27.Thiền sư TỊNH LỰC
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên, trong khi viết về Trâu sơn, nói: "Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh", rồi dẫn An nam chí rằng: "Núi Vũ ninh ở châu Vũ ninh, có Tỉnh cương và có Thạch xà gọi là Ngọc kinh tử, lại có mộ của Việt Vương.
Tỉnh cương như vậy là một cái gò trên núi Trâu hiện nay. Cái gò này vì có một cái giếng, nên gọi là gò Giếng hay Tỉnh cương. Bên cạnh gò có lẽ có một cái đầm và vì nó gần mộ của Việt Vương, nên gọi là Việt Vương trì hay Vương trì. Còn Vũ ninh, cái tên đặt ra từ thời Tôn Ngô, đến thời Lý vẫn còn dùng để gọi một châu. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) vua dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh" Đất châu này ngày nay thuộc địa phận hai huyện Quế dương và Vũ Giang tỉnh Bắc ninh.
(2) Theo Cương mục tiền biên 3 tờ15a1-4 thì "Vũ bình vốn đất huyện Phong khê, khoảng đầu đời Ngô đặt ra, gồm có 7 huyện. Đời Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long bình, đời Đường đổi làm huyện Vũ bình, sau đó lại đặt làm Đằng châu. Đời Đinh và Lê lấy làm hai phủ Tiên hưng và Khoái châu, nay là đất tỉnh Hưng yên vậy".
Đại nam nhất thống chí tỉnh Hưng Yên, mục phần dã cũng có một ý kiến tương tợ, đấy là đặt Đằng châu và Khoái châu làm tên cho quậnVũ bình đời Lương, rồi chú chép là "chép trong sử Lý Cao Tôn". Toàn thư B4 tờ 25a8 có ghi "Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209) mùa xuân tháng giêng Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu và Khoái châu đi đánh Phạm Du". Nhưng không nói gì đến chuyện đặt tên Đằngchâu và Khoái châu cho Vũ Bình hết. Mà truyện Tịnh Lực ở đây xác nhận là cái tên Vũ bình cho tới thời Lý vẫn đang còn dùng.
Các sử sách Trung quốc thì Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 12b4-9 nói "huyện Vũ bình, từ huyện lỵ đến phủ lỵ (Giáo châu) phía tây nam 19 dặm, vốn là đất thành bọn mọi Phù nghiêm. Năm Kiến Hoạch thứ 3 (271) đời Qui Mạng Hầu nhà Ngô đánh tan bọn mọi Phù nghiêm đặt quận Vũ bình, năm Khai Hoàng thứ 10 (590) bỏ quận, lập huyện Sùng bình thuộc Giao châu. Năm Vũ Đức thứ 4 (621) đổi tên là Vũ bình". Huyện Vũ Bình như vậy ở vào phía đông bắc của phủ trị Giao châu, mà vào thời Lý Cát Phủ viết Nguyên hoà quận huyện đồ chí, tức những năm 806-820, thì đã ở tại phần đất của thủ đô Hà nội ngày nay. Cứ vào mô tả đó thì huyện Vũ bình có thể ở vào địa phận tỉnh Hưng yên lắm.
Thái bình hoàn vũ ký 17tờ 8b9-9a3 cũng có những mô tả tương tự. Nó viết: "Huyện Vũ bình, nhà Ngô đặt quận Vũ bình, nhà Tùy đổi thành huyện. Nó vốn là huyện Phong Khê thời Hán. Khoảng đầu năm Kiến Vũ, người con gái huyện Mê linh tên Trưng Trắc làm phản, đánh hãm Giao chỉ. Mã Viện đem quân tới đánh, ba năm mới bình. Vũ đế bèn đặt thêm hai huyện Vọng hải và Phong khê. Phong khê tức huyện này. Đời Tuỳ gọi nó là Long bình. Đường Vũ Đức năm thứ 4 (621) đổi nó làm huyện Vũ bình". Những mẫu tin của Nhạc sử ở đây đều chép lại Nguyên văn của phần địa lý về huyện Vũ bình trong Cựu đường thư 41 tờ 43a8-11, Tân Đường thư 43 thượng tờ 10a1 cũng không có một điểm gì mới lạ.
Chúng tôi nghĩ rằng, cứ vào những tài liệu Trung quốc vừa dẫn thì huyện Vũ bình đời Đường cho đến đời Lý vẫn là một địa phận với những thêm bớt cắt xén nào đó. Vũ bình thời nhà Lý rất có thể là tên một quận hay một châu, và nó nằm tại phần đất tỉnh Hưng yên ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3 tờ 18b2 và 19a2 có kê một tổng xã tên Cát dương thuộc huyện Phù dung và một tổng xã tên Cát lăng thuộc huyện Tiên lữ, phủ Khoái châu. Cát lăng quê hương của Tịnh Lực ở đây có thể gồm địa phận các tổng Cát dương và Cát lăng vừa nói.
(3) Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. phương pháp Thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân Phật thì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật thì gọi là danh xưng niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến khi vào thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam muội. Xem Quán vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm phật tam muội kinh 7 ĐTK 1996.
(4) Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể làm cho người ta "nhẹ người thần tiên" và chống lại được bệnh do tà ma quỉ quái tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên gọi là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh 2 tờ 2b1-11 và Bản thảo cương mục 9 tờ 21b9-28b1. Đặc biệt đây là chất người Trung quốc thường dùng để bôi xoá những chữ viết sai. Cho nên về sau nói người nào có hùng hoàng trong miệng là muốn nói người đó giỏi biện luận, có thể sửa sai người khác.
(5) Thừa Tiên là tự của Lâu Huyền đời Tôn Ngô và của Thái Hựu đời Bắc chu. Họ đều là những trung và công thần của hai triều đại ấy. Xem Ngô chí 20 tờ 2a2-3a1 và Chu thư 27 tờ 2b13-4b6.
(6) Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy từ quẻ càn của Chu dịch: "Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân". (Rồng ra ở ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà cẩn thận, tránh điều tà mà giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để giáo hoá. Dịch nói: "Rồng ra ở ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của vua vậy." Xem Chu dịch 1 tờ 2b7-10.
(7) Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ lấy ra ở thiên Chính lý của Thuyết uyển: "Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: "Nước có nạn gì?" Quản Trọng đáp: "Nạn là nạn chuột xã. Hoàn Công hỏi: "Sao gọi thế? Quản Trọng đáp: cái xã là do bó cây mà trét đất lên. Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi thì sợ cháy cây. Tạt chúng đi thì sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết được là vì ngôi xã. Nước cũng có loại chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên vua vậy. Bên trong thì chúng bưng bít việc thiện ác đối với vua. Bên ngoài thì chúng mua bán quyền hành đối với dân. không diệt chúng thì nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước vậy". Xem Thuyết uyển 7 tờ 11a1-7.
28. THIỀN SƯ TRÍ BẢO
(1) những tư liệu thời Lý , Trần hiện còn thì hoặc có tên Cát lợi, hoặc có tên Lợi hy, chứ chưa thấy tài liệu nào có tên Cát lợi hy. Về tên Cát lợi, Đại Việt sử lược 3 tờ 24a2, ghi lại sự việc "năm Kiến Gia thứ 2 (1212) tháng 2 Nguyễn Tự tấn công người cát lợi là Ngô Thưởng ở Vũ cao, bị tên độc trúng, bèn trở về xóm Tây dương, tuần hơn lỡ giao cấu với đàn bà, khí độc phát lại mà chết". Còn tên Lợi hy, văn bia của chùa Báo ân tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú dựng năm Trị bình Long Ứng thứ 5 (1210) triều Lý Cao Tôn thì ghi nó như một tên xã. Về vị trí nó, xem chú thích (2) truyện Khuông Việt.
(2) Cương mục tiền biên 4 tờ 12a4-6 viết: "ô Diên là đất Giao chỉ xưa, năm Đường Vũ Đức thứ 4 (621) đặt huyện Ô Diên cùng với Từ liêm và Vũ lập là ba huyện đều thuộc Giao chỉ, Sử cũ chua Ô diên là xã Hạ mỗ ở Từ liêm. Xã ấy có đền thờ Bát lang thần, "đó tức là đền thờ Nhã Lang vậy". Sử cũ mà Cương mục dẫn ra đây tức là Toàn thư N4 tờ 20a1. Kiến văn tiểu lục 6 tờ 1b5-7 cũng lập lại những gì Toàn thư đã nói, như Cương mục đã dẫn. Nó viết: "Xã Hạ Mỗ, sử nói tức là thành Ô diên, nơi ở của Triệu Việt Vương". Xã đó có đền thờ Bát lang thần, tức là Lý Nhã Lang, rể của Triệu Việt Vương. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội , mục Từ miếu cũng ghi thế. Quê hương của Trí Bảo như vậy phải là làng Hạ mỗ, huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay.
(3) Tô Hiến Thành (? – 1179). Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì trong trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi vào năm 1139 (Toàn thư ghi vào năm 1141) Tô Hiến Thành mang chức Thái phó. Đến năm 1159, Toàn thư B4 tờ 14a 7 nói: "Vua phong Tô Hiến Thành làm Thái uý".
