Bardo tiếp theo là bardo của giấc mộng : nó bắt đầu khi người ta chìm vào giấc ngủ và kết thúc khi thức dậy.
Bardo  giấc mộng chiếm một phần quan trọng trong cuộc đời chúng ta, nó cũng  cho phép chúng ta có một cái nhìn thoáng qua về kinh nghiệm sau khi  chết, cũng như kinh nghiệm về bardo của tái sanh.
Khi chìm trong  giấc ngủ, có một giai đoạn qua đó các giác quan chúng ta hòa tan cái này  vào trong cái kia, và một trạng thái nó sẽ chấm dứt khi giấc mộng bắt  đầu. Giữa giây phút thiu ngủ và giây phút giấc mộng bắt đầu có một  khoảng trống. Vài người trong chúng ta có sự thực hành tâm linh có thể  ngay trong giây phút ấy nhận ra quang minh và trụ trong trạng thái quang  minh ấy hay tịnh quang ấy. Vài người không có học tập, bỏ lỡ sự nhận ra  này và ngược lại, rơi vào một trạng thái tối tăm. Tiếp theo giấc mơ bắt  đầu khởi động.
Bây giờ, để bắt đầu, giấc mơ khởi động như thế  nào ? Các giác quan, các năng lực của các nguyên tố, hòa tan lần lượt  trong nhau. Tiếp theo chúng ta có tám trạng thái khác nhau của tâm thức,  chúng hòa tan trong tâm thức nền tảng là a lại gia thức, Tây Tạng là  kunshyé. Người ta ở một chốc trong trạng thái này. Và rồi bắt đầu giấc  mộng, nó tùy thuộc vào vị thế nằm của chúng ta trong giấc ngủ, vào các  việc làm trong ngày, vào thân xác và sức khỏe... Trong mọi trường hợp,  khi thân thể yên nghỉ ở đó, như một xác chết, thì tâm thức chúng ta bắt  đầu lang thang. Lúc đó chúng ta có cái gì ? Chúng ta có một thân thể tâm  thức. Cái thức thân này bắt đầu lang thang đây đó và biết mọi loại kinh  nghiệm. Đôi khi là các ác mộng không thể tin nổi, đôi khi là những giấc  mơ rất bình thường hàng ngày, hay lại theo đuổi điều chúng ta đã làm  thời thơ ấu hay trong một quá khứ rất gần. Lại có đôi khi, khi chúng ta  không hiện hữu trong phương diện vô minh của a lại gia mà trái lại trong  phương diện trí huệ của nó, chúng ta có những giấc mơ liền lạc chúng  chỉ cho chúng ta những gì sắp xảy ra trong tương lai.
Dầu là giấc  mộng gì, khi nó diễn tiến điều quan trọng là có thể nhận biết nó thật  sự là giấc mộng – đây là giai đoạn đầu tiên, kết quả đầu tiên để nhắm  đến – nghĩa là không để cho giấc mộng cuốn đi và nhận biết trong trạng  thái giấc mộng rằng người ta đang mộng.
Trình bày đơn giản, đâu  là những giai đoạn tu hành về yoga giấc mộng ? Người ta tiến hành qua  những giai đoạn : người ta tập trung tâm thức vào thân thể huyễn hóa,  vào những hình tướng ảo giác... Đặc biệt, khi thực hành, trước khi thiếp  ngủ, người ta nằm bên phía phải, tay phải dưới đầu, cánh tay trái duỗi  thẳng theo thân phía trái. Nếu người ta có thói quen thực hành thường  xuyên hay nếu có một hiểu biết tâm linh, người ta cầu nguyện nhiệt thành  các bậc giác ngộ để có thể nhận ra giấc mộng thật sự là giấc mộng.
