức cẩn thận. Tại vì “Nhất tâm bất loạn” là cái đỉnh lý tưởng chứng đắc của người niệm Phật. Chư Tổ đều nói chúng ta cố gắng niệm Phật cho “Nhất tâm bất loạn”. Đó là cái mẫu chung, nhắc nhở cho mình tinh tấn tu hành, chứ không phải các Ngài bắt buộc mình phải nhất tâm bất loạn mới được vãng sanh. Nếu A-Di-Đà Phật đã phát ra một lời thề, những người niệm Phật phải “Nhất tâm bất loạn” thì ta sẽ tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc, thì ta mới quyết lòng, chết sống gì đi nữa, muốn đi về Tây Phương ta cũng phải niệm Phật cho “Nhất tâm bất loạn”. Còn ở đây Ngài không nguyện như vậy. Ngài nguyện rằng, dẫu cho những người có nghiệp chướng sâu nặng mà chỉ cần thành tâm sám hối, thành tâm cung kính niệm danh hiệu của Ngài với Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ, tha thiết nguyện vãng sanh, thì dẫu cho trước khi xả bỏ báo thân niệm được mười tiếng, Ngài sẽ tiếp độ về Tây Phương Cực Lạc.
Như vậy, lời nguyện của Ngài không có bắt buộc chúng ta phải niệm cho đến “Nhất tâm bất loạn”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta ngăn cản những người có khả năng niệm Phật “Nhất tâm bất loạn”. Chỉ xin nhắc nhở cho chúng ta nên nhớ một điểm, “Nhất tâm bất loạn” là một cảnh giới chứng đắc. Sự chứng đắc này không phải tầm thường, mà tương đương với “Minh tâm kiến tánh, Kiến tánh thành Phật”, là những vị đã vượt qua “Chấp Trước”, vượt qua “Phân Biệt”, có thể phá từng phẩm vô minh, chứng từng phần pháp thân, gọi là “Phần Chứng Tức Phật”, cảnh giới của những vị đại Bồ-Tát ở cõi Hoa-Nghiêm chứ không phải tầm thường. Có nhiều người sơ ý, tự xưng này xưng nọ… và danh từ này trở thành món mồi quá ngon cho những người hiếu kỳ, đưa họ đến chỗ vô cùng nguy hiểm!
Có một vị nữa, Diệu Âm xin kể những chuyện có thực, nếu mà các vị đó nghe được những lời này thì cũng xin tha thứ cho Diệu Âm. Diệu Âm lấy những chuyện có thực này để nhắc nhở cho chúng ta biết con đường an toàn, để giúp nhau vãng sanh Tây Phương, giúp cho chúng sanh có duyên tránh được những ách nạn, để họ thoát được những cảnh khổ của sự vô thường này, (chứ không phải bươi móc chuyện cá nhân).
Vị đó tu rất tốt và tự xưng rằng đã đột phá cảnh giới Hoa-Nghiêm rồi. Vị đó có một năng lực đặc biệt làm cho nhiều vị khác phải phủ phục tôn làm sư phụ. Đó là sự thật! Vị đó có một cái... hình như giống như là Thiên-nhĩ thông vậy. Có một lần vị đó ở cách đây trên một trăm cây số mà nghe được tiếng của Diệu Âm này mỗi sáng tụng kinh. Quý vị tưởng tượng đi, trên một trăm cây số, gần một trăm năm chục cây số mà nghe được. Có một lần vị đó trở về Brisbane, tới thăm Diệu Âm và nói rằng:
- Tôi mỗi sáng đều nghe tiếng anh tụng kinh, nhưng tuần qua tôi không nghe tiếng anh tụng kinh nữa. Tôi vào trong định để quán thì thấy hào quang của anh phóng tới và trong hào quang đó tôi biết anh bị bịnh. Cho nên hôm nay tôi về tôi thăm anh.
Rõ ràng, đúng là tuần qua chính Diệu Âm này bị bịnh. Nếu lúc đó mà Diệu Âm cũng có chút hiếu kỳ, cũng tham chứng đắc, thì có lẽ đã quỳ xuống bái làm sư phụ. Nhưng khi nghe “Ngài” đó nói như vậy thì giựt mình! Vì chính mình hiểu mình rõ hơn ai hết. Rõ ràng mình là một phàm phu tục tử, bịnh lên bịnh xuống, nhức đầu muốn chết luôn, làm gì mà mình có quang minh? Rõ rệt không? Làm gì mà mình có quang minh?... Diệu Âm mới nói:
- “Bây giờ tới đây, mình ở gần Hòa Thượng Tịnh-Không, là một vị cao tăng đức độ. Tại sao mình không đem điều chứng đắc gì của mình đó trình với Ngài, bạch với Ngài, xin Ngài một lời khuyên và nhờ Ngài giảng trạch cho...”.
