Giờ đây, chúng ta sắp xem xét kyéné bardo (từ khi sanh đến chấm dứt  đời sống), bardo của cuộc đời hiện tại. Để làm việc thật sự với mọi kinh  nghiệm chúng ta trải qua, chúng ta phải thấu hiểu rằng mỗi một kinh  nghiệm không gì khác hơn là kết quả của quá khứ đang phóng dọi vào hiện  tại. Đức Phật cũng như nhiều bậc thầy vĩ đại từ những truyền thống khác  nhau đã nói : “Để biết hành động trong quá khứ của bạn ra sao, hãy nhìn  vào tấm gương đời bạn hiện tại ; để biết bạn sẽ là gì và điều bạn muốn  thành trong các đời sau, hãy nhìn vào tấm gương của các hành động hiện  tại của bạn” (hành động của thân, ngữ, tâm). Thế nên, để trở nên có thể  sửa đổi, để làm trong sạch các hành động quá khứ, để có thể sửa soạn cho  tương lai, những người bạn quý báu nhất chính là những pháp môn thực  hành tâm linh. Thế nên chúng ta sắp nói đây về samten bardo hay bardo  của thiền định.
Về sự tu hành tâm linh, có sự thực hành shiné  (hay samatha tiếng Sanskrit, định), nghĩa là sự kiện an trụ để tìm thấy  tĩnh lặng, điều sẽ dẫn chúng ta đến giai đoạn hai lhag-mthong  (vipassana, quán), nghĩa là sự thấu hiểu trạng thái siêu thường của tâm  thức.
Thiền định samatha được phân thành hai bước : sự chuẩn bị và sự thực hành chính yếu.
– Chuẩn bị gồm ba cánh cửa mở vào trạng thái tự nhiên, đó là ba cánh cửa của thân, ngữ, tâm. Với mỗi cái lại có ba phần đoạn :
•  Ví dụ, ở mức độ thân, chúng ta làm những hành động tích cực, những hành  động tiêu cực, những hành động không tích cực cũng không tiêu cực. Khi  chúng ta thực hành định, chúng ta ngồi một thời gian ngắn để chuẩn bị,  trong một trạng thái tự nhiên, không dấn thân vào một hành động thể xác  tích cực, tiêu cực hay chẳng tích cực chẳng tiêu cực nào.
• Cũng  thế, ở mức độ ngữ, chúng ta phát ra những lời nói tích cực, những lời  nói tiêu cực, những lời nói không tích cực cũng không tiêu cực. Trong  định, ở yên một chốc trong trạng thái tự nhiên, không có một lời nào.
•  Ở mức độ tâm, cũng có những tư tưởng tích cực, tiêu cực hoặc không tích  cực không tiêu cực. Chúng ta cũng ở yên một chốc lát trong một trạng  thái tự nhiên, thoát khỏi mọi tư tưởng.
Đây là giai đoạn chuẩn bị của định.
–  Tiếp theo là thực hành chính yếu. Trong thiền định samadhi, cũng có hai  phần đoạn : khi thực hành định để làm lắng dịu mọi náo động và các  chuyển động khác nhau của tâm thức, đôi khi chúng ta cần một chỗ nương  dựa, chống đỡ, cũng có khi chúng ta không cần. Do đó, có thiền định với  điểm dựa, hay nói khác, thiền định với hình tướng và thiền định không  điểm dựa, thiền định không hình tướng.
Thiền định với hình tướng lại được phân làm ba loại, chúng nhằm vào :
1)  Đặt một đối tượng bình thường trước mặt, ví dụ như một quả cầu bằng pha  lê hay bằng hương trầm, và tập trung trên đối tượng này, dẫn mọi tư  tưởng phân tán về đối tượng đó.