(4) Ý và chữ lấy từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn. Tiếng nói như chuông, Nhất bảo: "Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật" (nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8, tờ 257a8-9. Xem thêm chuyệ�n Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: "Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự nghiệp gì không?" Tán đáp: "Không có sự nghiệp gì ráo", nên bị thầy sai hầu hạ. Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: "Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng". (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất thánh). Xem Truyền đăng lục 9 tờ 168a10-14.
(5) Có người hỏi Tôn Triệt: "Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?" Triệt đáp: "Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong". Xem Truyền đăng lục 12 tờ 293a 22-23.
(6) Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: "Hoà thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy không ?" Bị đáp: "Biết nhau khắp thiên hạ" (Tương thức mãn thiên hạ). Xem Truyền đăng lục 18 tờ 347a13-14. Xem thêm Viên Ngộ Phật Quả thiền sư ngữ lục 1 tờ 715b24. Thiền sư Kế Bằng thượng đường, chấp tay hỏi:
"Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người".
(Tưởng thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 476b 20-21.
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyệ�n Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 tờ 302a24-25
Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân.
(7) Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: "Bồ tát ư tự tư tài, thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm. Nãi trí thảo diệp, bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhiễm chi tâm, hà huống tùng sự, huống ư phi đạo". (Bồ tát đối với của cải mình, biết vừa đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ đối với vợ mình, mà không vợ người. Đối với thê thiếp của người, con gái do người bảo hộ, mình còn không móng lòng tham nhiễm, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 35 tờ 185a25-b2.
29.THIỀN SƯ TRƯỜNG NGUYÊN
(1) Về Bình Lỗ và núi Vệ linh, xem chú thích (5) truyện Khuông Việt
(2) Về Tiên du, xem chú thích (2) truyện Vô Ngôn Thông.
(3) Thiện Hội ở Giáp sơn, có người hỏi về cảnh Giáp sơn, đáp:
"Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền
(Vượn bồng con về trong núi xanh
Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b20-21.
(4) Những từ chủ yếu trong 4 câu đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ vi" (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang, không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 12a13-b6.
(5) Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51 của Đạo đức kinh, "Đạo sinh chi, đức súc chi…trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng chi, phú chi…." (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, …, lớn đó, nắn đó, đúc đó, dưỡng đó, che đó). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 9b6-10a6. Xem thêm Biện mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ 7b13- 8a8: "Rằng sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy…, sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ…" (Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên…., sinh chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí).
(6) Gai sắt, người gỗ, Thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của Thiền. Thiền sư Đông An Sát, Thập huyền đàm:
"Mộc nhân dạ bán xuyên ngọa khứ
Thạch nữ thiên minh đái mạo quy"
(Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c6-7. Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp:
"Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu".
(Người gỗ tuy không nói
Gái đá hết ngoảnh đầu)
Xem Nhân thiên nhãn mục 1 tờ 305c5-6.
30. Thiền sư TỊNH GIỚI
(1) Trong mấy chục ngọn núi của hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh ghi trong Đại nam nhất thống chí 13-15, tỉnh Hà tĩnh và tỉnh Nghệ an, không thấy ghi ngọn núi nào tên Bí linh cả. Phải chăng nó đã bị đổi tên? Trong tình trạng hiểu biết và tư liệu hiện tại, chúng tôi chưa thể trả lời được.
(2) Cương mục chính biên 2 tờ 11a2 nói: "Phủ Trường an, đời Lý là phủ, đời Trần và Lê nhân theo, nay là phủ Yên khánh, tỉnh Ninh bình vậy". Phủ Yên khánh, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục phần dã thì đời Nguyễn gồm bốn huyện, đây là Yên khánh, Gia viễn, Yên mô và Kim sơn. Nó như vậy tương đương với phần đất của những huyện Yên khánh, Gia khánh, Gia viên và Yên mô, tỉnh Ninh bình hiện nay. Phủ Trường yên là do Lý Công Uẩn đổi thành Hoa lư, kinh đô của nhà Đinh và Lê, vào năm 1010 mà ra.
(3) Lô Hải đây chắc phải nằm trong địa phận những huyện Hoằng hoá và Hậu lộc tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì, Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Sơn xuyên, tờ 43a4-6 có kể tên một con sông tên Ngung Giang, Nó viết: "Ngu giang ở tại ranh giới của ba huyện Hoằng hoá, Mỹ hóa, và Hậu lộc, một tên là Ngung giang. Nguồn nó bắt đầu từ hai sông Mã và Lương mà tới, đến cửa An phái thì phân dòng mà chảy qua những huyện Hoằng hoá và Mỹ hóa, rồi ngoặt qua Hậu Lộc thì có nước Khe trà, …một tên Bào giang chảy vào, rồi đổ vào cửa Ỷ bích. Cái gọi là sông Nhị, sông Cát, sông Bút, sông Bích đều là những tên khác của sông này. Sử nhà Lê nói trong khoảng Thiên Hựu (1557) Mạc Kính Sử đánh bị thua, về giữ sông Bút cương, tức nơi đây".
Ngu giang ở đây chắc là Ngung giang của chúng ta, bởi vì cả chữ Ngu lẫn chữ Ngung đều có âm phù ngu, âm phù đó cũng đọc ngung, cho nên trị sở của Quảng châu thời Hán đúng ra cũng phải đọc Phiên ngu, nhưng chúng ta cũng thường đọc là Phiên ngung. Chúng tôi do đó coi Ngung giang cũng là Ngu giang. Vào thời Lý, việc lấy tên sông mà đặt tên cho một địa phận cũng thườngxảy ra, đặc biệt là tại vùng Thanh hoá. An nam chí lược 1 tờ 21 nói: "Phủ lộ Thanh Hoá là quận Cửu chân đời Tây Hán, Ái châu đời Tuỳ Đường. Những thuộc ấp của nó ngày nay gọi là giang, trường, giáp, xã".
Về vị trí thực sự của Lô hải, cũng như của Ngung giang, chúng tôi nghĩ rằng nó nằm vào khoảng vào tổng Lỗ hương, mà trước năm 1839 thuộc huyện Hoằng hoá mà sau đó thì bị cắt làm huyện Mỹ hoá cùng những tổng khác, rồi đến năm 1850 lại thuộc huyện Hoằng hoá. Từ tổng Lỗ hương đó đi ra phía đông đến biển và cửa Ý bích có thể là địa phận của Lô Hải xưa thời Lý. Nói khác đi nó bao gồm phần lớn đất do Ngu giang chảy qua. Ngu giang ngày nay là sông Lạch trường. Cửa Ỷ bích là cửa Lạch trường. Nên Lô hải là Ngung giang nằm tại vùng lạch trường đó.
Những địa danh như Mão hương, Ngung giang, và Lô hải bàn cãi ở đây, chúng tôi chưa thấy một sách sử nào nói tới. Do thế không cần phải nói là những bàn cãi trên có tính chất tạm thời và giả thiết.
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 209 thì "Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông quan, tu hạnh đầu đà, cảm hoá như thần, Giao châu có hạn, họ Lý sai sứ đi đón về. Nửađêm Sư đứng giữa sân đốt hương. Mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý khen, tặng làm thầy Mưa". Nói là gốc huyện Đông quan, bởi vì Giới về ở chùa Báo thiên, Hà nội, chứ thật sự không phải.
(4) LãngSơn đây nghi là Lãng sơn ở huyện Lập thạch, tỉnh Sơn tây thời Nguyễn tức nay là huyện Lập thạch, tỉnh Vĩnh phú. Dù chữ Lãng trước viết với bộ thủy và Lãng sau viết với bộ nguyệt. Thiền uyển tập anh thường có cái tật thay chữ đồng âm này với một chữ đồng âm khác, mà không sợ đổi nghĩa, nhất là trong những tường hợp danh từ riêng. Ví dụ ở tờ 4b1 chữ hoài của Bách Trượng Hoài Hải thì bị viết thành hoài.
Về Lãng sơn Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b8 nói: "Núi Lịch ở tại xã An lịch, huyện Sơn dương, bắt từ núi Sư khổng của huyện Đương đạo chạy xuống đến xã đây thì giữa đất bằng nổi lên năm sáu ngọn núi đất, rồi rẽ ngang thành một nhánh chạy xuống huyện. Lập thạch thành Lãng sơn. Trên Lãng sơn – tục gọi là núi Lạng – cũng có đền thờ vua Thuấn. Trước núi lại nổi lên một ngọn núi đất hơi thấp. Trên đỉnh nó, như hình cây giao nhau bên trong rộng ước độ vài sào, có thể trồng loại tiêm nha 100 bông – 1 bông 40 bó, 100 bông 4000 bó – tục truyền đó là chỗ vua Thuấn trồng, nhân đó gọi là núi Bách bông". Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn uyên, cũng dẫn đoạn vừa viết của Kiến văn tiểu lục, khi nói về Lịch sơn.
