Không (Sunya), Tánh Không (Sunyata) tiếng Anh là Void, Voidness), bao hàm nghĩa trống rỗng, trống không. Kinh điển Nam Tông nói:
" Này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì (thọ tưởng hành thức gì)quá khứ hiện tại vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, vị Tỳ kheo như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện ra trống không, hiện ra rỗng không, không có lõi cứng.
Sắc ví như đống bọt
Thọ ví bong bóng nước
Tưởng ví ráng mặt trời
Hành ví như cây chuối
Thức ví với ảo thuật
Phật thuyết giảng như vậy
Như lý nhìn các pháp
Hiện rõ tánh trống không .
(Bọt nước-Phẩm Hoa-tướng Ưng Bộ Kinh tập I I I)
" Mắt, các sắc, nhãn thức, nhãn xúc là không tự ngã. Này Ananda, vì rằng thế giới là không tự ngã, không thuộc tự ngã nên thế giới là trống không, trống không là thế giới" .
(Trống không- Phẩm Channa- Tương Ưng Bộ Kinh tập I V- bản dịch của HT. Thích Minh Châu)
Thanh Tịnh đạo luận nói:" Người ấy thấy thế giới hiện tượng như là trống rỗng, trống không, hư huyễn như làng xóm trống vắng, như ảo tượng, như thành Càn thát bà..."
(Tuệ thấy các sắc là đáng sợ, bản tiếng Anh, trang 755)
Kinh Ðại Bát Nhã nói: " Này Xá Lợi Phât! Vì sắc rỗng không nên không có tướng não hoại, Vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ nhận, vì tưởng rỗng không nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng tác giả, vì thức rỗng không nên không có thức tri giác. Này Xá Lợi Phất ! Tướng rỗng không của các pháp vốn chẳng sanh chẳng diệt, chẳng cấu chẳng tịnh, chẳng tăngchẳng giảm..."
Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng với Bát Nhã Ba la mật.
(Phẩm Tu tập đúng- HT. Thích Trí Tịnh dịch)
Sự nhìn thấy thực tướng của các pháp như vậy được đạo Phật gọi là Tuệ. Ví dụ như trước khi được quả thánh đầu tiên, quả Nhập Lưu, hành giả trải qua những phàm tuệ, như: tuệ thấy danh sắc là vô thường, khổ, vô ngã; tuệ thấy sự sanh diệt của các sắc; tuệ kinh sợ thấy tội lỗi của các sắc v.v... Tuệ là một cái biết vượt trên sự đối đãi của ý thức chủ thể và đối tượng khách thể, chỉ đạt được thiền quán. còn ở mức độ lờ mờ, dò dẫm của ý thức, chúng ta có thể hình dung sự trống rỗng của các pháp bằng những diễn tả của khoa học vật lý hiện đại, mặc dầu cái biết của ý thức thì rất giới hạn vì không thể vượt ra ngoài sự phân chia giữa chủ thể và đói tượng, và ý thức cũng không thể biết được chính nó, sự sanh khởi và diệt mất của chính nó, đây là đìều phải nhờ thiền quán.
Nhà khoa học John W Garner viết trong cuốn nguyên tử hôm nay và ngày mai: Các thí nghiệm, tính toán của Rutherford và Bohr đã chứng minh một cách rõ ràng đến kinh ngạc rằng nguyên tử chủ yếu là khoảng không trống rỗng. Nếu như đường kính hạt nhân là 15cm thì với tỷ lệ đó, các electron gần nhân nhất cũng cách hơn 1km5, còn khoảng giữa đó là chân không.
Với một cái nhìn ở mức độ nguyên tử như vậy, một bức tường sẽ là trống rỗng, vì phần vật chất cứng đặc là quá nhỏ so với khoảng không, cũng như toàn bộ vũ trụ gần như trống rỗng vì mật độ vật chất quá rãi rác.
Theo Duy thức học, tùy theo nghiệp thức của mỗi loại chúng sanh mà thế giới của mỗi loài hiện ra sai khác. Vì tâm thức của chúng ta được cấu tạo như vậy, thì thế giới hiện ra với chúng ta là cứng đặc, trong khi ở mức độ nguyên tử, thì thế giới gần như là trống rỗng. Như con mối thì thế giới của nó chỉ là một chiều, một bề mặt bằng phẳng, dầu là đứng trước bức vách. Con chó thì chỉ thấy có hai màu đen trắng. Có những âm thanh và màu sắc siều tần mà con người không thể nghe, thấy. Con người chỉ cảm nghiệm được một hệ thống không - thời gian 4 chiều, còn có thể có các hệ thống nhiều chiều hơn thì đành không thể biết. Trong thiền định,con người kinh nghiệm những thế giới khác lạ so với giác quan thường nhật, ví dụ khi đưa tâm thức đến định Không vô biên xứ, thế giới chỉ còn là một ư không vô biên ,đến định Thức vô biên xứ , và với sự an trú lâu dài trong định đó, cái nghiệp ấy sẽ đưa người ấy đến cõi Trời Thức vô biên xứtương ứng với loại tâm thức thiền định như vậy.
Chúng ta không đi xa hơn, nhưng qua vài nhận xét đó cũng cho chúng ta thấy rằng, với một tâm thức được tinh luyện hơn, tinh vi hơn, trong sạch hơn, sự việc thế giới hiện ra là trống rỗng không phải là chuyện hoang đường. Và mặc dầu thấy được sự trống rỗng của tất cả các pháp chỉ là bước đầu của Trí Huệ bát Nhã, cũng đủ chữa lành cho mọi căn bệnh khổ đau vì tham đắm, bám chấp, vì các căn bệnh tham sân si vốn là tính tự nhiên " của chúng sinh ở cõi Dục giới này.