Hay 2) Dùng một chỗ dựa cho tập trung bằng cách quán tưởng hình tướng của một bậc giác ngộ (đức Phật hay một vị khác).
Hay 3) Dùng hơi thở chúng ta như chỗ dựa cho sự tập trung.
Mỗi loại thiền định với hình tướng này lại gồm ba phần đoạn :
1/  Người ta có thể dùng một đối tượng bình thường hay một cây hương, hay  quán rõ một vòng tròn ánh sáng trước mặt hay trong luân xa đỉnh đầu, hay  trong luân xa quả tim.
Điều này gọi là định trên một hình tướng bình thường.
2/  Khi thiền định ở mức độ siêu thường, người ta thiền định trên hình  tướng một bậc giác ngộ. Người ta có thể chẳng hạn như thiền định trên sự  quán tưởng hình tướng của Vajrasattva hay của Phật Thích Ca hay của đức  Quán Thế Âm. Tiếp theo đó, có những loại quán tưởng khác nhau : ánh  sáng tỏa chiếu, phóng soi và quy tập về trung tâm...
3/ Khi người ta dùng hơi thở làm chỗ dựa, có ba phạm trù là :
• Chỉ đơn giản ý thức hơi thở : nhận biết rằng hơi thở chúng ta và tâm thức chúng ta là một – chỉ tập trung như thế.
•  Tập trung hơi thở ở phía dưới lỗ rốn : trước tiên thở ra rồi thở vào và  giữ hơi thở lâu nhất có thể được trong luân xa lỗ rốn. Rồi khi cảm thấy  không thể giữ hơi thở thêm nữa, làm lưu chuyển năng lực trong luân xa  rốn, về bên phải, về bên trái rồi ép về phía dưới và thở ra. Điều này là  phương cách tốt nhất để bảo trì mọi năng lực trong luân xa rốn.
•  Dùng ba âm kim cương OM AH HUNG – thở vào nghĩ đến OM, giữ hơi thở nghĩ  đến AH và thở ra nghĩ đến HUNG. Đây là một trong những phương tiện tối  thượng để chuyển hóa thân, ngữ, tâm của chúng ta. Tất cả mọi hình sắc,  mọi âm thanh, mọi tư tưởng như thế được xem là những hình tướng hoàn hảo  của trạng thái thức tỉnh tự nhiên, của tánh thanh tịnh bổn nhiên.
Và  bây giờ, trước khi kết thúc, chúng ta hãy làm một cuộc thiền định ngắn.  Chúng ta chỉ ngồi trong một tư thế thật thẳng, thử để tâm thức lấy lại  trạng thái tự nhiên và an trụ trong trạng thái thanh tĩnh tự nhiên này  của tâm thức.
Vậy ở đây chúng ta không dùng hình tướng để thiền  định. Và tiếp theo đó, chúng ta hồi hướng những thành quả tích cực của  thời gian và của năng lực mà chúng ta đã tiêu dùng cho những điều chúng  ta đã làm từ ban sáng, hồi hướng cho tất cả hữu tình, gồm cả chúng ta,  để tất cả được giải thoát khỏi mọi trạng thái phiền não.
(Ghi lại những lời dạy, chiều tối thứ bảy)
Trước  khi đi vào chi tiết của việc học mà chúng ta đã tiến hành, chúng ta suy  nghĩ về điều mà chúng ta đã thấy sáng nay, đặc biệt về các kỹ thuật  thiền định samatha, nó cho phép chúng ta làm an lặng các hoạt động của  các tình thức tiêu cực của tâm thức chúng ta. Để cho việc đó, chúng ta  hãy ở yên trong trạng thái tự nhiên, tự tại đối với mọi hoạt động của  thân, ngữ, tâm.
 