Lãng sơn như vậy là chi nhánh của núi Lịch ở tại huyện Lập thạch. Ngày nay huyện Lập thạch tỉnh Vĩnh phú còn có Lãng sơn, mà người ta thường gọi là núi Hạng. Ta hiện chưa biết núi Hạng này còn có một ngôi chùa nào chăng? Truyện Tịnh Giới ở đây nói khi Giới đã xách gậy đông du, tức từ Thanh hóa đi ra miền bắc, để đến tại Lãng sơn thì "trải bảy năm tham học, Giới gặp Bảo Giác chùa Viên minh" Thế thì phải chăng Giới đã gặp Bảo Giác tại Lãng sơn? Phải chăng chùa Viên minh ở tại núi đó? Chúng tôi hiện chưa rõ.
(5) Tiểu sử của Viên Thông thuộc đời thứ 18 của phái Pháp vân nói: "Cha của Viên Thông là Huệ Dục, làm quan dưới triều Lý Nhân Tôn đến chức tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác". Phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh nói ở đây là cha của Viên Thông? Thật khó mà trả lời. Viên Thông mất năm 1151 lúc đã 72 tuổi. Cha của Viên Thông do thế không thể sống quá năm 1151 này, có quá lắm thì sống sau đó khoảng năm hay mười năm là cùng, nghĩa là tới khoảng năm 1161. Nhưng Bảo Giác chùa Viên minh ở đây lại mất vào năm 1173, như vậy khó có thể làm cha Viên Thông.
Thế thì phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh đây là một viết lộn cái tên của Bảo Giác chùa Bảo phúc tại Đa vân thuộc thế hệ thầy của Tịnh Giới? Đây là một có thể, bởi vì tiểu sử của Bảo Giám nói Giám mất vào năm 1173 cùng năm với Bảo Giác chùa Viên minh, chỉ khác tháng mà thôi. Một bên mất vào tháng 10, một bên mất vào tháng 5. Nhưng không quan trọng cho lắm, bởi vì chữ ngũ có thể viết lộn thành chữ thập và ngược lại. Có khác chăng là khác chùa, một bên chùa Bảo phúc, một bên chùa Viên minh, nhưng cũng không thiết yếu lắm với sự dời đổi thường xuyên của phần lớn những vị Thiền sư .
Dầu sao, cuối tiểu sử của Tịnh Giới ở đây, người viết đã chú thích là "truyện của Giới đại khái so với Quốc sử và văn bia không giống, nay xin khảo chính lại", thì cũng đủ thấy, ngay từ thời Thiền uyển tập anh ra đời, cuộc đời của Giới cũng đưa ra khá nhiều vấn đề, đến nỗi cần phải khảo chính lại. Vì thế, Tịnh Giới cuối cùng có thể là đệ tử của Bảo Giác, cha của Viên Thông.
(6) Nguyên văn:
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.
Câu 2 theo luật thơ phải là "Chân như quy tịch mục tiền ky". Còn chữ "nghi" trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. Xemthiên Tứ sử, phần Xuân quan của Chu lễ 19 tờ 6b 12-13 và nghi cũng có nghĩa là "hướng đến". Xem Ngoại thích truyện của Tiền hán thơ 97 thượng tờ 18b 13 – 19a1. Nên "mẫn tâm nghi" chúng tôi dịch là "đứt mọi xen", tức dứt mọi thú hướng của tâm.
Tư tưởng "vạn pháp qui không" là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền. Xem Truyền đăng lục 8 tờ 262c5. Phúc Khê có người hỏi: "Duyên tán qui không, không qui hà sở?". Sư đáp: "Ta". "Mục tiền ky" là cơ duyên trước mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục 8 tờ 263a12-13.
Khốc thanh sư dĩ hiểu
Dĩ hiểu phục thùy tri
Đương thì Ma kiệt quốc
Kỷ táng mục tiền ky
(7) Về chùa Báo thiên, xem chú thích (6) truyện Đạo Huệ.
(8) Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: "Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: "Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa". Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân".
Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: "Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. L.M Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 thì "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương." Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở "ngoài cầu Tây dương", nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Nói khác đi, phải có hạn trước năm 1172.
Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì dưới triều Lý Anh Tôn ta có những năm hạn sau đây:
1140 "Từ xuân đến hạ không mưa, vua mới cầu mưa"
1142 "Từ xuân đến hạ hạn, vua thân hành cầu, tháng 6 Đinh sửu mới mưa.
1146 "Mùa hạ tháng 4 trâu bò bị dịch chết, hạn, cầu thì mưa".
1150 "Mùa xuân tháng 3 hạn. Mùa thu tháng 7 hạn"
1148 "Mùa hạ hạn, cầu thì mưa"
1165 "Mùa hạ tháng 6 đại hạn, dân chúng bị bệnh dịch lớn, trâu, bò chết phần lớn, giá gạo nhảy vọt".
Như thế, trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc "vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa" như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà "người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế". Với một mục đích đấy, Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như Việt điện u linh tập đã có.
Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô căn cứ.
(9) Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10 viết: "Năm Trinh Phù thứ 4 (1179) tháng 5 sửa thêm chùa Chân giáo, xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành hương vào ngày kỵ của Anh Tôn". Việc này, Toàn thư và các sử khác không ghi.
Về chùa Chân giáo tại núi Vạn bảo, Tây hồ chí, phần Tự am tập viết: "Chùa Chân giáo xưa tại đỉnh ngọn Phục tượng của núi Vạn bảo trong thành Đại la. Chùa dựng vào mùa thu năm Tthuận Thiên thứ 15 (1024) để làm nơi vua ngự xem tụng kinh. Nay chùa chỉ còn một gian, biển cũ cũng mất, vì vậy ít người biết gốc tích. Tục chỉ gọi chùa Tượng sơn. Núi và chùa nay ở tại trại cần bảo huyện Vĩnh Thuận, phía tây ngoài thành. Lại xét chỗ đất trũng trước chùa có nước đọng, thời xưa là ao Ngoạn Thiềm, triều Trần bắc cầu Lâm ba trên nó, nay di tích không còn.
Về núi Vạn bảo, Tây hồ chí, mục Sơn xuyên, viết: "Núi Vạn bảo gồm 15 ngọn ở về phía nam của hồ, nay thuộc tổng Vĩnh thuận nội, các ngọn chia thuộc 16, 17 trại, điếm. Những cung điện, chùa miếu của ba triều Lý, Trần , Lê, nền cũ phần nhiều còn đó. Có nói rõ trong Thăng long chí. Ba ngọn Phục tượng, Phục hổ và Thần bút là chi nhánh núi Vạn bảo".
(10) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung
Bat đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hạ ngữ dĩ truyền tâm.
Những chữ in đậm là đọc khác với bản của Thiền uyển tập anh.
(11) Nguyên văn: Thử truyện lược dự quốc sử cập bi văn bất đồng, kim phục khảo chính. Quốc sử đây chắc phải là Đại Việt sử lược của Trần Chu Phổ còn văn bia của Tịnh Giới hiện ta chưa tìm lại được. Vì Quốc sử là của Phổ, cho nên qua những bàn cãi trên, ta thấy những sự việc ghi trong truyện Tịnh Giới không thấy nói tới trong Toàn thư . Ngược lại, một trong những việc ấy lại do Đại Việt sử lược, một tác phẩm sử học đời Trần hiện còn chép.
31. THIỀN SƯ GIÁC HẢI
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, nhân viết về đền Nguyễn Giác Hải, có nói: "Đền đời Nguyễn Giác hải ở tại xã Yên vệ, huyện Yên khánh. Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải người Giao thủy, Hải nam – nay là tỉnh Nam định – sinh khoảng thời Lý Thái Tôn. Nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên vệ, cùng với Nguyễn Minh Không kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao thủy, trụ trì chùa Nghiêm quang".
Nói như thế, phải chăng chùa Diên phúc là chùa Nghiêm quang ở đây? chắc chắn là không phải, bởi vì chùa Nghiêm quang tức chùa Thần quang hay chùa Keo ngày nay, và chùa chưa bao giờ có tên Diên phúc. Chúng tôi chưa có dịp nghiên cứu hiện địa vùng Giao thủy, nên chưa thể trả lời dứt khoát chùa Diên phúc là chùa nào và nằm tại đâu hiện nay. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2b4 có ghi tên một chùa tên Diên phúc. Ở thôn Cồ việt, ở đó có tấm bia do Nguyễn Công Diệm soạn vào năm 1113. Nhưng Khảo bắc thành địa dư chí lục, chúng tôi không thấy thôn Cồ việt ở đâu cả, nên cũng chưa xác định hẳn vị trí chùa Diên phúc được.
(2) Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục " Tăng đạo thần thông" chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.
(3) A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:"Hoà thượng sống ở đây có cảnh giới gì?", Sư đáp: "A giác nữ bạch đầu ty" (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ), Xem Truyền đăng lục15 tờ 319c13.
(5) Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư , có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: "Thế nào là mau được pháp thân?"
Sư đáp:
"Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng
Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư".
(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán)
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 278b18-19
Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy "có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bày cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ các chép một hai con thì có thể được. Giao châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng".
(5) An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, cósao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.
(6) Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do "Đạo nhân Quán tam thanh" thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ 48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An nam chí lược 15 tờ 147 về "hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông" hai cái để tại chùa núi Phổ lại, và việc "Giác Hải giỏi lặn dưới nước" cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.
