Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

Thiền Tông Việt Nam, trong truyền thống, chủ trương pháp đốn ngộ. Trong đó, trước tiên là nhận ra bản tâm chính là tánh không rỗng rang. Và do vậy, lấy Bát Nhã Tâm Kinh làm một phần không thể thiếu vắng trong các kinh nhật tụng. Thiền Tông dạy rằng trước tiên phải ngộ, phải thấy  tánh, tức là thấy cái Không của các pháp, và sau khi biết thì cứ lẳng lặng an trú Không. Không này là gì ở cõi này? Thực sự là Duyên khởi, vì các pháp đều vô ngã. Nhưng đây không phải lý luận, mà phải thấy bằng mắt, nghe bằng tai, cảm bằng toàn thân. Không này là vô thường, là duyên khởi. Nghiêng đầu qua trái, qua phải, nhìn sau, nhìn trước đều thấy nghe hay biết và cảm nhận các pháp rỗng rang trong dòng chảy vô thường. Nói KHÔNG, hoàn toàn không có nghĩa là Không Có. Mà Không này là lìa cả Hữu, Vô.

Kinh SN 35.85, ghi lời Đức Phật dạy: Thế giới rỗng rang không tự ngã, mắt (tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều rỗng rang không tự ngã… Nhãn thức (nhĩ thức…) đều rỗng rang không tự ngã…  (5)

Trong Trung Bộ, Đức Phật dạy chi tiết tuần tự trong Kinh MN 121 (Cula-suññata Sutta: The Lesser Discourse on Emptiness – Kinh Tiểu Không) về An Trú Không. Trước tiên, Đức Phật dạy ngài Ananda rằng chớ tưởng (hình dung) về ngôi làng, chớ tưởng về người, chỉ tưởng về cảnh rừng hoang dã, lúc đó trong tâm chỉ có tưởng là cảnh rừng hoang, rồi từ đây tưởng về mặt đất phẳng (không núi đồi sông hồ gì), từ đây tưởng về không gian vô tận và vào rỗng rang thanh tịnh… tuần tự, hình dung rằng thức trải rộng vô biên… tất cả trở thành không, nếu thấy cái gì còn, thì nghĩ rằng “cái này có hiện diện” vì còn duyên vào thân tâm của mình. Và Đức Phật dặn: “Ananda, you should train yourselves: 'We will enter & remain in the emptiness that is pure, superior, & unsurpassed.'” (Ananda, hãy tự tu thế này: Chúng ta sẽ vào, sẽ an trú trong cái Không, mà cái Không này rất mực thanh tịnh, siêu xuất và không gì cao hơn.) (5)

Nếu chúng ta muốn tìm lời dạy đơn giản và dễ nhớ, Đức Phật cũng dạy ngài Mogharaja trong Kinh Tiểu Bộ, Snp 5.15 (trong Nhóm Kinh Nhật Tụng khi Đức Phật còn sinh tiền):

Luôn luôn tỉnh thức, nhìn thế giới như là RỖNG KHÔNG, Moghraja; gỡ bỏ bất kỳ quan điểm vào về tự ngã; như thế ngươi sẽ vượt qua sự chết. Nhìn thế giới như thế, ngươi sẽ không bị Thần Chết nhìn thấy.” (5)

(Bản dịch Ireland: Look upon the world as empty, Mogharaja, ever mindful; uprooting the view of self you may thus be one who overcomes death. So regarding the world one is not seen by the King of Death. Bản dịch Thanissaro Bhikkhu: Always mindful, Mogharaja, regard the world as empty, having removed any view in terms of self. This way, one is above and beyond death. One who regards the world in this way isn't seen by Death's King.).

Tương tự, Kinh Snp 5.14 trong Kinh Tập, Kinh Tiểu Bộ, ghi lời ngài Posala ca ngợi Đức Thế Tôn, theo bản dịch của Thanissaro Bhikkhu:

Tôi thỉnh vấn Đức Thích Ca về kiến thức của người đã xa lìa tưởng về sắc uẩn, người đã buông bỏ toàn bộ thân, tất cả thân, người thấy cả trong và ngoài, ‘Không có gì hết’…”

(I ask the Sakyan about the knowledge of one devoid of perception of forms, who has abandoned all the body, every body, who sees, within & without, 'There is nothing') (5)

Trong ngoài đều thấy là Không… tức là Bát Nhã Tâm Kinh vậy. Thấy trong và ngoài đều không, cũng là bất lập văn tự vậy..

Như thế, các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam hiển nhiên là đã tu theo Kinh Nhật Tụng Sơ Thời.