Khi chúng ta thử trụ trong trạng thái tự nhiên  này, vài người trong chúng ta nhận ra rằng tâm thức họ an trụ một cách  rất đơn giản trong trạng thái tự nhiên đồng thời tỉnh giác, nhưng vài  người lại có nhiều làn sóng tư tưởng khởi dậy về việc chúng ta làm chiều  nay, về chuyện chúng ta đã làm hôm qua, và những tư tưởng này ngăn họ  an trụ trong trạng thái tự nhiên tỉnh giác. Còn có vài người cảm thấy  tâm thức họ chìm đắm trong trạng thái đờ đẫn không có chút sáng sủa nào.  Thế nên thật hữu ích trong những trường hợp khác nhau này sử dụng một  chỗ nương dựa cho sự định tâm. Nếu một mình, người ta có thể dùng bất cứ  đối tượng nhỏ bé nào, chẳng hạn một cây hương hay bất cứ cái gì khác. Ở  đây, vì chúng ta làm việc thành nhóm, chúng ta hãy thử an định tâm thức  bằng cách chú mục vào khoảng không gian trước mặt với khoảng cách một  mũi tên. Và chúng ta hãy thử bắt đầu thiền định trong trạng thái tự  nhiên và tỉnh giác trong một lúc.
 
Khi người ta thử tập trung tâm  thức vào khoảng không trước mặt, không chỗ dựa cho thiền định, người ta  có thể duy trì như thế một lúc, nhưng điều ấy khá khó khăn. Vậy thì  người ta có thể dùng một chỗ nương dựa, chẳng hạn như các loại ánh sáng :
(Thiền định với điểm tựa bình thường)
Bây  giờ, hãy thử quán tưởng trước mặt chúng ta, cách điểm giữa trán một  khoảng độ một mũi tên, một hạt ánh sáng, một đốm sáng màu trắng nó nở  rộng ra đến cỡ một hạt đậu Hà lan và chói sáng cùng cực. Khi các động  niệm khởi lên, chúng ta dẫn chúng về trên đối tượng của sự định tâm này,  và chúng ta để tâm thức an nghỉ trong sự định tâm ấy một lúc.
 
Chúng  ta hãy thử dời sự chú tâm, quán tưởng trong trung tâm trái tim (ở giữa  ngực) quả cầu ánh sáng này, cỡ khoảng lóng đầu tiên của ngón cái, màu  trắng, chói lọi chứa đựng một lạc phúc, một hơi nóng, nó tỏa sáng khắp  mọi hướng, đến mọi điểm của thân thể. Tất cả mọi tế bào của thân thể đầy  ắp ánh sáng này, nó làm tan biến mọi bế tắc. Thân thể chúng ta trở  thành một khối ánh sáng và chúng ta cảm nghiệm một cảm giác an bình và  lạc phúc.
 
Đó là những thiền định mà người ta có thể làm với một điểm tựa bình thường.
(Thiền định với điểm tựa siêu thường)
Bây  giờ chúng ta hãy thử thiền định, như đã biết sáng nay, về một chỗ dựa  siêu thường, nghĩa là về hình tướng một bậc giác ngộ, và xem hình tướng  đó chứa đựng tinh túy của tất cả các bậc giác ngộ.
Nói cách khác,  thay vì quán tưởng một quả cầu tròn bằng ánh sáng nơi tim, bây giờ  chúng ta quán tưởng nơi khoảng không trước mặt một quả cầu ánh sáng rực  rỡ, trong suốt, giống như mặt trăng tròn lên khỏi chân trời hay một trái  cầu bằng pha lê. Với người quen thuộc với hình tượng Vajrasattva, thì  quán hình tướng đó : trong khối cầu ánh sáng trắng này, chúng ta thấy  một hoa sen trắng ; và trên hoa sen trắng, một cái dĩa mặt trăng. Ngồi  trên dĩa mặt trăng là hình tượng của Vajra-sattva, kích cỡ một bàn tay,  trong sáng, phi vật chất, với những chi tiết rõ nét : mắt, mũi, miệng,  bàn tay phải cầm chày kim cương (Vajra), bàn tay trái cái chuông.
Nếu  không quen với sự quán tưởng này, người ta có thể đơn giản tập trung  vào quả cầu bằng ánh sáng đồng thời xem quả cầu chứa đựng bản tánh của  tất cả các bậc giác ngộ, quá khứ, hiện tại và vị lai. Và chúng ta hãy  thử trộn lẫn, hòa tan tâm thức chúng ta với quả cầu ánh sáng đó. Hãy tập  trung như thế một thời gian.
 
Giờ đây, chúng ta hãy quán ánh  sáng này phát ra những tia sáng rực, chúng thâm nhập vào tất cả các  trung tâm của chúng ta, và tất cả trở thành rốt ráo trong sạch và thanh  tĩnh.
 
Tiếp theo, hãy quán tưởng trong khoảng không trước mặt một  vòng tròn ánh sáng, lần này không phải là màu trắng mà vàng chói, như  ánh sáng mặt trời lúc bình minh.
Với người không quen quán tưởng  một hình tướng đơn giản của đức Phật, thì quán tưởng quả cầu ánh sáng  vàng rực này chứa đựng tinh túy ánh sáng của tất cả những bậc trí huệ  quá khứ, hiện tại, vị lai.
Với người quen quán tưởng loại này, ở  trong vòng tròn ánh sáng vàng chói, chúng ta thấy một bông sen vàng trên  đó một dĩa mặt trời và trên đó đức Phật trong hình dáng đơn giản ngồi.  Ngài phóng chiếu những tia sáng vàng chói, trong suốt, đó là ánh sáng  của tất cả những bậc trí huệ của ba đời.
 
Phật phóng chiếu vô số  tia sáng thâm nhập vào mỗi lỗ chân lông của chúng ta, làm tan biến mọi  thắt gút, giải phóng mọi năng lực, chuyển hóa tất cả tham sân si thành  trí huệ, tịnh hóa mọi trung tâm của thân thể, lời nói và tâm ý.
 