Người  ta có thể quán tưởng hình tướng Padmasam-bhava trong một khối cầu ánh  sáng rất rực rỡ, như mặt trời mọc, nơi trung tâm cổ họng. Người ta cũng  có thể rất đơn giản tập trung trên một vài chữ nơi trung tâm cổ họng.  Phải làm điều này không chỉ vài lần mà rất nhiều lần, và thử, mỗi lần  ngủ, duy trì sự quán tưởng ánh sáng này trong trung tâm cổ họng. Lần  lần, người ta có thể nhận ra giấc mộng thật sự là giấc mộng. Khi thức  dậy buổi sáng, phải thử xác minh xem chúng ta đã có thể biết mộng thực  sự là mộng chưa ; ban đầu điều ấy đến rất hiếm hoi, nhưng rồi dần dần  người ta sẽ đạt đến đó.
Nếu chúng ta thử xem tất cả mọi việc mà  chúng ta làm ban ngày là không gì khác hơn một kinh nghiệm tương tự với  những kinh nghiệm chúng ta có trong giấc mộng, như thế chúng ta có thể  thấy các kinh nghiệm khi thức của chúng ta chỉ là một giấc mộng và điều  ấy cũng cho phép chúng ta nhận biết những giấc mộng thật sự là giấc  mộng. Không chỉ thế, sự kiện có thể áp dụng thái độ này sẽ giúp chúng  ta, chẳng hạn như khi chúng ta trải qua các khủng hoảng tâm lý đáng sợ,  những vấn đề dữ dội... Bằng cách ấy, chúng ta không để cho mình bị đóng  kín trong tình trạng khủng hoảng và chúng ta trở nên rất dễ dàng giáp  mặt đối đầu ; điều ấy cho chúng ta một sự tự do khi đối diện với những  tình huống của đời sống.
Nếu chúng ta không đạt đến chỗ nhận ra  giấc mộng là giấc mộng, chúng ta có thể quán tưởng trong trung tâm của  lời nói (trung tâm cổ họng) một vòng tròn với chữ OM ở giữa. Trước mặt  chữ OM, chúng ta quán tưởng chữ AH, bên phải là chữ NU, phía sau là chữ  TA và bên trái là chữ RA.
Nếu chúng ta quán tưởng năm chữ này và  đơn giản chỉ ý thức về các chữ đó phóng chiếu ánh sáng cho đến khi chìm  vào giấc ngủ, đây là một phương pháp rất hiệu quả để nhận ra trạng thái  giấc mộng.
Chắc hẳn, nếu chúng ta muốn đi vào chi tiết của một sự  thực hành như vậy... Chúng ta không tự thấy mình trong hình tướng bình  thường của mình mà tự thấy mình trong hình tướng của một bậc giác ngộ,  chẳng hạn là đức Phật, và trong vòng ánh sáng cực kỳ rực rỡ trong trung  tâm cổ họng, có một hoa sen bốn cánh. Giữa trung tâm hoa sen có chữ OM,  và trên mỗi cánh có một chữ là AH, NU, TA, RA.
Nếu chúng ta thấy  khó mà gợi lên tất cả các cái ấy một cách tức thời, chúng ta có thể bắt  đầu bằng việc quán chữ OM. Tiếp theo, khi việc đó đã rất rõ ràng và  chúng ta cảm thấy rất gần với giấc ngủ, chúng ta tập trung chúù ý vào  chữ AH, trước chữ OM. Và chúng ta vào một trong trạng thái sâu hơn, lúc  ấy tập trung trên chữ NU, rồi thì chữ TA, khi chúng ta đến giai đoạn các  thức chìm tan vào tâm thức căn bản, và rồi tập trung trên chữ RA khi  chúng ta bắt đầu đi vào thức thân nó tự biểu lộ dưới dạng giấc mộng.

Rõ ràng ban đầu cực kỳ khó khăn để duy trì ý thức mình qua suốt các  giai đoạn liên tiếp này, nhưng với sự thực hành và nhiều quyết tâm, vừa  cầu nguyện mỗi khi ngủ và tự nhủ “tôi tuyệt đối phải duy trì sự tỉnh  thức qua suốt các giai đoạn khác nhau của giấc ngủ !”, dần dần người ta  sẽ đạt được sự duy trì sợi dây không đứt đoạn của ý thức và điều ấy sẽ  là một sự hộ trì, giúp đỡ lớn lao để nhận ra giấc mộng là giấc mộng.