32. Thiền sư NGUYỆN HỌC
(1) An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường". Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: "Thiền sư Nguyện Học là Sư châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất". Do thế, những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là "sư châu Vũ ninh", nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.
(2) Tức làng Chân hộ huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Đạo Huệ.
(3) Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
(4) Chùa này ở tại Long đàm, Phúc đường, tức khoảng vùng huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Viên Chiếu.
(5) Tức núi Sóc, huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (5) truyệ�n Khuông Việt.
(6) Nguyên văn: Thiên Cảm Chí Bảo bát niên. Nhưng theo Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo chỉ gồm có hai năm, đấy là năm 1174 và 1175 thôi. Như thế, chữ bát chắc chắn là một viết sai của chữ nhị chúng tôi đề nghị sửa và dịch theo cách hiểu đây.
(7) Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư.
Đạo nguyên bất viễn
Tánh hải phi diêu
Đản hướng kỷ cầu
Mạc tùng tha mích
Mích tức bất đắc
Đắc diệt phi chân.
(Nguồn đạo không ngái
Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm
Chớ tìm ở người
Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân)
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b2-4
(8) Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc toạ thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất biến vi trần tướng
Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9
(8) Tức truyện của Huệ trong Truyền đăng lục 27 tờ 431a14-c8. Tư sinh năm 514 và mất năm 577, thọ 64 tuổi, người Vũ tân, họ Lý. Cái mà tác giả Thiền uyển tập anh gọi là "truyện của Học với truyện Huệ Tư đại khái giống nhau" rõ ràng nằm trong những bài kệ Thị chúng dẫn trên.
33. THIỀN SƯ QUẢNG NGHIÊM
(1) Xem chú thích (2) truyện Bảo Giám
(2) Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói "tên trước của Trí là Thiền Trí". Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn của Thiền Trí hay ngược lại.
(3) Tức Minh Giác Thiền sư ngữ lục, 6 quyển, ĐTK 1996 tờ 669-711, của Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết đậu ở Minh châu, sau khi mất, được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.
(4) Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói: "Sống ư? Chết ư?". Ngô nói: "Sống, không nói. Chết không nói". Nguyên hỏi: "Vì sao không nói?". Nguyên đáp: "Không nói là không nói". Xem Bích nham lục 6, tắc 55 tờ 198a.
(5) Nguyên văn: Hư vãng, Trang tử "Đức sung phù": "Lập bất giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy". Xem Trang tử 2 tờ 16a3-4.
(6) Kim cang kinh: "Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư"
Xem Kim cang kinh tờ 750b29
(7) Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: "Kinh đó là ai nói?" Vị sư lên tiếng đáp: "Hoà thượng nói giỡn sao: Há không biết Phật nói sao?’. Sư nói: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người đó không biết nghĩa ta nói…"
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-5.
(8) Kiến sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là phái Kiến sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Âu.
(9) Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm:
"Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành".
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b16-17.
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan, nói: "Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ký nói: "Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự dinh, quanh năm cúng thờ".Nhưng Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 viết: "Tiêu sơn ở xã Tiêu sơn, huyện Yên Phong, trên có chùa Trường liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì của Tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ đầu thai ở đó".
Như vậy, một mặt chùa Trường liêu ở tại Tiêu sơn, huyện Yên phong. Mặt khác, truyện Thường Chiếu ở đây nói chùa Lục tổ ở tại làng Dịch bảng phủ Thiên đức, tức làng Đình bảng, huyện Từ Sơn hiện nay. Do đó, chùa Trường liêu dứt khoát không phải là chùa Lục tổ, bởi vì hai chùa ấy ở tại hai huyện khác nhau. Chúng tôi không hiểu tại sao Đại nam nhất thống chí đã có một sự đồng nhất trên. Cương mục chính biên 2 tờ 7b1-2 ghi: "Chùa Tiêu sơn là chùa Trường liêu tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh Bắc ninh". Cương mục viết như vậy hợp lý hơn. Và chùa Lục tổ từ đó phải ở vị trí làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.
(2) Làng Phù ninh đây chắc chắn không phải là thuộc huyện Phù ninh, tỉnh Sơn tây đời Nguyễn, tức Vĩnh phú ngày nay, bởi vì những truyện La Quý tờ 48a7 và Thiền ông tờ 51a8 nói rõ ra là phủ Thiên đức có làng Phù ninh với ngôi chùa Song lâm nổi tiếng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 cũng ghi một làng tên Phù ninh là quê hương hay trú quán của một số tiến sĩ nước ta dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa năm 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v…và nói làng Phù ninh ấy thuộc hạt Đông ngạn. Ngày nay huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc đang có một làng tên Phù ninh nằm tại phía nam làng Đình bảng và phía bắc làng Phù đổng. Làng Phù ninh của Thường Chiếu tức làng đó.
(3) Đại Việt sử lược 3 tờ 3b6 nói: "Đại Định năm thứ 4 (1143) dựng cung Quảng từ cho thái hậu ở". Toàn thư B4 tờ 5b3 chép việc này vào năm Đại định thứ 6 (1145), rồi ghi tiếp ở tờ 6b3 là "năm Đại Định thứ 9 (1148) mùa đông tháng 10 khánh thành cung Quảng từ". Đến năm Đại Định thứ 10 (1149) Đại Việt sử lược 3 tờ 5a2 viết: "Mùa thu tháng 8 vua đến chơi cung Quảng từ xem đua thuyền". Việc này Toàn thư B4 tờ 10a2 chép vào năm Đại Định thứ 12 (1151).
Sự so le hai năm về niên đại này, Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr. 444-445 cho là đến từ việc Toàn thư đã bỏ sót năm Quý sửu (1133) không chép, nên đề mục của năm đó trở thành đề mục của năm sau tức năm Giáp dần (1134), do thế mà chép việc chậm đi một năm. Còn Đại Việt sử lược thì lại chép việc sớm hơn một năm, không biết vì lý do gì. Do một bên chép sớm một năm, một bên chép chậm một năm, nên có sự so le vừa thấy.
Như vậy đúng ra cung Quảng từ bắt đầu làm năm 1144, khánh thành năm 1147 và Lý Anh Tôn đến chơi năm 1150. Việt sử tiêu án tờ 113b2-3 nói việc xây cung Quảng từ để cho mẹ của Anh Tôn là Lê thái hậu thông dâm với Đỗ Anh Vũ. Nó viết: "Anh Vũ mặt mày đẹp đẽ, múa giỏi hát hay, triều Thần Tôn đem vào hầu dưới trướng. Lê thái hậu ưa tiếng nói và sắc đẹp của Vũ, muốn tư thông với Vũ đã lâu. Đến lúc ấy, mới dựng cung Quảng từ cực kỳ lộng lẫy xa hoa, ngày đêm cùng với Anh Vũ làm nơi ngủ ngáy, mà vua không biết".
Về chức Lịnh đô tào, An nam chí lược 14 tờ 113 có ghi Đô Tào như một chức quan văn, nhưng không thấy ghi Lịnh đô tào.
(4) Tức Ô Đông mác thủ đô Hà nội ngày nay. Trong bản điều trần dâng cho Mạc Mậu Hợp vào ngày 2 tháng 8 năm Quang Hưng thứ 9 (1586) do Lê Quý Đôn ghi lại trong Đại Việt thông sử tờ 113a3, Giáp Trưng đề nghị "Thành Đại la từ cửa nam Ông mạc đến Nhật chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm và những con hào nên vét sâu thêm". Cửa nam Ông mạc hay Ông mạc nam môn, ta có thể hiểu là cửa nam ở phường Ông mạc. Cái tên ở phường Ông mạc như vậy còn dùng từ thời Lý cho đến đời Mạc.
(5) Câu nói này lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai xuất hiện của kinh Hoa Nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân, hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệc như thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. (Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng chủng thân, thành đẳng chánh giác…Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển pháp luân? Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân.
Tri nhất thiết pháp, hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi tế, nhi chuyển pháp luân. Nhập thất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, bất khả thuyết cố, cứu cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, niết bàn tính cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân…" Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275b17-276a6.
Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn câu: "Đương tri vô hữu thiểu hứa xứ, không vô Phật thân" của kinh Hoa nghiêm, cả hai bản đời Lê và đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều viết: "Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm, không vô Phật thân". Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai của chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề nghị sửa chữ tâm thành chữ xứ.
(6) Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập niết bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. (tri nhất thiết pháp, giai vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng sanh…Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275a19-26.
(7) Nam tôn tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần, một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tôn đồ, và một ở cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tôn pháp đồ 1 quyển nhưng lại thêm một chi tiết khá lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tôn tự pháp đồ do Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy Chú? Cứ vào một câu viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó "Chiếu…đem Chiếu đối bản của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp" (Chiếu …toại trừu xuất Thông Biện Đối chiếu bản cập ký kỳ tôn phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ…), thì nội dung của Nam tôn tự pháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay hiện vẫn thất lạc, có thể nó gồm hai phần.