Thì vị đó hình như không bằng lòng mấy! Nói rằng, Hòa Thượng Tịnh-Không đang giảng kinh Hoa-Nghiêm, nhưng mà Ngài có một cái kẹt nào đó nên chưa khai kinh được! Chắc có lẽ đây là cái duyên cho tôi đến để khai kinh cho Ngài chăng?!!!...
Quý vị tưởng tượng đi? Thì sau đó có một dịp vị đó tới gặp Hòa Thượng… mới gặp có năm phút, Hòa Thượng đã mời ra khỏi đạo tràng. Ngài nhất định không thay đổi ý kiến.
Xin thưa với chư vị, mình nói đây không nên nêu tên nêu tuổi, nhưng mà thực ra thì có rất nhiều người đã lầm lẫn! Lầm lẫn giữa “Lý” và “Sự”. Lầm lẫn giữa “Lý đạo nhiệm mầu của Phật” và “Căn cơ thực chất của mình”. Chỉ vì tâm của mình chưa có định lực, nên thường hay háo kỳ. Chính vì cái háo kỳ đó mới nảy sinh ra những vọng tưởng. Cái vọng tưởng đó nếu không có người khai giải thì nó càng ngày càng trưởng dưỡng, càng phát triển, đến một lúc nó phát triển ngoài cái tầm kiểm soát của chính mình, đưa đến chỗ là cái vọng tưởng đó chi phối tâm trí mình luôn. Không phải là chuyện dễ đâu!...
Có những người khi tu hành niệm Phật như thế này, năm này qua năm khác, sao thấy mình không được chứng đắc gì cả? Cái tâm của mình sao vẫn còn lộn xộn! Mà sao vị kia nêu lên một cách hành trì khác chỉ cần một tuần, hai tuần thì tâm hồn tự nhiên an tịnh, được đắc này, đắc nọ... Tìm hiểu thì họ nói cũng giống như lời Phật nói, họ nói cũng giống như lời Tổ nói!?... Thấy thích thú quá!
Thực ra, cũng là lời Tổ nói. Nhưng lời Tổ thì đang nói trên cảnh giới của Chơn Tâm Tự Tánh, mà khi áp dụng thì ta lại áp dụng cho những người, xin thưa thực, chính ta làm chưa được, mà cứ đem ra áp dụng cho những người nghe đó, thì làm sao những người đó áp dụng cho được? Áp dụng không được mà lại xúi người ta làm, vô tình xúi tới chỗ vọng tưởng!
Chính vì vậy, nương theo những sự cố vừa mới xảy ra ở trong nước cũng như ở trên thế giới, tình thực Diệu Âm đã gặp nhiều chuyện trên thế giới lắm, nhiều lắm không phải ít đâu, cũng hai mươi mấy vụ như vậy, hoàn toàn từ chỗ này mà phát sinh ra. Nhận thấy đây là con đường nguy hiểm quá! Mong cho chư vị đồng tu ở đây, chúng ta cứ một lòng Thành Tâm - Kính Cẩn - Khiêm Nhường để niệm Phật, đừng nên móng tâm mong cầu một cách sơ suất. Nên nhớ, khi đã bị vướng vào đó rồi thì không cứu được! Nhất định không cứu được! Những kinh nghiệm này xin thố lộ ra để cho chúng ta cùng nhau đi con đường an toàn, chầm chậm, vững chắc. Luôn luôn nương theo đại thệ của đức A-Di-Đà, nương theo chư Long-Thiên Hộ-Pháp, chư đại Bồ-Tát gia trì bảo vệ thì chúng ta mới an tâm được để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nhất định nên nhớ rằng, ta vãng sanh là do lòng Chí Thành, Chí Kính mà được các Ngài tiếp độ, chứ không phải là sự chứng đắc. Mong chư vị nhớ kỹ điều này để đường đi không bị trở ngại.
A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 10)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Trong việc tu hành có hai vấn đề mà chúng ta thường nhắc trong những ngày gần đây, thứ nhất là “Lý Đạo”, thứ hai là “Sự Đạo”.