Người  ta có thể luân phiên các kỹ thuật ấy : đôi khi tập trung bằng cách quán  tưởng mình trong hình tướng của Phật ; khi khác tập trung trên vòng  tròn ánh sáng, tập trung trên hoa sen và thấy rõ ràng các cánh hoa...  Nếu kiên trì thực tập như vậy, tệ lắm người ta sẽ đạt đến chỗ biết mộng  là mộng trong chưa đầy một tháng.
Hiệu quả đầu tiên của sự tu  hành này sẽ là càng ngày càng có những giấc mộng, những giấc mộng kỳ  quái, những ác mộng... Và dần dần các giấc mộng thay vì rối rắm, đứt  đoạn, không dứt sẽ trở nên càng ngày càng nhẹ nhàng, càng ngày càng  trong suốt sáng tỏ. Và cuối cùng, người ta sẽ có thể nhận ra ở trong  giấc mộng, rằng người ta đang mộng.
Mặc dầu mỗi trường hợp thuộc  về cá nhân, nhưng tổng quát, sự nhận ra đầu tiên trạng thái mộng đến  trong dịp một cơn ác mộng. Thình lình, ngay giữa cơn ác mộng, người ta  biết rằng đấy chỉ là một cơn ác mộng !
Nếu ngay cả khi theo sự  thực hành này kiên trì trong một tháng mà không chứng được mộng là mộng,  đó là có một nguyên nhân vật lý hay một nguyên nhân khác ngăn trở chúng  ta. Lúc ấy có nhiều các sự thực hành khác để giúp chúng ta có được sự  hiểu biết này.
Với người biết được mộng là mộng, điều đó chưa đủ.  Trong một giai đoạn thứ hai, chúng ta phải có thể biến đổi tình thế  trong giấc mộng. Ví dụ vì các thói quen quá khứ, trong giấc mộng chúng  ta có thể cảm thấy rất sợ hãi các thú dữ hay e ngại một cuộc gặp gỡ bất  ngờ với người mà chúng ta không thích. Có người mơ thấy hỏa hoạn, động  đất, sóng thần. Chúng ta luôn luôn có các thứ sợ hãi. Khi chúng khởi dậy  trong một giấc mộng, làm sao để biến đổi, chuyển hóa chúng ? Chúng ta  đã thực hành tập trung vào ánh sáng, chuyển hóa một đối tượng bình  thường thành ánh sáng. Cũng thế, khi gặp một con quái vật, nếu chúng ta  xem rằng cái tri giác về con quái vật không gì khác hơn là tri giác của  chúng ta, không gì khác hơn là một giấc mộng và cũng cùng một thứ như  khi chúng ta thử tập trung vào một đối tượng bình thường, rồi biến đổi  nó thành ánh sáng, vậy thì bây giờ là lúc áp dụng điều ấy, con quái vật  biến thành vị Phật và vị Phật biến thành ánh sáng hòa tan trong chúng  ta, và đến lượt chúng ta tan thành ánh sáng. Và điều ấy sẽ thình lình  đem lại cho chúng ta một sự khai mở đến nỗi tất cả nỗi sợ hãi của ta đều  sụp đổ !
Trong giai đoạn tiếp theo, chúng ta hãy có thêm nữa một  quyết định trước khi ngủ, xác định với một quyết tâm lớn : “Bây giờ tôi  không chỉ sắp nhận ra giấc mộng là giấc mộng, mà còn thăm viếng các cõi  trời nơi đó có các bậc giác ngộ, để nhận được các chỉ dạy cho phép tôi  đạt đến chứng ngộ trong mục đích cứu giúp những người khác.”
Nhờ  vào một quyết định như thế, chúng ta sẽ du hành thăm viếng các cõi khác  của đời sống, các thế giới khác. Cũng thế, trong trạng thái mộng, chúng  ta có thể thử giúp đỡ những chúng sanh đang đau khổ trong thân thể tâm  thức của họ, thử chuyển hóa sự đau khổ của họ. Như thế, nhờ vào sự tu  hành này, chúng ta có khả năng liên lạc với các chúng sanh họ chỉ có độc  nhất là thân thể tâm thức. Có biết bao sinh linh họ không có thân thể  vật lý để có thể liên lạc với chúng ta.
