TIẾT I. SỰ HƯNG SUY CỦA VƯƠNG TRIỀU.
- Sự tàn lụi của vương triều Khổng Tước.
Chính cuộc của Ấn Ðộ, tính từ khi tổ phụ của vua A Dục chưa kiến lập vương triều Khổng Tước, thì tại quốc nội, Ấn Ðộ không thể thống nhất được nổi, bởi các dị tộc từ tây bắc không ngớt xâm nhập vào nội địa Ấn Ðộ; lúc vương triều Khổng Tước hưng khởi, chính là lúc Ấn Ðộ đánh lui được thế lực của Hy Lạp do A Lịch Sơn để lại tại nước Ấn, mãi đến thời A Dục Vương, Ấn Ðộ mới xuất hiện cục diện đại thống nhất. Nhờ vua A Dục là vị quân vương hết lòng tin Phật, nhân đấy mà Phật giáo đại hưng. Sự sùng kính Phật giáo của vua A Dục được thể hiện bằng những việc làm như: bố thí rộng khắp, ở dâu có nghèo đói, ở đó liền có kế sách cứu giúp. Ông cho kiến tạo tám vạn bốn nghìn tòa bảo tháp để phụng thờ xá lợi Phật. Ông cho tu sửa tất cả tịnh xá, nồng hậu cúng đường chư tăng, khiến giới ngoại đạo vì tham lợi dưỡng phong túc mà vào cung thất đề nghị vua A Dục lập chùa Kê Viên cho giới Tăng già của họ, và họ phá hòa hợp tăng của Phật giáo, làm cho tăng giới không hòa hợp để tụng giới trong bảy năm ròng. Vua A Dục đối với Phật giáo, thậm chí ông ba lần đem cả phù đồ (quốc độ) ra bố thí.
Những việc làm của A Dục như vừa nêu dẫn đến ba hậu quả:
1. Phật giáo nhờ sinh hoạt đời sống dư dật, khiến nhiều phần tử trong tăng đoàn ngày càng đọa lạc, và trở nên phức tạp.
2. Quốc gia nhiều năm liền làm các Phật sự tu phước, khiến quốc khố trở nên trống rỗng.
3. Các hàng ngoại đạo thấy quốc vương thiên vị Phật giáo, và thường làm “vô giá đại thí” (bố thí không giới hạn), nên sinh lòng tật đố, ganh ghét Phật giáo. Cũng vì thế nên lúc tuổi về già các vương thất và đại thần giới hạn nhà vua chỉ được dùng nửa quả A Ma Lặc để cúng tăng. Nhưng những việc đại bố thí của vua A Dục không phải là điều mà đức Phật hy vọng, đức Thích Tôn thường luôn khuyến khích việc bố thí, và Ngài cũng lưu lại lời dạy về việc bố thí với đầy lòng nhân ái; ấy là hãy lượng sức mình mà làm việc bố thí. Ðời sau các đệ tử Phật mỗi khi khuyên tín chúng bố thí, thì nên bắt chước tinh thần Bồ tát mà bố thí, ấy là xả bỏ tất cả mọi sở hữu về tài sản, thân mệnh để bố thí, dụng ý của lời khuyên là nhằm loại bỏ lòng tham đắm, nhưng lại trái ngược với thường tình của đời thường, tiếc thay!