“Lý Đạo” là chúng ta không đi ra ngoài quỹ đạo của Phật, những lời khuyên dạy trong kinh điển. “Sự Đạo” là phải biết ứng hợp cho đúng. Nếu chúng ta không chú ý tới “Sự Đạo”, thường khi “Lý Đạo” thì đúng mà ứng dụng để tu hành thì sai. Tại vì tất cả kinh điển, những lời Phật dạy đều có cái đối tượng ứng trị khác nhau chứ không phải giống nhau.
Trong vấn đề ứng trị đó, về lý đạo chúng ta không nên chú tâm tìm hiểu những đạo lý quá cao siêu, vì những đạo lý quá cao siêu thường thường chỉ hợp những căn cơ rất cao. Chúng ta chỉ nên áp dụng làm sao cho cụ thể những việc hàng ngày chung quanh chúng ta, thì tự nhiên việc tu hành không có gì trở ngại và chúng ta cũng dễ được thành tựu.
Đem việc “Khế Lý - Khế Cơ” ứng dụng vào vấn đề hộ niệm cũng rất là hay. Ví dụ như có người vì không tin vào sự hộ niệm, nên suốt cuộc đời của họ khó có thể thấy được một người vãng sanh, vì vậy họ cứ nghĩ rằng không có vãng sanh. Ngược lại, có những người khi hộ niệm thành công một số trường hợp, ví dụ như ở Việt Nam có những ban hộ niệm người ta báo cáo hơn 100 người vãng sanh. Có ban hộ niệm thì 77 - 78 người vãng sanh, và thành phần bị rớt vãng sanh chiếm cỡ chừng một phần ba, nhiều khi một phần tư, cũng có ban hộ niệm cỡ chừng một nửa, một nửa thành công, một nửa thất bại. Khi họ hộ niệm được một số người vãng sanh như vậy, tự nhiên họ thấy rằng hình như chính họ có một cái năng lực nào đó để làm cho người ta vãng sanh. Đây chính là cái mốc điểm thối chuyển chứ không hay ho gì hết! Thường thường gặp những trường hợp như vậy, thì Diệu Âm hay khuyên rằng:
- Khi một người mà được ta hộ niệm vãng sanh, thì xin chư vị hãy nhớ cho, người vãng sanh đó là do thiện căn phước đức của chính người đó. Ta phải nói là do thiện căn phước đức của chính người đó kết hợp lại, rồi ta tạo cái duyên cho họ. Hoặc mình nói rằng, thiện căn phước đức của người đó đã chín muồi, khi gặp cái duyên này, tức là duyên hộ niệm, người ta mới hội tụ được cái thiện căn phước đức đó mà vãng sanh về Tây Phương.
Mình nói như vậy thì hay hơn là nói rằng, “À! Người này nhờ tôi hộ niệm mà được vãng sanh”.
Thường thường những lời nhắc khéo này để cảnh cáo những người hộ niệm hãy bớt đi cái tâm ngạo mạn. Khi liên lạc về Việt Nam, thường thường tôi liên lạc những ban hộ niệm lớn trước, thì phát hiện ra điều này, lâu rồi chứ không phải là mới đây. Thì trong cơ hội này tôi xin nói ra, mong rằng những lời nói này sẽ đến tai những người đó. Tôi thấy rằng cái tâm ý cống cao ngã mạn của người hộ niệm đã khởi lên. Từ từ nó khởi lên! Có người hộ niệm cho rằng họ có khả năng cứu độ chúng sanh! Khi gặp những trường hợp như vậy, tôi áp dụng theo lời khuyên của Hòa Thượng Tịnh-Không, là chỉ khuyên ba lần, không bao giờ khuyên tới bốn lần. Trực tiếp nói rất mạnh thì hai lần, lần thứ ba thì bắt đầu nói xa nói gần, đến lần thứ tư thì chỉ nói chung chung, chứ không nói thẳng nữa. Người nào nghe thì nghe, không nghe thì thôi, chứ bây giờ không biết làm sao hơn!...