Không chỉ thế, sự thực  hành yoga giấc mộng cũng sẽ có ích cho chúng ta sau khi chết : khi chúng  ta chết, mặc dầu thân thể chúng ta nằm đó, tâm thức dựa vào tinh chất  rất vi tế của các nguyên tố. Ngay lúc này, chúng ta có những nguyên tố  bên ngoài : đất, nước, gió, lửa, không gian... Thân thể chúng ta tạo  thành bởi tinh chất của năm nguyên tố bên ngoài này. Tinh chất của năm  nguyên tố là sức nóng, hơi thở, tất cả các thứ cứng chắc, tất cả chất  lỏng của thân và khoảng không gian ở giữa chúng, tương ứng với năm  nguyên tố bên ngoài. Và tinh chất rất vi tế của năm nguyên tố này gồm  năm năng lực chúng tạo thành chỗ nương dựa của thân thể tâm thức. Khi  chết, mặc dù thân thể vật lý được bỏ lại, chúng ta vẫn giữ một thân thể  tâm thức, y hệt như khi chúng ta ở trong trạng thái giấc mộng. Thế nên,  nếu chúng ta thực sự tu hành suốt đời này pháp môn yoga giấc mộng, chúng  ta sẽ có thể có một sự kiểm soát, một sự tự chủ toàn diện mọi kinh  nghiệm đến sau lúc chết. Và điều này không chỉ vì lợi lạc cho chính  chúng ta mà còn cho sự lợi lạc của các chúng sanh khác. Đấy không phải  là những lời nói đơn thuần, chúng ta có rất nhiều bằng chứng về tính  hiệu quả của phương pháp tu hành này !
Như đã đề cập ở trước,  trong giấc mộng thân thể chúng ta chỉ là một thân thể của giấc mộng, một  thân thể tâm thức, và chúng ta áp dụng để nhận ra nó trong yoga giấc  mộng. Thân thể của giấc mộng, thân thể tâm thức không thể bị lôi cuốn  bởi các nguyên tố vật lý như nước, lửa... Và ngay cả khi đang mộng,  chúng ta cũng cảm nhận một kinh nghiệm về nước, lửa hay gió, nhưng như  thế tất cả điều này chỉ là một giấc mộng, cũng huyễn hóa như thân thể  giấc mộng của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra điều đó và xem rằng mọi  thứ ấy chỉ là một giấc mộng. Để tu hành điều này, chẳng hạn nếu chúng ta  thấy trong giấc mộng một dòng sông ồn náo, chúng ta tự nhủ “tôi sắp  phóng mình vào trong dòng sông giấc mộng này !” Trước tiên, vì thói quen  nghiệp lực của chúng ta, chúng ta cảm thấy vài khó khăn, ngại ngần để  làm chuyện đó ; tiếp theo, nếu chúng ta thực hành như thế đã nhiều lần,  chúng ta không khó khăn gì nhận ra nước sông là nước của giấc mộng, rằng  đấy chẳng phải là nước thật và nó chẳng thể cuốn trôi chúng ta.
Khi  đạt đến đó, điều ấy sẽ đem lại cho chúng ta một trạng thái khó tin của  định và phúc lạc... Lúc ấy, tất cả đều nhập vào một trạng thái phúc lạc.  Phúc lạc không gì khác hơn là một trạng thái tự do, khai mở phi thường.
Cũng  cùng cách ấy, người ta có thể tu hành bằng cách dùng những kinh nghiệm  khác nhau của cuộc đời, dù đó là những sợ hãi, lo lắng hay những kinh  nghiệm thương tổn mà người ta trải qua trong ban ngày hay trong quá khứ,  và chúng rất khó khăn để đối mặt : mỗi khi kỷ niệm về chúng khởi lên,  chúng ta có thể thử nhận ra chúng và chứng nghiệm rằng rốt ráo chúng  không thực gì hơn một trạng thái mộng hay là ác mộng. Chúng ta cũng có  thể dùng trạng thái mộng để lại nhảy vào trong tình huống đó và làm việc  với nó, chuyển hóa nó.