Phần thứ nhất là ghi những điều cần biết về các tôn phái thiền tại Việt nam như nguyên lai, thế thứ truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tôn phái đó. Còn phần sau là gồm những đồ biểu. Về số tôn phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác, mà Thông Biện nói là "chia chẽ ra bao la không thể kể xiết", thì chắc chắn đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với Thường Chiếu đã xác nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tôn tự pháp đồ không phải đồng nhất hay hoàn toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác phẩm khác nữa của Thường Chiếu nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới. Phải chăng, Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi thi về những khoa Phật giáo tổ chức duới triều Lý và Trần.
35. CƯ SĨ THÔNG SƯ
(1) Tức Cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc không phải là Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô, mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm 1228, trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm 1136. Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.
(2) Cái tên An la được Thiền uyển tập anh kể ra hai lần, một ở đây, và một ở tờ 72a4 nói rằng: "Thiền sư Phạm Âm làng Thanh oai, An la". Toàn thư B4 tờ 25a1-2 nói: "Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) mùa đông tháng 10 mọi núi Tản viên, châu Quốc oai đi ăn trộm, cướp bóc làng Thanh oai, chúng quá mạnh, không thể chế ngự được". Làng Thanh oai này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Kiến trí diên cách nói: "Nó xưa là đất Đỗ động, cái tên Thanh oai mới thấy ở thời Lý – Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) của Cao Tôn gọi làng Thanh oai, sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh đem gồm vào châu Oai man thuộc phủ Giao châu. Lê Quang Thuận cải thuộc thống hạt phủ Ứng hòa. Sau đổi chữ Thanh bộ thủy làm chữ Thanh không bộ thủy. Triều ta nhân theo".
Huyện Thanh oai đời Nguyễn, tức huyện Thanh oai tỉnh Hà đông bây giờ như vậy là xuất phát từ làng Thanh oai đời Lý. Mà làng Thanh oai đời Lý, cứ dẫn chứng trên, lại thuộc An la. An la đây do đó có thể là tên một châu hay một quận thời Lý. Địa phận nó chắc chắn gồm phần lớn đất đai huyện Thanh oai ngày nay, hay hơn nữa. Từ xác định ấy, Ốc hương của Thông Thiền chắc chắn phải nằm trong vùng đất Thanh oai đây hay cùng lắm thì lan ra một vài xã của những huyện kế cận. Chúng tôi coi lại bảng liệt kê những tổng xã thôn trại của phủ Ứng hoà trong Bắc thành địa dư chí lục, nhưng không tìm thấy một tên đất nào có thể giúp đoán định vị trí thật sự của Ốc hương cả. Một cuộc nghiên cứu hiện địa nay mai sẽ giúp giải quyết vấn đề vừa nêu.
(3) Thỉnh ích, theo Phần Dương "thì thiền tôn có cả thảy 18 lối hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải, sát biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố, tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ lối cuối cùng tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là "khó xác định vì phải biết ý người đến hỏi", những lối còn lại thì tùy theo cơ hội, và Dương cho một số thí dụ về những lối hỏi này. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 307c3-308a25.
(4) Huyền Tráng (604-664) một dịch giả nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc, và người đã có công thiết lập trường phái Duy thức của Trung quốc với người học trò của mình là Khuy Cơ. Về cuộc đời, Xem Đại từ ân tự tam tạng pháp sư truyện, 10 quyển, ĐTK 2053, về câu nói dẫn ở đây, chúng tôi hiện chưa tìm thấy xuất xứ của nó, nhưng về nội dung thì đương nhiên là nằm trong quỹ đạo của tư tưởng Duy thức của Huyền Tráng.
(5) Hoàng triều đây chỉ triều Trần, bởi Thiền uyển tập anh viết dưới thời ấy.
36. Thiền sư THẦN NGHI
(1) Tức làng Thời trung huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Về bàn cãi, xem chú thích (3) truyện Ngộ Ấn.
(2) Đại Việt sử lược 3 hai lần nhắc đến địa doanh Ngoại trại. Một ở tờ 29b7 nói: "Năm Kiến gia thứ 6 (1216) tháng năm Mậu thìn (nguyên bản viết ngọ) vua đi chơi Ngoại trại". Một ở tờ 32b3-4 viết: "Năm Kiến Gia thứ 14 (1224) mùa đông tháng 12, núi Phật tích ở Ngoại trại nứt dài 30 trượng".
Về việc đầu, ta biết Lý Huệ Tôn theo Đại Việt sử lược đã cho thị triều ở Thảo điện vào tháng giêng. Tháng ba, sai người đi bắt bọn cướp ở xóm Cơ Xá, bị Đỗ Ất chống lại. Tháng năm, bị Đỗ Nhuế tấn công. Ngày Mậu thìn tháng đó, Lý Huệ Tôn mới đi Ngoại trại, "nhân đó sai người đi xin quân ở Tự Khánh để đánh Nhuế". Hôm sau tức ngày Kỷ tị, đày Nhuế làm khoa giáp. Sáu ngày sau tức ngày Giáp Tuất (nguyên bản viết thìn, nhưng nghi sai) Huệ Tôn cùng vợ đi về Thuận lưu (Nam định). Mà Thảo điện của Huệ Tôn nguyên là ở tại xóm Chi tác của cầu Tây dương. Như vậy cứ hành trình vừa kể của Huệ Tôn, Ngoại trại chắc phải là một tên đất tại vùng Sơn tây.
Kết luận này càng tỏ ra đúng đắn, khi ta bàn đến sự việc thứ hai, đây là chuyện núi Phật tích ở Ngoại trại nứt. Núi Phật tích này đương nhiên không phải là núi Lạn kha ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Nó phải là núi Phật tích mà An nam chí lược 1 tờ 22 nói: "vì trên đá có dấu chân, nên có tên đó". Và núi đó theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, không gì hơn là Sài sơn hay núi Thầy, hiện ở hai xã Thụy khê và Thiên phúc, huyện Quốc oai tỉnh Hà tây ngày nay. Đất Ngoại trại của Thần Nghi như vậy phải rơi vào vùng huyện Quốc oai này, nếu không phải là giới hạn vào hai xã Thụy Khê và Thiên phúc, nơi đấy hiện đang có núi Phật tích. Toàn thư B10 tờ 22a3 cũng kê Ngoại trại như một trận địa giao tranh giữa quân ta và bọn xâm lược Minh vào hôm 6-11-1426, và nó chắc nằm sát Cổ sở, tức làng Yên sở, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Có người không hiểu Ngoại trại ở đây của Toàn thư là một địa danh, bèn dịch thành "doanh trại ngoại vi".
(3) Bồ Đề Đạt Ma chết chôn trên núi Hùng nhĩ, tháp được dựng tại chùa Định lâm. Xem Truyền đăng lục 3.
(4) Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang Đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân đi sứ Tây vực, gặp Đạt Ma tại Thông lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ bèn quật mồ, chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại "chích lý tây quy". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a-b.
(5) Tục ngữ thường được dùng trong thiền: nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật. Xem truyện Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ 303a28-29, truyện Chân giác 18 tờ 82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-23. Nguyên xuất xứ nó là trong Thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: "Nhất khuyết phệ hình, bách khuyến phệ thanh…" Xem Tiềm phu luận 1 tờ 23a5.
(6) Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện tài.
(7) Nguyễn Đại Điên (? – 1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết lại trong truyện Đạo Hạnh. Xem chú thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức Thiền sư Bát Nhã chùa Từ quang phúc thánh ở làng Dịch vương, Trương Canh, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay. Sư là đệ tử của Thảo Đường. Xem Thiền uyển tập anh tờ 71b6.
(8) Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó, chúng tôi hiểu là Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản.
(9) Tức huyện Lục ngạn, tỉnh Bắc giang ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Phần dã, viết: "Huyện Lục ngạn, đời Trần hồi trước gọi là Na ngạn. Thuở đầu, thời thuộc Minh chia làm hai huyện Na ngạn và Lục ngạn (đúng ra là Lục na), sau gồm vào Lục ngạn. Triều ta nhân theo".
Về Ẩn Không, nay ta không biết một tí gì hết ngoài những điều đã ghi ở đây.
37.THIỀN SƯ TỨC LỰ
(1) Tức khoảng địa phận quanh làng Phù cầm, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Về bàn cãi xem chú thích (3) truyện Định Hương.
(2) Mãi quỷ, một tên khác của chim đỗ nguyên hay chim cuốc.
(3) Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng, đấy là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, gây đỗ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của chúng tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới Bồ tát, đấy là: "Gây đổ máu nơi thân Phật, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân". Xem Phạm võng kinh quyển hạ tờ 1008.
(4) Phi nhân: tức loài quỷ thần thông không phải là loài người.
38.THIỀN SƯ HIỆN QUANG
(1) Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Yên tử ở tại xã Nam mẫu huyện Đông triều, một tên là Tượng sơn. Long mạch chi tả bổ xuống làm tổ các núi ở Hải dương. Cứ Đồ kinh thì núi ở hương Cấn. Mạch Quyết nói: "Nó nở như sen, nó bay như diều, hai cái không đều, sinh nhiều ngỗ nghịch". Hải nhạc danh sơn đồ đời Tống cho núi này là một trong bốn đất phúc. Xưa, An Kỳ Sinh đời Hán tu luyện ở đấy. Trên núi (Tiên) có chùa gọi Hoa yên, gọi Tử tiêu, lại có khe tên Giải oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng, thật là một bồng đảo của thiên nhiên…". Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục sơn xuyên.