Vương triều Khổng Tước truyền được ba đời mới đến đời vua A Dục. Ba vị vua trước vua A Dục cũng đều là những vị vua sùng tín Phật giáo, và thế nước rất cường thịnh. Sau khi vua A Dục băng hà, quốc thế gặp phải tai biến cố đột ngột, nguyên do chính là do vị vua kế tiếp không đủ tài năng, và lại thù ghét Phật giáo, đó là vua Ðạt Ma Sa Ðà La, con vua A Dục, ông này tín phụng Kỳ Na giáo, nhà vua cho kiến lập rất nhiều tự viện Kỳ Na giáo khắp nơi thuộc Ngũ Ấn. Ðến đời cháu vua A Dục là vua Thập Xa, ông tin theo tà mạng ngoại đạo để tạo ba động Quật Tinh Xá. Ðời chắc vua A Dục là vua Ða Xa, ông lên ngôi vua nhưng không được lòng dân, và bị vị đại tướng là Bổ Sa Ða Ma Lợi (Pusymitra) dấy binh chống lại và giết chết vua Ða Xa, (đó là nhờ sự trợ lực của vị quốc sư thuộc giòng họ Bà La Môn và tự lập lên làm vua). Như vậy vương triều Khổng Tước trải qua sáu vị vua, trị vì được một trăm ba mươi bảy (137) năm (từ năm 322 đến 185 trước tây lịch) thì bị diệt vong. Sau vua A Dục, Phật giáo không những không được con cháu ông kính trọng mà còn bị họ thù ghét. Do đó, tăng đồ bị tá tán, họ hướng về tây nam và tây bắc Ấn Ðộ để phát triển. Ðồng thời, sau khi vua A Dục khứ thệ, đột nhiên tộc người Ðạt La Duy Trà ở nam Ấn lại hưng khởi. Người Ai Cập và người Ba Tư lại tiến sâu vào mạn bắc Ấn. Khiến Ấn Ðộ một lần nữa rơi vào cục diện phân tranh.
- Pháp nạn tại trung Ấn.
Bổ Sa Mật Ða La là vị tướng lĩnh của vương triều Khổng Tước dưới thời vua Ða Xa, ông được vị quốc sư thuộc dòng Bà La Môn trợ giúp mà dấy khởi, và rồi tự xưng vương. Kinh đô của vương triều Khổng Tước là thành Hoa Thị, nên cũng tại đây ông kiến lập vương triều Hắc Ca. Ông vốn nhờ quốc sư Bà La Môn mà nên vương nghiệp. Do đó, ông tin nghe theo vị quốc sư này, và cho rằng vương triều Khổng Tước sở dĩ bị tiêu vong là do quá sùng tín Phật giáo - một tôn giáo vô thần, vô tránh (không tranh cãi hơn thua). Vì thế ông cho thực hành lại phép tu Mã tự (Asvanedha). Phép tu này trước đó bị vua A Dục nghiêm cấm.
Sau khi tái thực hành phép tu Mã tự, ông có cuộc tây chinh và dành được ít nhiều thắng lợi, nhân đó giáo sĩ Bà La Môn cậy thế mà đại chấn hưng. Bà La Môn giáo núp dưới âm mưu chính trị, mở rộng cuộc vận động bài xích Phật giáo khắp nơi. Bấy giờ Phật giáo phải hứng chịu khổ ách cùng cực; chỉ tiếc trong các truyện ký không ghi lại tường tận pháp nạn này. Hiện nay nhờ cuốn “A Dục Vương Truyện”, và bộ “ Xá Lợi Phất Vấn Kinh” v.v... để có được sự hiểu biết ít nhiều về giai đoạn này. Theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh, thì vua Bổ Sa Mật Ða La hy vọng ông cũng sẽ lưu danh bất hủ giống như vua A Dục, nhưng ông cũng tự biết uy đức mình không thể sánh kịp với tiên vương (A Dục Vương). Tiên vương thì kiến tạo tám vạn bốn nghìn bảo tháp thờ xá lợi Phật, và dốc cạn tài vật quốc gia để cúng dường Tam Bảo mà lưu lại thịnh danh. Ngược lại, vua Bổ Sa Mạt Ða La la người “phá tháp diệt pháp”, không ngừng tàn diệt tứ chúng đệ tử Phật, thì làm sao lưu được thịnh danh. Ông sát hại tập thể bất luận đó là Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, Sa di hay Sa di ni, không kể