Trạng thái giấc mộng gồm các giai đoạn  khác nhau ; người ta gọi một trong các giai đoạn ấy là rơi vào sự tỉnh  thức, nghĩa là thức dậy thình lình : ví dụ khi chúng ta đang mơ một giấc  mơ xấu, và chúng ta biết nó, chúng ta tỉnh giấc thình lình và chúng ta  không thể mơ tiếp. Tiếp theo, chúng ta khó tìm lại giấc ngủ. Chúng ta  khá thường gặp loại kinh nghiệm này. Chúng ta phải làm gì đây ? Chúng ta  phải tập trung vào một khối tròn bằng ánh sáng trong trung tâm quả tim  (giữa ngực), hoặc ở phía trên một chút. Người ta cũng có thể tập trung  vào hai điểm đen dưới hai bàn chân. Sự tập trung này sẽ giúp chúng ta  tìm lại giấc ngủ và tiến trình của giấc mộng. Hai điểm ánh sáng màu đen  ban đầu có kích thước của một hạt đậu Hà lan, rồi thì chúng tan biến  mất.
Có một trường hợp khác rất thường : tất cả chúng ta đều có  một số giấc mơ, nhưng khi tỉnh dậy chúng ta không thể nhớ lại, thậm chí  chúng ta cũng không biết là chúng ta đã mơ. Cái ấy là do nghiệp lực quá  khứ. Điều này cũng giống như khi người ta có thói quen nói ác, rồi thì  người ta cũng không biết đến nữa và người ta để mình bị cuốn vào trong  dây chuyền mắc xích của thói quen. Cũng thế, thường thường chúng ta ngủ  bảy, tám tiếng, chúng ta có nhiều giấc mộng, thế mà khi thức dậy chúng  ta chẳng nhớ gì ráo. Điều ấy tiếng Tây Tạng gọi là je-jam, rơi vào trạng  thái quên. Làm gì trong trường hợp này ? Rất quan trọng phải thực hành  rất nhiều yoga về thân thể huyễn hóa, nghĩa là biết rằng tất cả mọi hoàn  cảnh mà người ta gặp trong đời chỉ là một hình thức mộng. Cũng rất quan  trọng phải tập trung với một quyết chí lớn lao trước khi ngủ vào ý muốn  phải nhận ra giấc mộng là giấc mộng.
Điều mà người ta thử làm,  là vào lúc ngủ, hãy đừng rơi vào trong ảo giác và cố gắng duy trì sợi  dây liên tục của ý thức. Và sự tu hành yoga về thân huyễn là một hỗ trợ  lớn trong kỹ thuật này.
Những trở ngại khác có thể biểu lộ trong  yoga về giấc mộng : người ta có thể rơi vào trạng thái ảo giác hay dưới  nanh vuốt của các khuynh hướng thường ngày người ta luôn luôn mơ cùng  những giấc mơ giống nhau trong khuôn khổ các thói quen hàng ngày. Trong  trường hợp này, cũng phải áp dụng thực hành về thân thể huyễn hóa. Người  ta cũng có thể làm những thực tập về thanh tịnh hóa : vài thực tập hơi  thở rất ích dụng ; người ta cũng có thể cúng dâng mạn đà la. Nhờ vào các  thực hành này chúng ta đạt đến chỗ chuyển hóa giấc mơ thói quen thành  giấc mơ tích cực và tiếp đó, chuyển hóa giấc mơ tích cực này thành trạng  thái quang minh.
Một trở ngại khác mà người ta gặp phải trong  yoga giấc mộng là khó ngủ. Điều này thường do nhiều duyên cớ hay do các  nguyên nhân vật lý. Nếu thuộc về các nguyên do vật lý, phải dùng đến  thuốc, những thực vật cần thiết cho sự tái lập cân bằng thân xác ; nếu  thuộc về các duyên cớ trầm trọng hơn, cần thiết phải xem chúng là như  huyễn và rốt ráo không quan trọng gì hơn chỉ là một giấc mộng. Người ta  cũng có thể quán tưởng trong trung tâm trái tim một điểm sáng có màu  xanh đậm ; điều ấy giúp chúng ta tìm được giấc ngủ.