(2) Chuyện người cùng tử trong kinh Pháp hoa, sau một thời gian trôi giạt gặp bất ngờ cha mình trong cảnh giàu sang tột bực, nhưng không nhận ra đó là cha, mà chỉ bằng lòng nhận thân phận nô dịch. Xem Diệu pháp liên hoan kinh tờ 16b25.
(3) Đại Việt sử lược 3 tờ 10a11: "Trinh Phù năm thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương". Công chúa Hoa Dương như vậy là con của Lý Anh Tôn.
(4)Nguyên văn: Khấp kỳ. Từ lấy ra ở thiên Nghi tợ của Lã thị xuân thu 22 tờ 21b12-13 về việc "Mặc tử thấy đường rẽ mà khóc". Thiên Thuyết lâm của Hoài nam tử 17 tờ 13b13-14 giải rõ hơn: "Dương tử thấy đường rẽ mà khóc vì nó có thể đi về nam hay bắc".
(5) Bố Đại hòa thượng (…) thường dùng một cây gậy quảy một túi vải trên vai, viên tịch đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai (916). Xem Truyền đăng lục 27 tờ 434a19.
(6) Các sư tăng có lệ cấm túc, giới hạn trong một khu vực, trong một thời gian không ra khỏi giới hạn đó. Cuộc cấm túc này có lẽ xảy ra vào năm 1212, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 24a10 ghi lại việc Lý Huệ Tôn cùng thái hậu đến trước Phật thệ rằng: "Trẫm đem sức mọn mà trộm nối ngôi quí, đến nỗi phải gặp loạn ly, sắp đổ sự nghiệp trước, thậm chí cung giá phải dời đổi nhiều lần. Nay muốn lãnh ngôi trời để nhường cho người hiền đức" nói xong, vua lấy dao muốn cắt tóc thì (Trần) Tự Khánh đốt sạch cung điện như Đại Việt sử lược 3 tờ 26b4 ghi. Điện Vũ nghi không thấy tên trong sử.
(7) Hứa Do là tên nhà cao sĩ đời thượng cổ Trung quốc, trước ở ẩn tại Bãi trạch, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho, bèn không nhận, rồi trốn đến dưới núi Cơ ở Dĩnh thuỷ cày ruộng. Vua Nghiêu lại mời làm Cửu chân trưởng. Hứa Do không muốn nghe, bèn đến bên sông Dĩnh lấy nước rửa lỗ tai mình.
(8) Tự ngu tập này nghi có thể là tác phẩm của Ngu Ông, một trong những đệ tử của Tiêu Diêu.
39.CƯ SĨ ỨNG VƯƠNG
(1) Truyện của Tức Lự nói: "Ứng Thuận cư sĩ, ấy là pháp tự của Lự". Nhưng không hiểu sao đây gọi Ứng Vương, hoặc chữ Vương là một khắc sai của chữ Thuận. Hoặc là cách gọi để tỏ lòng tôn kính như trường hợp Thông Sư.
(2) Phường Hoa thị này không biết thuộc phường nào của thủ đô Hà nội.
(3) Tức triều Trần Thái Tôn (1225-1257). Khi Thái Tôn mất vào năm 1277 và đem táng vào lăng thì lăng của Thái Tôn gọi là Chiêu lăng. Xem Toàn thư B5 tờ 36a5.
(4) Cứ Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 7b thì Tiêu Diêu là đệ tử của Ứng Thuận và là thầy của Tuệ Trung. Ngoài Tiêu Diêu ra, nó còn cho biết Quốc Nhất, Đạo Sư, Quế Thâm và Chân Giám là những đệ tử khác của Thuận. Và ngoài Tuệ Trung ra, thì Thạch Đậu Vị Hải, Đạo Tiềm, Thân Tán, Lại Tản, Thạch Lâu, Thôn Tăng, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở là đệ tử của Tiêu Diêu.
Thượng sĩ hành trạng trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 38a8-b1 nói: "(Tuệ Trung) lúc còn để chỏm, rất chuộng cửa Không, đến học Thiền sư Tiêu Diêu ở Phước Đường, hiểu được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy". Còn bài tựa do Huệ Nguyên viết năm 1763 trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 3b1-3 nói: "Thượng tổ Tiêu Diêu… vừa đến nước ta, đã thoát thế vô y, cầm câu không lưỡi mà vào kinh thành". Như thế Diêu chưa hẳn là người nước ta. Lời tựa đây cũng nói Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm của Tiêu Diêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ Tiêu Diêu chắc quê quán Phước đường tại vùng Thanh từ ngày nay.
40. Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(1) Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc:
(a) Lịch đại tam bảo ký 10 tờ 102c3-9: "Tam tạng tháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là "Diệt hỷ". Khi đã nghe đức Hoàng đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy nhắm phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh, tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng đầu tinh xá và Đại thừa phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm Bì, hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa môn Ngạn Tôn viết tựa cho cả hai".
(b) Đại Đường nội điển lục 5 tờ 275a14-19 chép như (a)
Tục Cao tăng truyện 2 tờ 433b2-5 chép y như (b)
(d) Khai nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết là các kinh kể trên "dịch vào năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn Đế", và thêm đính chính rằng "Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại chùa Đại hưng thiện là sai".
(e) Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ 646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư liệu Trung Quốc vừa dẫn với nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam bảo ký do Phí Trường Phòng viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730. Việc Thăng phản đối Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện cả. Ngược lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi đâu, Thăng không nói. Do thế, Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi lại vị tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc "mời vào khiến dịch kinh" khó có thể tin được.
(2) Cương mục chính biên 3 tờ 32a1-3 nói: "Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên đó". Xác định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó "chùa Đại Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc". Nhưng đương nhiên chùa Pháp vân nói tới đây không phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên, mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ. Vậy chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh. Tại làng này hiện có một chùa tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: "Chùa Diên ứng ở xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh phía tây của thành. Có người con gái của Tu Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào trong một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong sông, trôi đến bến Luy lâu.
Người ta lấy làm lạ, vớt lên bờ, sai thợ đẽo bốn pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định…tức nay chùa Diên ứng…, đặt bốn pho tượng Phật phụng thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế Xuyên nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh thành để cầu mưa".Chùa Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh ngày nay.
(3) Tức nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức bắc Ấn.
(4) Nguyên bản viết "Nhâm ngọ" là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.
(5) Phật tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu hủy Phật.
(6) Nghiệp, bây giờ là kinh đô nhà Bắc Tề.
(7) Tổ Tăng Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm…Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592), truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3, ĐTK 2078, tr. 221c.
(8) Các tư liệu Trung Quốc, xem chú thích (1) trên đều ghi như nhau. Sư dịch 2 tác phẩm:
(a) Tượng đầu tinh xá kinh 1 quyển (xem ĐTK.466). Chú thích của Trường Phòng (sđd. 102c1): "Năm Khai Hoàng thứ 2 (502), tháng 2 dịch. Bản dịch lần thứ 2, cùng nguyên bản với kinh Già da sơn đỉnh (xem ĐTK.465)".
(b) Đại phương quảng tổng trì kinh, 1 quyển (xem ĐTK.275). Ghi chú của Trường phòng (sđd): "Khai Hoàng, năm thứ 2, tháng 7, dịch".
(9) Nghiệp báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch (xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường Phòng: "Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch…" Bản dịch của Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải chăng đã mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này. Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không thể nào để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.
(10) Tăng Xán, Tín tâm minh tờ 376b 22-23:
Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như.
Cũng xem Truyền đăng lục 30 tờ 457a 21-22.
(11) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a1-3 chép:
Phi Tích lai Nam quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hiệp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phần phần bát nhã liên
Hà thời tái đắc kiến
Tương dự thoại trùng huyền.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản in 1715 ở đây.
41.THIỀN SƯ PHÁP HIỀN
(1) Tức núi Tiên du ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
(2) Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: "Huyện Chu diên, đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê ở phủ Tam đái, nay tức đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây".
Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thư 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất Vũ bình thời trước. Ngoài ra,Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam của trị phủ Giao châu, mà sau này Độc sử phương dự kỷ yếu 112 tờ 8a3 chép lại, nghĩa là Chu diên ở về phía đông nam của thủ đô Hà Nội ngày nay. Phần đất của nó như vậy bao gồm trong tỉnh Hưng yên. Kết luận này tỏ ra hợp lý, bởi vì đất Quận Bình, chúng ta đã đồng nhất với đất những huyện Tiên lữ, Ân thi, Khoái châu, Kim động, Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực.