Bây  giờ chúng ta lại thay đổi đối tượng thiền định. Chúng ta hãy quán tưởng  một quả cầu ánh sáng trắng tượng trưng cho bản chất đại bi của tất cả  các bậc giác ngộâ trong ba đời. Với người đã quen, đó là Phật Quán Thế  Âm, vị Phật của tâm đại bi, ngài được quán tưởng với một độ chính xác  lớn trong từng chi tiết, ngồi trên một hoa sen và một dĩa mặt trăng,  trong tâm thái đại bi.
 
Như trước, chúng ta hãy tập trung vào ánh  sáng chiếu soi từ hình tướng của lòng đại bi này, làm trong sạch toàn  triệt thân, ngữ, tâm chúng ta. Ánh sáng đó tháo tung toàn triệt mọi bế  tắc, kết bế của năng lực và chuyển hóa mọi tình thức tiêu cực thành tình  thương.
 
Bây giờ chúng ta quán thấy ánh sáng tan hòa hoàn toàn  trong chúng ta. Chúng ta cũng tỏa sáng như cái chúng ta đã quán tưởng.  Mỗi lỗ chân lông phóng chiếu những tia ánh sáng ; một lòng đại bi bao la  lấp đầy chúng ta và chúng ta phát những tia sáng đến khắp mọi hướng,  vào trong thành phố này, vượt qua thành phố này, xa hơn nữa, hướng về  tất cả chúng sanh, người và phi-nhân, vượt ngoài toàn bộ vũ trụ, làm tan  dịu mọi nỗi khổ thuộc về thể xác hoặc tinh thần của tất cả chúng sanh,  và chuyển hóa chúng thành niềm lạc phúc, ban rải một tình thương bao la  cho đến vô cùng. Và thân thể của mọi chúng sanh cũng chuyển hóa thành  những thân thể ánh sáng.
 