lớn nhỏ. Sự giết hại khiến máu chảy thành sông, và tàn phá chùa tháp hơn tám trăm ngôi, ngay cả các thanh tín sĩ(1) cũng bị phiền hà tù tội, và chịu nhiều hình phạt roi gậy. Ðương thời có năm trăm vị La hán vượt qua dãy núi phái nam nhờ đó mà thoát được kiếp nạn. Theo luận Ðại Tỳ Bà Sa(2), phần cuối quyển 125, chép: “Xưa có vị vua Bà La Môn tên là Bổ Sa Hữu đem lòng ganh ghét phương pháp, ông cho thiêu đốt kinh điển, hủy “tốt đổ ba” (tháp); phá Tăng già lam, hại Bí sô (Tỳ kheo) chúng, chỉ riêng khu vực biên cảnh giáp với nước Ca Thấp Di La, ông cho phá hủy năm trăm Tăng già lam (chùa tăng cư trú), huống nữa là các nơi khác”. Ðoạn văn trên là miêu tả vua Bổ Sa Mật Ða lúc ông tây chinh có được “tiểu chiến thắng”. Cùng lúc cũng tại vùng biên cảnh nước Ca Thấp Di La, ông mở cuộc vận động bài Phật giáo. Còn đoạn văn được nói trong “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” là chỉ tình hình tại thành Hoa Thị thuộc trung Ấn Ðộ. Việc năm trăm vị la hán vượt qua dãy núi phía nam, ấy là chỉ một bộ phận tăng nhân Phật giáo thoát khỏi nước Ma Kiệt Ðà ở trung Ấn dể đi đến nam Ấn Ðộ.
Như vậy vương triều Hắc Ca của nước Ma Kiệt Ðà được hình thành sau Phật diệt độ và truyền đến vị vua thứ mười là Ðịa Thiên vương, thời gian là một trăm mười hai năm (trước tây lịch từ 185 đến 73 năm), và lại cũng do đại thần giòng Bà La Môn là Bà Tu Ðề Bà được một quốc sư Bà La Môn ủng hộ mà soán ngôi và kiến lập vương triều Ca Lạp Bà một cách riêng biệt, vương triều này truyền được bốn đời, đến đời vua Thiên Hộ là dứt, trước sau được bốn mươi lăm năm (trước tây lịch 28 năm) thì bị vương triều Án Ðạt La của vua Bà Ðà Ha (Sàtavàhana) ở ;nam Ấn tiêu diệt. Trong khi đó tại trung Ấn Ðộ, Bà La Môn giáo lại phục hưng, tuy kết cục cũng vẫn không cứu nổi sự suy tàn của Ma Kiệt Ðà (ở đây là vương triều Hắc Ca). Nhưng tại nam Ấn và tây Ấn, Phật giáo lại trở nên hưng thịnh nhờ thế nước tại hai khu vực này rất mạnh.
Từ lúc trung Ấn bị Án Ðạt La của nam Ấn thôn tính, và kiến lập vương triều Án Ðạt La cũng tại nam Ấn Ðộ, và cùng với vương triều Quý Sương của bắc Ấn Ðộ đối địch nhau, tạo thành tình thế phân cục nam - bắc triều.
- Vương triều Án Ðạt La.
Từ sau thời vua A Dục, lãnh thổ của đế quốc Ma Kiệt Ðà lần hồi bị thu hẹp, tại đông nam Ấn Ðộ, tộc người Án Ðạt La - phân chi của dân tộc Ðạt La Duy Trà, thừa lúc vương triều Khổng Tước đang hồi suy vi mà tuyên cáo độc lập. Ước khoảng từ năm 240 - 230 trước tây lịch. Vua Thi Ma Ca (Simuka) người hưng khởi vương triều Bà Ða Bà Ha và lập kinh đô tại đất Ðà na Yết Kiệt Ca (Dhanakataka), cao ngyên Ðưc Can (Deccan) cũng thuộc về vương triều này. Trước Công nguyên hai mươi tám năm, vương triều Bà Ða Bà Ha thôn tính toàn bộ vùng trung Ấn của Ma Kiệt Ðà. Sau Công nguyên khoảng một trăm năm lẻ sáu (106) năm, vua Kiều Ðạt Di Phổ Ðặc La, và vua Tất Ðạt Khải Nhĩ Ni (Gautamìputra Sàtakarni) bành trướng lãnh thổ sang tây Ấn Ðộ, nhưng thừa lúc vương triều Bà Ða Bà Ha bị suy yếu, các địa phương tại trung Ấn và tây Ấn liền tuyên bố ly khai. Khoảng năm 225 sau Công nguyên (có thể là năm 226), vương triều Bà Ða Bà Ha bị diệt vong.