Hơn nữa truyện Đạo Lâm tờ 66b3 nói Lâm, người Cửu cao, Chu diên. Cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 thì Cửu cao là tên một ngôi làng thuộc "hạt Gia lâm", nơi xuất thân của những tiến sĩ Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 v.v…, và khoảng đến năm 1706 thì đổi thành làng Thượng tốn, khi có Đỗ Công Đỉnh đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Như thế, địa phận của Chu diên đời Lý phải gồm luôn tối thiểu phần đất phía đông nam của huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh ngày nay.
Từ đó, quê của Pháp Hiền tất phải nằm khoảng huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh cho đến những huyện phía bắc tỉnh Hưng yên.
(3) Tham chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo Tín và Hoằng Nhẫn: "Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: "Con họ gì?" Trẻ đáp: "Là họ Phật." Sư hỏi: "Ngươi không có họ sao?" Trẻ đáp: "Tánh không vậy". Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng Nhẫn". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 222b10-16.
(4) Tục Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào tháng giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp, để nhận thêm xálợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ nhất, chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ 23a1-8 và Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao Tổ có thể ban xá lợi qua được.
Hơn nữa, nếu việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì hai năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc? Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi, người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao châu. Việc ban năm hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá lợi cảm ứng ký làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.(5) Xá lợi cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu. Nhưng đây nói là "xây ở chùa Pháp vân của Luy lâu", thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 6a5-7 thì vào năm 1034 "các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì được hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi". Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng Hoằng minh tập 17 tờ 213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là, thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.
(6) Cương mục tiền biên 1 tờ 1b7-2a3 viết: "Phong châu, sử cũ chua là Bạch hạc. Địa lý chí đời Đường nói Phong châu gồm năm huyện. Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc sử chép quận Thừa hóa của Phong châu tức nước Văn lang xưa. Thế thì, Phong châu tức nay thuộc địa hạt cả phủ Vĩnh Tường và Lâm thao, tỉnh Sơn tây.
(7) Cương mục tiền biên 4 tờ 15b2-6 viết: "Hoan châu xưa là bộ Hoài hoan đời Hùng Vương, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Lương đổi Đức châu. Đời Tùy Khai Hoàng đổi Hoan châu, khoảng Đại Nghiệp đổi Nhật nam, Đời Đường Trinh Quán lại đặt Hoan châu. Đời Đinh Lê nhân theo. Đời Lý đổi làm châu Nghệ an. Đời Trần cải trấn Lâm Giang. Đời thuộc Minh là các phủ Nghệ An và Diễn Châu. Đời Lê Quang Thuận đặt Nghệ An Thừa tuyên. Nay là tỉnh Nghệ An". Đất Hoan châu hiện nay thuộc tỉnh Nghệ tĩnh.
(8) Cương mục tiền biên 4 tờ 20b1-2 nói: "Trường châu, xưa là bộ Vũ định, nay là tỉnh Tuyên quang". Nhưng Cựu Đường thư 41 tờ 42a11-12 nói Trường châu ở phía Tây nam của giao châu, còn Ái châu ở phía tây của châu đó. Ngoài ra, ở tờ 44b8-9 nó viết: "Trường châu, thổ tục nó giống với Cửu chân. Đời Đường đặt Trường châu. Năm tháng bắt đầu nó nay đã mất. Năm Thiên bảo thứ nhất (742) đổi làm quận Văn dương. Năm Càn Nguyên thứ nhất (758) lại đặt Trường châu, gồm bốn huyện Văn dương, Đồng thái, Trường Sơn và Kỳ thường, đều cùng đặt với châu một lần".
Cứ vào báo cáo đó của Cựu Đường thơ thì Trường châu rõ ràng phải rơi vào địa phận những tỉnh Ninh bình, Nam định ngày nay, chứ có thể nào lại ở tại tỉnh Tuyên quang, như Cương mục đã có. Bởi vì không những thổ tục ở Trường châu giống Ái châu, mà ngay cả vị trí của chúng cũng liên tiếp nhau, đây là Trường châu ở phía tây nam tị phủ Giao châu, trong khi Ái châu ở phía tây.
(9) Cựu Đường thư 41 tờ 43b8 nói: "Ái châu, đời Tùy là quận Cửu chân. Năm Vũ Đức thứ 5 (622) đặt Ái châu, gồm bốn huyện Cửu chân, Tùng nguyên, Dương sơn và An Định". Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách nói: "Tỉnh Thanh hóa, xưa thời Hùng Vương là quận Cửu chân, Đời Lưỡng Hán nhân theo tên quận cũ thuộc Giao chỉ. Đời Ngô năm Nguyên Hưng thứ 1 (264) phân một huyện của quận Cửu chân, mà đặt quận Cửu đức. Đời Tấn và Tống nhân theo. Đời Nam Tề lúc đầu ở quận Cửu chân đặt thêm Cao an, Quân an và Đô lung mà làm thành 10 huyện. Vua Vũ Đế lấy quận Cửu chân làm Ái châu, và tên Ái châu bắt đầu từ đây. Đời Tùy lúc đầu thì gọi Ái châu, sau đổi tên gọi là quận Cửu chân gồm 7 huyện.
Đời Đường gọi Ái châu gồm huyện Cửu chân 6 huyện. Đời Minh phân làm đạo. Đời Lê đổi làm lộ. Đời Lý năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đổi làm trại, sau cải làm phủ Thanh hóa…Xem việc ghi thời Lý Nhân Tôn, tên Thanh hóa bắt đầu từ đây. Đời Trần năm Thiên Ứng Chính Bình 11 (1242) định làm lộ Thanh hóa. Năm Nguyên Phong thứ 3 (1253) đổi làm trại. Trong khoảng Thiệu Long lại làm lộ gồm sở thuộc ba lộ Thanh hóa, Cửu chân và Ái châu, sau gọi là trấn…Đời thuộc Minh gọi là phủ Thanh hóa. Lê Quang Thuận năm thứ 1 (1460) thuộc đạo Hải tây. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Thanh hóa thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) cải làm Thanh hóa thừa tuyên… Gia Long năm thứ nhất (1808) triều ta gọi là trấn Thanh hóa… Năm Thiệu Trị thứ 1 (1840) cải làm tỉnh Thanh hóa…"Nay là đất tỉnh Thanh hóa.
42. Thiền sư THANH BIỆN
(1) Toàn thư B5 tờ 7b6-9 nhân nói về Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 1 (1232) viết: "Mùa đông năm đó nhân khi họ đến bái yết Tiên hậu ở Thái đường Hoa lâm. Thủ Độ ngầm đào một hầm sâu dựng nhà ở trên, đợi khi các người họ Lý uống rượu say, bèn liền giựt máy, chôn sống hết". Cương mục chính biên 6 tờ 13a2 chú rằng: "Hoa lâm là tên xã. Thái đường là tên thôn, đều thuộc huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh.
Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Hoa lâm hạt Đông ngạn, quê hương của Trịnh Xuân Chú tiến sĩ khoa 1743. Làng Hoa lâm, phủ Thiên đức đây như vậy chắc chắn là làng này. Nếu vậy, làng Hoa lâm ngày nay phải nằm tại huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh. Làng Hoa lâm của Trịnh Xuân Chú hiện gọi là Danh lâm, tên gọi đời Nguyễn. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, phần Tục biên, có ghi Trịnh Xuân Thưởng tiến sĩ khoa 1847 là người làng Danh lâm, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh.
(2) Cái tên Cổ giao được Thiền uyển tập anh kể tới ba lần. Một ở đây. Một ở truyện Khánh Hỷ tờ 61a3 và một ở truyện Tịnh Thiền tờ 68a3. Hai lần nhắc sau đều ghi "làng Cổ giao, Long Biên". Cứ vào đấy thì làng Cổ giao phải nằm tại một làng nào đó chung quanh làng Cổ châu, tức những làng Khương tự và Đại tự huyện Thuận Thành hiện nay, bởi vì chùa Pháp vân làng Cổ châu ở Long biên, mà ta đã xác định được vị trí của làng Cổ châu, nghĩa là vị trí thực sự của một thành phần Long Biên, là ở tại Khương tự và Đại tự. Chúng tôi hiện chưa có dịp điều tra hiện địa vùng này, nên không thể xác nhận rõ làng Cổ giao phải là làng nào hiện nay tại tỉnh Hà bắc. Có người đồng nhất làng Cổ giao với Cổ điển thuộc huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông, nhưng không biết dựa vào đâu. Xem Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt nam tr.190 và Gaspardone, Bibliographie Annamite, BEFEO XXXIV (1934) 215.
(3) Chùa Phổ Quang này rất có thể là chùa Phổ quang tại làng Nghĩa trú huyện Văn giang, mà Tam tổ thực lục tờ 26a4 nói tới như là chỗ ở của Trùng Chiếu người chủ trì việc đúc 1000 tượng Phật vào năm 1322.
(4) Dẫn kinh Kim cang: "Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử kim xuất". (Tất cả các đức Phật và giáo pháp giác ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). Xem Kim cang bát nhã ba la mật kinh tờ 74b23.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ đúng đắn không gì hơn.
(5) Đại Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: "Kinh đó là do ai nói?. Tăng lên tiếng nói: "Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không biết là Phật nói sao?". Sư đáp: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật, người đó không hiểu ý nghĩa những điều do ta nói. Nếu bảo kinh đó không phải là do Phật nói tức là hủy báng kinh. Xin Đại đức trả lời xem". Vị Tăng không trả lời được. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-6.