Trường hợp này gọi là “Thối Chuyển”! Cũng như chúng ta tu hành ở đây, khi thấy rằng ta niệm Phật như vậy là tốt! Công phu của ta như vậy là hay! Tự nhiên ta thấy có cái gì chứng đắc! Khi đã thấy một cái gì chứng đắc, tức là khởi đầu từ đó cái tâm thối chuyển! Chắc chắn như vậy. Thối chuyển ở chỗ nào? Vì tâm ý của những người thấy rằng mình chứng đắc đã bị nạn cống cao ngã mạn nổi lên rồi. Trong sáu cái phiền não căn bản của một người phàm phu, Tham, Sân, Si, Mạn... Thì “Mạn” nó nằm cái hàng thứ tư. Khi đã ngã mạn lên rồi thì thường thường nối theo “Ác Kiến”. Ác kiến là gì? Thường thường cho ta chứng đắc, bắt đầu khinh khi người khác. Cái “Mạn” này cũng có thể nằm trong những người đi hộ niệm. Đầu tiên tâm người hộ niệm chân thành, có lòng từ bi đi hộ niệm cho người ta. Những lần đầu tiên vì quá chân thành, quá tin tưởng, quá nhiệt tâm nên cảm ứng rất mạnh, họ cứu độ rất nhanh. Có những ban hộ niệm khi gặp được phương pháp hộ niệm, một tuần sau họ báo cáo có người vãng sanh, hai tuần sau, ba tuần sau có người vãng sanh. Có một người được vãng sanh đã làm cho niềm tin của những người chung quanh lên rất cao và sau đó người ta hộ niệm hầu hết được thành công, có thể nói mười vụ thành công được chín vụ. Khi số lượng vãng sanh lên cao như vậy, tự nhiên họ thấy rằng họ có cái năng lực nào đó!... Từ đó bắt đầu mới sinh sự ra! Khi sinh sự ra như vậy, thì chỉ cần có một vụ, hai vụ trở ngại, thì tâm bắt đầu thối xuống... Đây là lời nhắc nhở chung. Chắc chắn ở đây thì chúng ta chưa lâm vào tình trạng này, nhưng xin chư vị cũng nên lưu ý, tại vì Niệm Phật Đường chúng ta là đạo tràng hộ niệm. Chúng ta phải nhớ rằng, hộ niệm cho một người được vãng sanh là do cái phước phần của người đó.
- Người đó có quyết lòng hay không?
- Người đó có Tín hay không?
- Có Nguyện hay không?
- Hạnh đủ hay không?"...
Đó đều là phước phần của họ và chúng ta chỉ là cái duyên mà thôi. Như vậy khi hộ niệm cho một người mà họ không được vãng sanh là phải trả về cho chính họ:
- Người đó có thực hiện được hay không?
- Người đó còn có tham chấp hay không?
- Người đó còn có thị phi hay không?
- Người đó còn có tin tưởng hay không?
- Hay là, ở trước đạo tràng thì tin tưởng, về nhà thì mất tin tưởng!
- Ở trong Niệm Phật Đường thì niệm Phật, ra khỏi Niệm Phật Đường thì thị phi ganh tỵ!
- Ở trong Niệm Phật Đường thì nguyện vãng sanh, về nhà thì “Nguyện phim chưởng”!...
Ví dụ như hôm trước, rõ ràng là một người mà chính mình tới hộ niệm mấy lần, khuyên răn hết lời, lo đầy đủ hết. Ấy thế khi tình cờ đi thăm thì thấy cả nhà đang ngồi coi phim chưởng. Thật tình, khi gặp như vậy, tất cả tinh thần của mình bị xuống... xuống như diều đứt dây! Tôi đã nói thẳng thắn, nếu để tôi bắt gặp một lần nữa, nhất định không hộ niệm tiếp. Tại vì chính người ta không tha thiết chuyện vãng sanh, thì làm sao chúng ta có thể cứu người ta vãng sanh được?...
Trở lại vấn đề người hộ niệm, sau khi có một số thành công mỹ mãn thì thường khởi lên những tâm ý ngạo mạn. Việc này tôi cũng có nhắc nhở trong Internet, cũng có thường điện thoại, nhưng không cách nào nhắc nhở hết được. Vì nhiều lắm cũng chỉ liên lạc được một vài chỗ thôi, chứ hàng mấy trăm ban hộ niệm làm sao nhắc nhở cho hết. Thì lời này cũng chỉ là nói chung. Nếu chúng ta nghĩ rằng mình có khả năng như vậy, thì có thể chúng ta sẽ bỏ niệm Phật luôn! Vì đã có khả năng cứu người vãng sanh, thì mình cũng dư sức vãng sanh rồi!?... Đây là một cái bẫy rất tệ hại, nó sẽ làm cho mình mất phần vãng sanh!