Về mặt tín ngưỡng tôn giáo, vương triều Bà Ða Bà Ha của tộc Án Ðạt La, phần lớn các vua tín phụng Bà La Môn giáo, trong đó cũng có một số vị quân vương tín phụng Kỳ Na giáo và Phật giáo, cũng có vị bảo hộ và hoằng dương Phật pháp. Vị anh chúa là Tất Ðạt KhảiNhĩ Ni cùng mẫu hậu bố thí tịnh xá Ðộng - Quật cho tăng đồ Hiền Vị Bộ. Lại có vua Bà Ða Bà Ha lấy hang động trên đỉnh Hắc Sơn cúng ngài Long Thọ. Ðoán rằng đây có thể là vua Kiều Ðạt Di Phổ Ðặc La. Khoảng từ năm 170 - 201 sau tây lịch hoặc vua Da Kỳ Na Xá Lợi (Gautamìputra Yajnõasri).
Riêng tại Tích Lan, có vị vua tên là Mộc Xoa Già Ma Ni kiến thiết tịnh xá, đại tháp, đồng điện v.v... tại vùng đất A Nậu La Ðà Bổ La, và cúng dường tăng già rất hậu. Tại đây vị quân vương làm người ngoại hộ; do đó, mà Phật giáo tại Tích Lan phát triển vô cùng thuận lợi. Khi Phật giáo chưa truyền đến Tích Lan, thì người dân tại đây cũng đã cất Vô Úy Sơn Tự để cúng dường cho Ni Kiền Tử (môn đồ Kỳ Na giáo). Họ cũng chuyển sang cúng dường ngôi đại tự cho trưởng lão Ma Ha Ðế Tu. Về sau nhờ có nhiều vị vua và đại thần hộ trì, nên tại Tích Lan cho kiến tạo được rất nhiều chùa tháp Phật giáo. Tích Lan vốn là một chi của Phật giáo Ấn Ðộ, do đó sách này sẽ dành một thiên để giới thiệu, ở đây chỉ xin sơ lược.
- Vua Di Lan Ðà.
Sau khi A Lịch Sơn Ðại xâm nhập Ấn Ðộ (năm 326 trước tây lịch), lại có một người Hy Lạp rất nổi tiếng tên là Ðức Di Ða Lợi Áo Tư (Demetrois) thống suất đại quân tái chiếm A Phú Hãn (Afghanistan), rồi từ A Phú Hãn xâm nhập Ấn Ðộ bằng cách vượt qua sông Tín Ðộ, chiếm hữu các địa khu thuộc thượng du sông Hằng, và đóng đô tại Xá Kiệt (Xa Yết La - Sàkala) - Vua Di Lan Ðà thuộc tộc người Demetrois.
- Vua Di Lan Ðà (Milanda) lên ngôi khoảng năm 160 trước Công nguyên. Ông là vị vua tịnh tín đối với Phật giáo, ông từng đến trước Na Già Tư Na (Nàgasena được dịch là Long Quân, hoặc dịch âm là Na Tiên) Tỳ kheo để hỏi Phật pháp. Sự kiện này được biên tập thành bộ sách, đó là bộ “Di Lan Ðà Vấn Kinh” được viết bằng văn tự Ba Lị, mà bản Hán dịch vơi tên là “Na Tiên Tỳ Kheo Kinh”.