43. THIỀN SƯ ĐỊNH KHÔNG
(1) Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý hơn. Xem chú thích (5) truyện Pháp Hiền. Làng Dịch bảng nay là làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.
(2) Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Đinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Đông ngạn. Đời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Nhưng truyện đây nói Định Không "đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên một làng từ thời Định Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Đại Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyệ�n bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Đình bảng hay làng Dịch bảng sau này.
Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp ở tại xã Đình bảng, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Định Không do đó là làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.
Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Định Không cổ nhân", nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện Định Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.
(3) Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.
(4) Nguyên văn: Đường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Đường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Đường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.
(5) Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng. Xem chú thích (1) truyện Thường Chiếu.
44. THIỀN SƯ LA QUÝ
(1) Tức làng Phù ninh huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
(2) Bắc thành địa dư chí lục 4 có liệt ra hai xã mang tên An chân thuộc trấn Sơn nam hạ. Một thuộc tổng Đông hối huyện Thanh quan, phủ Tiên hưng. Và một tổng Đông Chân, huyện Quỳnh côi, phủ Thái bình. Hai huyện này ngày nay đều thuộc tỉnh Thái bình. Huyện Thanh quan nay là huyện Thái bình, còn huyện Quỳnh côi nay vẫn giữ tên cũ. Chúng tôi hiện chưa biết làng An chân nào là quê quán của La Quý.
Ngoài ra cũng cần thêm là, chữ "An chân" có thể là một viết sai của An trinh. Chữ chân với chữ trinh, tự dạng chúng rất giống nhau. Thực ra nếu La Quý là người An trinh, thì nó hợp lý hơn. Bởi vì cứ truyện Định Huệ tờ 53a9 thì làng An trinh thuộc phủ Thiên đức, còn truyện La Quý ở đây để cho thấy La Quý hình như có quê quán tại Cổ pháp với những câu nói như "đất Cổ pháp ta" hay những việc làm như trồng cây bông gạo tại chùa Châu minh.
(3) Cao Biền (? – 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Đại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Đại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9) truyện Đạo Hạnh.
(4) Sông Điềm hay là Điềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Đuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Điềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Điềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Đông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619…
(5) Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Đông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Đình Bảng khoa 1670 v.v… Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Đông ngạn.
Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa".
(6) Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sé đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại…Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh.
(7) Nguyên văn:
"Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh".
Đây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Đinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
45. Thiền sư PHÁP THUẬN
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6 dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua "tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Đó là một có thể.
Nhưng HồngĐức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Ải, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở". Khảo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên chợ Ải cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng "núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ải quận phải chăng là chợ Ải đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.
(2) Nguyên văn: Ỷ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Đại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Đinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.
Toàn thư chép: "Thần phụ mỗ huynh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi tâm, cử thánh đại diên".
Tổng hội yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Liễn, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ viễn di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản chép.
(3) Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?
Ngửa mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng:
May gặp thời minh giúp việc vuaMột mình hai đợt sứ Giao châu
Đông đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biêc thả dòng đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu".
Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Đường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:
Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba.
46. Thiền sư MA HA
(1) Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi hai xã mang tên Cổ miệt thuộc tổng Hương đại, huyện Thanh hà, trấn Hải dương tức nay huyện Thanh hà, huyện Hải dương. Dưới mỗi tên, người viết còn chua thêm hai thôn, đấy là thôn Tràng liệt và thôn Khánh mậu, thì như vậy, Cổ miệt trước chắc địa phận rộng hơn những xã cũng có tên đây. Nhưng tại tổng Hương đại cũng như trong toàn huyện Thanh hà, chúng tôi không thấy ghi một xã thôn nào có tên Đào gia cả. Điểm chắc chắn là Cổ miệt phải ở vùng huyện Thanh hà, huyện Hải dương, bởi vì tỉnh này vốn là đất Hồng lộ thời Lý Trần, như Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: Mà ta biết vào thời Lý có một làng Cổ miệt thuộc Hồng lộ. Đại Việt sử lược 3 tờ 18b1-4 viết: "Trị Bình Long Ứng năm thứ 4 (1208) trộm cướp nhân đó nổi lên như ong…vua sai Thượng phẩm phụng ngụ Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu đi chống, mà Phạm Du thì lại về làng Cổ miệt cùng với người Hồng lộ là Đoàn Thượng và Đoàn Chủ gặp nhau đánh Đằng châu. Người Đằng châu xin Bỉnh Di đánh Du, không dẹp được bèn trở về".
(2) Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước", trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Đa giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú thêm rằng, "Xưa gọi là Đà phan". Chữ Đà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.
(3) Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.
(4) Đại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Đại bi chú v.v…Đây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Đạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ĐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm Đạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v…Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết nó chắc cũng thông dụng thời Lý.
(5) Tức núi Long triều tại xã Trường yên hạ, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, huyện Sơn xuyên, nói: "Núi Long triều ở cách huyện Gia viễn 10 dặm, một là tên núi Đại vân, có miếu vua Đinh, vua Lê ở dưới chân núi". Mục Từ hiếu nói: "Miếu vua Đinh Tiên Hoàng ở phía dưới huyện Gia viễn tại chân núi Long triều xã Trường yên hạ"…Miếu vua Lê Đại Hành ở dưới chân núi Đại vân xã Trường yên hạ".
Đây là ngọn núi, mà Lê Đại Hành đã cho dựng điện Bách bảo thiên tuế vào năm 984 để làm nơi thị triều, phía đông dựng điện Phong lưu, phía tây dựng điện Tử hoa, bên trái điện Bồng lai, bên phải điện Cực lạc, lại dựng lầu Đại Vân liền với điện Trường Xuân là nơi vua ngủ, như Đại Việt sử lược 1 và Toàn thư tờ 16b ghi lại. Đại Việt sử lược 1 tờ 19b7 viết Đại vân thành Hỏa vân.
(6) Hoàng đế Lê Đại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Đại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Đại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm 1011, như Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Đại nội" phải xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Đại vân vào thời Lê Đại Hành là nơi Lê Đại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Đại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Đại Hành chắc là một chép lonm của Lý Thái Tổ.
(7) Ái châu tức tỉnh Thanh hóa ngày nay. Xem chú thích (9) truyện Pháp hiền, trấn Sa đảng, Đại Việt sử lược 2 tờ 12a1 có ghi động tên Sa đảng. Nó viết: "năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) động Sa đảng phản, vua thân chinh dẹp được". Trấn Sa đảng chắc đây là một. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách, có ghi một động tên Sa lung trước thuộc huyện Cẩm thủy, đến 1904 cắt thuộc châu Quan hóa. Chúng tôi đoán đất Sa đảng thời Lý chắc nằm tại huyện Cẩm thủy và Quan hóa, tỉnh Thanh hóa ngày nay.
(8) Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Đức Phật.
Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp.
Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.
(9) Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Đây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.
(10) Cứ Toàn thư B1 tờ 27c7-8 và truyện Khai thiên trấn quốc trung phụ tá dực đại vương trong Việt điện u linh tập tờ 48 khi Lê Ngọa Triều "đã được ngôi, thăng Đằng châu làm phủ Thái bình". Phủ Thái bình ở truyện Ma Ha đây chắc phải là đất Đằng châu, chứ không phải là đất phủ Thái bình thời Nguyễn, tức không phải đất những huyện Quỳnh côi, Phụ dực, Đông quan và Thụy anh tỉnh Thái bình ngày nay. Mà Đằng châu, theo Cương mục tiền biên 5 tờ 30b5-7, là đất Khoái lộ đời Trần, Khoái châu đời Lê. Nay huyện Kim động, tỉnh Hưng yên còn có xã tên Đằng châu. Làng Đằng châu thời Lê Ngoạ Triều mà Việt điện u linh tập nói tới, và làng Thái bình thời Lý, mà Toàn thư B3 tờ 36b9, và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, mục Kiến trí diên cách, ghi chắc là xã Đằng châu đó. Phủ Thái bình đời Lý như vậy không phải là phủ Thái bình thời Hậu Lê, ngược lại nó nằm trong địa phận Đằng châu, tức tương đương với tỉnh Hưng yên ngày nay. Chùa Khai thiên, nay không thấy sách nào nói tới.
Đại Việt sử lược 1 tờ 22a2 nói khi Ngoạ Triều "đánh Nghị Man Vương Bình rồi, cải Phong châu làm phủ Thái bình". Chữ Phong đây chắc là một viết sai của chữ Đằng. Tuy về lý, việc đổi Phong châu làm phủ Thái bình không phải là phi lý.
47. THIỀN ÔNG ĐẠO GIẢ
(1) Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
(2) Tức làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Định Không.
(3) Đinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Đinh.
48. Thiền sư SÙNG PHẠM
(1) Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
(2) Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.
(3) Lê Đại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Đại Hành được. Chữ Lê Đại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.
(4) Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?" Tổ nói: "Đợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy.
Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6
(5) Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này: "Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhập hết thảy, nhưng không bị ô nhiễm. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.