Bây giờ, chúng ta hãy kết thúc với một  lời nguyện mãnh liệt, hồi hướng thời gian và năng lực cho tới lúc này về  gia đình chúng ta và tất cả chúng sanh được giải thoát khỏi khổ đau và  nguyên nhân của khổ, ước mong với toàn lực rằng năng lực này là một  nguồn hạnh phúc cho tất cả, dẫn dắt tất cả đến sự tự do toàn diện và rốt  ráo.
Các loại thiền định khác nhau này là một sự tu hành nó cho  phép chúng ta thực hiện thật sự một cuộc chuyển hóa bên trong ở mức độ  con người cá thể cũng như trong mục đích có thể giúp đỡ người khác.
Những  thiền định về ánh sáng, về âm thanh, phối hợp với lòng đại bi, là những  thiền định cực kỳ mãnh liệt. Nếu người ta đi đến chỗ thật sự phát triển  chúng được, điều ấy sẽ đưa đến một sự chuyển hóa cụ thể, ở mức độ thân  và tâm, những khó khăn trở ngại của cá nhân và của những người khác.
Và,  cũng như hiện giờ chúng ta dễ dàng liên lạc xuyên qua khắp thế giới nhờ  điện thoại và các phương tiện truyền thông khác, chính là qua ánh sáng  của lòng đại bi này người ta có thể thật sự liên lạc với tất cả chúng  sanh trong vũ trụ, và điều ấy có thể là một sự cứu giúp lớn lao. Chúng  ta có bằng chứng về những người cao cả đã hoàn thiện các thực hành này  để dập tắt và làm vơi nỗi khổ của các người khác đang cần đến.
Tất  cả chúng ta đều có tiềm năng này trong chính chúng ta. Chúng ta chỉ cần  khai triển và phát triển nó qua một sự tu hành thích hợp.
Tất cả  các giai đoạn khác nhau này của thiền định samatha mà chúng ta vừa thấy  bao gồm các phương diện bên ngoài, bên trong và bí mật. Đó là những  phương pháp cho phép chúng ta thực hành và làm bình lặng các tình thức  của chúng ta.
Sau đó, thông thường, người ta tiến hành thiền quán  vipassana, nó cho phép chúng ta nhận ra bản tánh của tâm thức. Bình  thường, trong một cuộc tu hành như thế người ta thực hành, trong ít ra  là vài khóa, nếu không phải trong nhiều ngày, những sự định tâm mà chúng  ta vừa làm qua. Khi người ta trải qua những giai đoạn ấy, người ta thấy  rất rõ ràng. Ban đầu, đôi khi rất khó quán tưởng. Vài người cảm thấy  rất yên bình lúc ban đầu, dầu đó là những người có tính bồn chồn hay dễ  tức giận ; với họ hình như rất đơn giản. Trong khi một vài người khác  cảm thấy nhiều quấy nhiễu hơn trước kia và có những tư tưởng rất thô và  hỗn loạn chưa từng nhận ra trước đó. Tất cả những điều này đơn giản chỉ  là một dấu hiệu của tiến bộ trong thiền định.
Ngay cả nếu người  ta là một người bình thản, an ổn thì thiền định làm cho chúng ta xáo  động hơn, và làm nảy sanh trong ta các tư tưởng giận dữ, thù ghét, tham  chấp... phải biết đó là dấu hiệu của tiến bộ. Tất cả các tình thức ấy  đều đã hiện hữu trong ta, nhưng chúng bị che dấu, và thiền định khi làm  yên lặng tâm thức đã cho phép tất cả các thứ đó phát hiện.
Thật  là thú vị khi người ta thực hành theo cách ấy với những khóa tu ngắn  nhưng nhiều lần. Đấy là một cuộc thao dượt ! Và người ta thấy rằng y như  khi người ta ở trên đỉnh một tảng băng. Người ta chỉ thấy tuyết và nước  đá, tuy nhiên ở dưới lớp băng này có một dòng nước ngầm bắt đầu chuyển  động. Từ chỗ này, người ta không thể thấy, nhưng nếu đi xuống thung lũng  một tí, người ta sẽ gặp nhiều dòng suối nhỏ của ngọn núi, những dòng  thác rất náo nhiệt chảy nhanh. Tiếp theo, các dòng thác này trở thành  một con sông mở rộng nơi đồng bằng, chậm chạp vàø phẳng lặng. Thật khó  mà biết nó chảy về đâu, từ đông sang tây hay từ tây sang đông. Sau này,  dòng sông hòa nước với đại dương hay hòa tan trong nước của một cái hồ  rộng lớn, hoàn toàn tĩnh lặng. Và để kết thúc, hồ nước đó – chẳng hạn  thế – sẽ khô đi và tất cả nước trước kia ồn ào chảy xuống từ núi sẽ tan  biến trong không gian, trước tiên trong hình dạng sương mù, tiếp theo  trong hình dạng một đám mây, đến lượt đám mây ấy tan biến vào bầu trời,  và cuối cùng chỉ còn là không gian vô hạn.
Người ta dùng hình ảnh  ấy để minh họa các giai đoạn khác nhau của tâm thức và để chỉ ra làm  thế nào tâm thức có thể đạt đến một trạng thái tĩnh lặng sâu xa. Khi  người ta đạt đến trạng thái đại thái bình này, người ta cũng tháo gỡ  được ngay cả những hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời.
Ở đây, không  có thì giờ để đi vào chi tiết, các bạn cũng đã thấy những kỹ thuật khác  nhau chỉ đơn giản để thiết lập một nối kết với các giáo huấn. Nhưng các  lối tu hành này nếu áp dụng một cách không giảm sút và liên tục thì cực  kỳ hiệu quả. Đó là những chỉ dạy mà nguồn gốc của chúng đã có từ hơn  2000 năm. Chúng không phải là những kỹ thuật được sáng chế ra bởi những  người bình thường, họ nói : “Nào, hãy thử định tâm như thế này hoặc như  thế kia !” Hoàn toàn không phải như thế ! Nguồn gốc của các chỉ dạy này  cùng cực sâu xa. Chúng lưu xuất từ trạng thái trí huệ của các đức Phật,  các bậc toàn giác, và có trước cả 2000 năm so với đức Phật Thích Ca mà  người ta xem là vị Phật lịch sử, là vị Phật thứ tư. Sự hiểu biết về các  kỹ thuật này đã có từ trước thời đức Phật và được truyền thừa từ thầy  sang trò, từ đó đến bây giờ, trong một dòng không gián đoạn. Thế nên sức  mạnh và hiệu quả của các kỹ thuật ấy rất là vĩ đại.
Tất cả những  gì chúng ta được nghe sẽ giúp chúng ta ứng xử với các tình huống khác  nhau mà người ta có thể gặp trong khoảng thời gian bắt đầu từ khi sanh  và kết thúc lúc chết, nghĩa là trong bardo của thời hiện tại. Rõ ràng có  vô số chi tiết mà người ta không thể thấy lúc này.