Hơn nữa, đôi lúc cũng có những người sau khi hộ niệm cho người ta được một số vãng sanh rồi, thì tự nhiên thấy có những cảm ứng này cảm ứng nọ!... Rồi tự dưng đi ra khoe này khoe nọ!?... Gặp như vậy, tôi nói, nhất định đừng bao giờ nghĩ rằng, mình hộ niệm cho người ta là Nhân, thì cái Nhân này sẽ làm thành cái Quả. Tôi nói, Nhân-Quả này đúng, nhưng mà Duyên của chị đã mất rồi. Cái duyên cống cao ngã mạn không phải là duyên về Tây Phương Cực Lạc. Cái duyên tự cho mình ngon hơn thiên hạ không phải là cái duyên về Tây Phương Cực Lạc. Nên nhớ cho kỹ điểm này.
Cũng có lúc sau một thời gian hộ niệm được vãng sanh rồi, thì lời điều giải oan gia trái chủ của người hộ niệm cũng khác đi. Tôi phát hiện như vậy!... Khác chỗ nào? Khi điều giải oan gia trái chủ họ nói có vẻ tự thị lắm! Họ nói những lời giống như một người thầy dạy đứa học trò, dạy những người oan gia trái chủ. Nhiều người đã nói những lời rất trịch thượng. Khi gặp vậy, thường thường tôi cũng cảnh cáo liền…
Chúng ta cứu người bịnh, nhưng cũng phải có tâm cứu luôn những vị oan gia trái chủ của người bịnh nữa. Đó mới thực sự là Phật Pháp, mới thực sự là đại từ đại bi, bình đẳng.
Những vị oan gia trái chủ đó thực sự là nạn nhân của người bịnh đó, chứ không phải người bịnh là nạn nhân của oan gia trái chủ. Trên nguyên tắc, người bịnh đó đã sát hại họ trước, nay họ chỉ đến đòi lại sự công bằng mà thôi. Cho nên trước những hiện tượng này, chúng ta không được quyền làm một điều gì để trấn áp các vị oan gia trái chủ, mà mình phải cúi đầu xuống, chắp tay lại, lạy lục, khẩn nguyện các Ngài và cái tâm của mình là tâm cứu những vị oan gia trái chủ đó. Mình thành tâm khuyên giải họ, chứ không phải vì cứu người bịnh mà chúng ta làm hại đến các vị oan gia trái chủ. Đây là việc hoàn toàn sai lầm! Có thể trong lúc đó mình có tới năm, bảy chục người. Quá mạnh! Cái lực của mình mạnh quá làm cho các vị oan gia trái chủ phải dạt ra khiến ta cứu được người bịnh. Nhưng dạt ra đó không phải là do sự tự nguyện của họ đâu à! Như vậy vô tình mình rước lấy những sự xích mích, thù hằn cho chính cá nhân mình sau này mà mình không hay!?...
Cho nên, tôi khuyên các vị hộ niệm đó nhất định không bao giờ được đánh giá những vị oan gia trái chủ là hung hiểm, xảo quyệt, ác hiểm... Mình không được quyền nói như vậy. Mà phải kêu các vị đó bằng Ngài, và mình thành tâm để cứu họ. Vì muốn cứu họ, nên mình khuyên họ đừng có chấp vào thị phi nữa, đừng có chấp vào giận hờn nữa, đừng có trả thù qua lại nữa... Chúng ta hãy cùng nhau niệm Phật để liễu thoát sinh tử. Chúng ta thành tâm khuyên như vậy, thì với lòng thành tâm của mình, tất cả mọi người đều thành tâm, thì tự nhiên được cảm ứng.
Luôn luôn bắt buộc người bịnh phải sám hối, phải nhận lấy những cái lỗi này. Phải thành tâm sám hối và chỉ có người bịnh thành tâm sám hối thì mới gỡ được ách nạn. Nếu người bịnh không thành tâm sám hối mà mình dùng cái lực của mình để ép buộc các vị oan gia trái chủ phải dạt ra, họ dạt như vậy chẳng qua cũng tạo thêm sự căm hờn! Họ trả thù người bịnh không được, coi chừng họ đi trả thù những người bắt họ phải dạt ra. Chính vì vậy, xin thưa với tất cả chư vị, phải nhớ là luôn luôn chúng ta có cái tâm gọi là “Từ Bi Bình Đẳng” cứu những vị oan gia trái chủ, cứu cả người bịnh, thì mới có thể an toàn cho người bịnh, an toàn cho mình. Đây gọi là cứu độ bình đẳng tất cả chúng sanh vậy.
Mong cho những lời này đến được tai những người hộ niệm, xin cần chú ý thật kỹ. Đừng nên sơ suất nữa.
A-Di-Đà Phật