Theo Ấn Ðộ Thông Sử của Chu Tường Quang, trang 88 chép là vào khoảng năm 155 trước Công nguyên, Khách Bố Nhĩ (Kabul) và tổng đốc của Bàng Giá Phổ là Mai Na Ðà (Menander) thống suất đại quân Hy Lạp tấn công nước Ma Kiệt Ðà, vì thế mà Ma Thâu La, A Du Ðà (Ayodhyà), Mạt Ðệ Mật Ca (Madhyamika) cũng thường xuyên bị vậy hãm, mãi tới khi thành Hoa Thị thuộc vương triều Hăc Ca cử đại quân đánh bại quân Hy Lạp, và buộc họ phải thối lui. Sau đó vài năm, Bổ Sa Mật Ða La xưng vương và cho thực hành phép Mã tự. Phép Mã tự dùng ngựa làm vật để hiến tế; phàm ngựa được hiến tế mà chạy qua bang nào, thì bang (nước) đó được làm phép Mã tự, tức là cho quân gia nhập sĩ gia nhập đội bảo vệ lễ cúng ngựa, nếu không ắt phát sinh chiến tranh. Quân đội Hy Lạp nhân đó bắt được cháu của Bổ Sa Mật Ða La - người thống suất đội bảo vệ tế mã, và đánh nhau với Bà Tô Mật Ða La (Vasumtra - tướng của vương triều Hắc Ca), quân tướng Hy Lạp đánh bại quân của Tô Mật Ða La hai bên bờ sông Ấn hà.
Mai Na Ðà được nói trên đây là vua Di Lan Ðà, gọi giản đơn là vua Di Lan. Trước ông đến nước Ấn Ðộ Ðại Hạ, đồn trú tại Kabul và làm tổng đốc tại Bàng Giá Phổ. Sau đó ông kế vương vị nước Ðại Hạ. Lãnh thổ do ông thống trị bao gồm Afghanistan, lưu vực Ấn Ðộ hà, Lạp Gia Phổ Ðại Na (Rajaputana) và một bộ phận của đông bộ Ấn Ðộ. Sau khi ông chết, thì Ấn Ðộ Ðại Hạ bị chia đôi, vị vua sau cùng có tên là Hạng Mậu Tư (Hermanes), vào năm 50 trước Công nguyên, ông đầu hàng Ðại Nguyệt Thị (Cơ Tộc - Scythian) thuộc vương triều Quí Sương.
- Vương triều Quí Sương.
Kế tiếp sau người Hy Lạp xâm nhập Ấn Ðộ là tộc người Ðại Nguyệt Thị, tộc người này xâm nhập vào vùng tây bắc Ấn Ðộ. Theo “Hán Thư Tây Vực Truyện” chép: “Ðại Nguyệt Thị vốn định cư tại Ðôn Hoàng bị họ Hạnh Ðốn đánh phá, nhân đấy Lão Thượng Ðơn tàn sát tộc Ðại Nguyệt, dùng đầu của tộc Ngyệt Thị bị giết làm đồ đựng thức uống. Từ đó tộc Nguyệt Thị bỏ chạy khỏi dải Ðôn Hoàng, vượt qua Ðại Uyển, đánh phá phái tây nước Ðại Hạ, nhưng lại thần phục Ðại Hạ. Lập thành triều đình và đóng đô ở phái bắc Quy Thủy”. Tây Vực Truyện cho biết là tộc Nguyệt Thị: “Có năm Linh hầu, một là Hưu Mật Linh hầu, hai là Song Mi Linh hầu, ba là Quí Sương Linh hầu, bốn là Khoa Ðốn Linh hầu, năm là Ðộ Mật Linh hầu”.