Các trở ngại  khác có thể xảy đến do các lực bên ngoài, gây nên một sự gián đoạn trong  việc tu hành của chúng ta, ngăn cản chúng ta ngủ hoặc không nhận ra  được trạng thái mộng. Trong trường hợp này, chúng ta có các kỹ thuật  trong đó chúng ta tập trung vào các hình tướng của Phật, và cũng có  những thần chú để trì tụng giúp chúng ta ngủ và hoàn thiện sự thực hành  giấc mộng.
Đặc biệt trong những sự thực tập được đề cập đến sáng  nay, sự suy nghĩ về vô thường và sự quý giá của đời người là rất hữu ích  để nhận ra giấc mộng là giấc mộng và trong tu hành yoga giấc mộng.
Sự tu hành Guru Yoga cũng là một sự hỗ trợ lớn để nhận ra và làm chủ trạng thái giấc mộng.
Tuy  nhiên có thể xảy ra rằng người ta đạt đến chỗ biết rõ trạng thái giấc  mộng nhưng rồi lại rơi vào trạng thái ảo giác. Điều này có thể do một sự  thiếu sót trong các hiểu biết của chúng ta, chúng ta thiếu vài giáo  huấn quý báu ; hay một kẽ hở trong samaya hay một sự thiếu tập trung...  gây nên sự gián đoạn ấy.
Như tôi đã nói, nếu người ta có thể dùng  thì giờ để tu hành yoga giấc mộng, đó là một kỹ thuật cực kỳ hiệu  nghiệm, nó cho phép chúng ta nhận ra ánh sánh thanh tịnh (tịnh quang)  sau khi chết. Không chỉ thế, nếu trong đời sống này, chúng ta thành công  trong việc nhận ra mộng là mộng ít ra là bảy lần, thì người ta sẽ không  có khó khăn nào để nhận biết kinh nghiệm bardo của tái sanh và người ta  có thể trong lúc ấy thoát khỏi mọi ảo tưởng và mọi huyễn hóa.
Khi  thực hành mãnh liệt và miên mật sáu bardo, kéo dài sáu tháng, có một  chương trình cực kỳ chính xác, cực kỳ chi tiết về các thực hành khác  nhau mà người ta phải làm trong mỗi ngày. Các thứ định và quán thay đổi  luôn và người ta thật sự phát triển được các khả năng tuyệt đối khó tin  trong các tháng tu hành yoga giấc mộng. Có rất nhiều chi tiết về các  loại định và quán này, và có lẽ chúng ta sẽ thấy chúng một ngày nào đó.
Trước  khi chấm dứt khóa này, chúng ta hãy làm một cuộc thiền định ngắn. Ở đây  chúng ta hãy tập trung vào hơi thở như chúng ta đã thấy lúc nãy. Người  ta tự xem mình như là đại diện cho tất cả mọi sinh vật trong vũ trụ :  mỗi lỗ chân lông, mỗi nguyên tử của thân thể chúng ta là một chúng sanh  của vũ trụ bên ngoài. Và người ta làm sự thực tập này với mục đích giúp  đỡ mọi sanh linh trong vũ trụ.
Trước tiên, người ta tống xuất các  ngăn ngại kết bế thuộc về tình thức sân hận của thân và tâm bằng cách  thở ra theo lỗ mũi bên phải, các ám chướng này có hình dáng một đám mây  đỏ sậm. Người ta quán tưởng trước mặt một ngọn lửa của trí huệ nó thiêu  rụi các ám chướng ấy và tất cả tan vào hư không. Với lỗ mũi trái, người  ta tống xuất mọi ngăn ngại kết bế thân tâm của các nghiệp xấu do tham  lam ích kỷ, dưới dạng một đám mây đỏ tươi nó sẽ tiêu hủy trong ngọn lửa  trí huệ.