Vì ngài Vô Ngôn Thông (759?-826) là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, sang Việt Nam năm 820, ở tại chùa Kiến Sơ (bây giờ thuộc Hà Nội), truyền pháp, dòng thiền của ngài kéo dài được 17 thế hệ.... Sách kể rằng, ngài Vô Ngôn Thông hốt nhiên triệt ngộ khi nghe Bách Trượng trả lời một vị tăng:

“Tâm địa nhược KHÔNG, huệ nhật tự chiếu.” (Đất tâm nếu rỗng rang, thì mặt trời trí huệ tự chiếu sáng.)

Hai câu, tám chữ này đã tóm gọn Kinh Snp 5.15. Bản dịch của quý Thầy Thích Thanh Từ, Thích Duy Lực, GS Lê Mạnh Thát đều ghi là “tâm địa nhược KHÔNG.” Tuy nhiên, một vị sư Việt Nam nổi tiếng viết là “tâm địa nhược THÔNG,” và ngài giải thích theo nghĩa chữ THÔNG (tức thông suốt), và sách phổ biến khắp nơi. Nơi đây, người viết không tiện ghi links để tránh bị ngộ nhận là đa sự, bất lợi cho việc hoằng pháp. Nhưng không thể không ghi chú nơi đây.

Trong khi đó, sách  Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải, trang 18-19, do ngài Minh Chánh Thiền Sư (Thiền sư Việt Nam thế kỷ 19) viết, bản dịch Thiền Viện Thường Chiếu, trích như sau:

Nay nói Sắc chẳng khác không là lúc nhãn căn thấy sắc, quán sắc cũng như bóng, rõ sắc vốn không nhãn căn như gương sáng trong sáng không có hình tượng, sắc tướng như bóng, bóng tuy hư giả mà toàn bóng là gương, cũng như sắc tuy huyễn vọng mà toàn sắc là tự tánh chiếu kiến của Chân không Như lai tạng, cho nên nói: Sắc chẳng khác không. Câu nầy nhằm phá phàm phu chấp sắc là có, chẳng biết nghĩa sắc tức là không. Chấp thấy là ta có thấy, chẳng biết cái thấy từ nơi sắc hiện, sắc từ nơi thấy mà sanh. Sắc tướng là bóng huyễn hóa như hoa đốm trong hư không, cái thấy là sự mỏi nhọc của con mắt bệnh. Sắc tướng còn không, cái thấy từ đâu mà có. Nên tuy nói sắc tức là không mà gồm trừ luôn cả cái thấy, đó là cái thấy cũng tức là không. Hãy tham!

...Sắc tức là không nghĩa là sắc tuy có tướng mà vốn không. Tại sao vốn không? Vì bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Cũng như hoa đốm trong hư không, hoặc sóng nắng đều nương vào hư không mà có tướng. Tướng chính là vô tướng, nên nói sắc tức là không.” (5)

Thiền sư Minh Chánh hiển nhiên là siêu xuất tuyệt vời, viết tới như thế quả là thần sầu quỷ khốc. Đọc xong cuốn Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải của ngài, hiển nhiên là không còn chỗ nào ngờ vực trong Kinh Phật nữa..

Như thế, sẽ thấy tương hợp bất ngờ khi nghe một Thiền sư Thái Lan, ngài Ajahn Chah, giải thích về Không Tam Muội.

Để gợi nhớ, cũng nên nhắc rằng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, kể về chuyện khi gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động.” Chỗ này không có gì bí ẩn đối với người trong cửa Thiền Tông. Điều bất ngờ là một vị sư nổi tiếng của Thái Lan, ngài Ajahn Chah, trong bài thuyết giảng được ghi âm và đánh máy lại, “Bodhinyana: A Collection of Dhamma Talks. Part 4 - The Empty Flag,” đã nhắc chuyện phướng và gió để giải thích:

Đây là pháp tu, rằng chớ [cho là] có bất cứ thứ gì, dù là lá cờ hay gió. Nếu có lá cờ, thì là có gió. Nếu có gió, thì là có lá cờ. Ngươi nên chiêm nghiệm và tư duy chỗ này kỹ càng, cho tới khi người thấy phù hợp với Sự Thật. Nếu suy nghiệm kỹ, thì sẽ không còn gì hết. Nó rỗng rang, nó trống không; rỗng rang không có lá cờ, rỗng rang không có gió. Trong cái Không lớn vô cùng, không có lá cờ, không có gió. Không có sinh, không có già, không có bệnh hay chết. Hiểu biết quy ước của chúng ta về cờ và gió chỉ là khái niệm. Trong thực tại, không có gì hết. Thế thôi. Không có gì hơn các nhãn hiệu rỗng.” (5)

Nghe ngài Ajahn Chah qua lời trên, y hệt như đang dạy tham thoại đầu để trực ngộ Tánh Không. Đúng là ngôn phong Huệ Năng.

Xem mục lục