Với đồng thời cả hai lỗ mũi, người ta tống xuất tất cả  mọi kết bế ám chướng của vô minh, dưới dạng một đám mây xám sẫm nó sẽ  tiêu hủy hoàn toàn trong ngọn lửa trí huệ trước mặt ta.
Và ta xem  thấy tiếp đó mọi kinh mạch vi tế của thân được tẩy rửa, trong sạch hoàn  toàn, và mọi ngăn ngại kết bế được tháo mở hết.
Tất cả mọi chuyển động của nghiệp lực, tất cả mọi ám chướng đều chuyển hóa thành năng lực của trí huệ.
Giờ  đây, người ta chỉ đơn giản tỉnh giác với chuyển động của hơi thở, xem  thấy sự ra vào của hơi thở mà không để cho mình bị phân tâm bằng thứ gì  khác trong một chốc lát.
Tiếp theo chúng ta thực hành hơi thở như  đã nói trước đây, bây giờ không khí ở dưới lỗ rốn. Để làm điều đó,  người ta thở ra tất cả không khí trong thân, và để thở ra, dĩ nhiên thu  rút các bắp thịt ở phần dưới. Tiếp đó, người ta hít vào nhẹ nhàng bằng  hai lỗ mũi, đưa hơi thở xuống dưới lỗ rốn và giữ ở đó. Khi hít vào,  người ta thấy rằng tất cả tinh túy của các nguyên tố và các năng lực của  các bậc giác ngộ, cũng như tinh túy của các nguyên tố và các năng lực  sự sống đến tái tạo thân tâm chúng ta ; và ta giữ không khí này lâu tới  mức có thể ở phía dưới rốn, không cưỡng ép.
Rồi khi khó giữ lâu  thêm, người ta làm cho không khí ấy lưu chuyển bằng cách xoay vòng các  bắp thịt bụng qua phải và qua trái, rồi ép về phía dưới và thở ra.
Thực  hành hơi thở này là quan trọng ; người ta gọi nó là sự tu hành “cái  bình” vì không khí chứa trong bụng như một cái bình. Đây là một thực  hành cực kỳ ích lợi để tái tạo năng lực sống và để đem lại nhiều sắc  bén, nhiều sáng tỏ của tâm thức trong thiền định.
Kỹ thuật thở  này là một kỹ thuật căn bản cho tất cả mọi thực hành yoga cao cấp. Đó  đích thực là nền tảng của mọi thực hành hơi thở. Người ta có thể kết hợp  nó với một sự thực hành kéo dài đời sống. Người ta dùng nó trong tất cả  mọi loại thiền định của mọi giáo huấn khác nhau. Nó cũng là căn bản của  các thực hành như là sự thực hành về nội nhiệt, nó cho phép các bậc  thánh, các lạt ma ở ẩn nhiều năm trong các hang động để thiền định, sống  trong một sự thiếu thốn nhất mặc dù thời tiết cực kỳ lạnh. Nó cũng rất  hiệu quả để phục hồi bộ tiêu hóa khi chúng ta có những vấn đề thuộc loại  đó, và nhiều đặc tính khác. Vậy đó là một thực hành chính yếu cần phải  biết rõ và thi hành tốt đẹp. Nó gồm bốn điểm chính :
– Thở vào
– Giữ không khí hít vào ở phía dưới rốn
– Sự luân chuyển không khí ấy
– Thở ra
Tiếp  theo, chúng ta hãy đơn giản ngồi mà tỉnh giác với hơi thở đồng thời  dùng ba âm kim cương OM AH HUNG. Khi hít vào nghĩ đến OM, giữ hơi thở  nghĩ đến AH và thở ra, nghĩ đến HUNG.
Và người ta hãy chấm dứt  khóa này bằng cách hồi hướng cho mọi chúng sanh trong pháp giới tất cả  năng lực tích cực mà chúng ta có thể tích tập, để cho mọi nỗi thống khổ  của họ được dập tắt và họ được hạnh phúc bằng chính nguyên nhân của hạnh  phúc và nhanh chóng đạt đến giải thoát tối hậu.