Phần sau cùng của “Hậu Hán Thư Tây Vực Truyện” lại chép: Lúc đầu tộc Nguyệt Thị bị người Hung Nô tiêu diệt, bèn chạy đến Ðại Hạ định cư, chia đất nước ra thành năm Bộ Linh hầu. Hơm trăm năm sau, Linh Hầu Quí Sương là Khưu Tự Khước, tấn công tiêu diệt bốn linh hầu còn lại, rồt tự lập lên làm vua, xưng quốc hiệu là Quí Sương. Vua nước Quí Sương mang quân đi xâm lược An Tức Chiêm lấy đất Cao phủ, lại tiêu diệt Bộc Ðạt, Kế Tân mà có được nước riêng cho vương triều Quí Sương. Khưu Tựu Khước sống hơn tám mươi tuổi mới chết. Con là Diêm Cao Trân lên thay cha làm vua, lại một lần nữa đánh phá nước Thiên Trúc”.
Tộc Nguyệt Thị gốc là giống người Mông Cổ bị người Hung Nô tại vùng sơn cốc thuộc tỉnh Cam Túc của Tung Quốc đuổi chạy đến Ðại Hạ (nay là Châu Bố Hiệp Nhĩ của Thổ Nhĩ Kỳ Tư Ðát). Thời ấy Ðại Hạ là đất bị thực dân Tây Hạ cai trị, và do bộ tướng của A Lịch Sơn Ðại (Alexander) lập thành một tiểu quốc. Khưu Tựu Khước đánh bại người Hy Lạp, lập nên vương triều Quí Sương. Sau khi bị đại bại, người Hy Lạp rút chạy về phía nam, và tiến vào Ca Thấp Di La thuộc vùng tây bắc Ấn Ðộ (nay là Khách Thập Nhĩ Mễ - tức bang Kamira do từ sự kiện này), tiếp đó tộc Nguyệt Thị truy đuổi người Hy Lạp nên cũng tiến vào Ấn Ðộ. Ðến con của Diêm Cao Trân là vua Ca Nị Sắc Ca (theo V.A. Smith, thì vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi năm 120 sau tây lịch). Thời này, vùng phía tây bắc trung Ấn Ðộ mới trở thành cộng chủ dưới quyền vua Ca Nị Sắc Ca. Về niên đại lên ngôi của vua Ca Nị Sắc Ca không thể xác định. Nếu căn cứ việc ông cho đúc tiền mà khảo sát. Thì đại khái khoảng từ năm 78 đến 128 tây lịch. Nhưng đó là thời kỳ ông tại vị(3)
Về phương diện lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ, thì địa vị vua Ca Nị Sắc Ca và A Dục đều được coi là các ông vua của Phật Giáo, cả hai đều là những bậc quân vương hùng tài đại lược, văn trị, võ công song toàn, người trước người sau đều ngời sáng. Vua Ca Nhị Sắc Ca kiến lập kinh đô tại Bố Lộ Sa Bố La (Purusa - Pura, nay là A Phú Hãn và giao giới với xứ Ba Cơ Tư Ðát (Pakistan) của Bạch Hạ Ngõa), đông giáp lưu vực sông Diêm Ngưu Na, nam từ dãi sơn mạch Tần Xà Da (Vindhya) đến Ấn Ðộ hà khẩu, tây tiếp giáp An Tức (nay là Y Lãn và một bộ phận của A Phú Hãn), đông bắc chạy đến phía đông của ngọn Ðạt Ðát Ân. Nghiễm nhiên là một đại đế quốc.
Theo sử gia Tra Na Tư Hoa (KP. Jayaswal), thì trong ba mươi ba ba vị vua của vương triều Quí Sương. Chỉ có mười tám vua trước thống lãnh đến tận trung Ấn Ðộ; từ thời trung kỳ trở lui, tại địa phương Ca Ma Phổ (Campà) đã có vương triều Na Già Tư Na (Nàgasena) - 150 - 134 sau tây lịch. Tại địa phương Kiều Ðức (Gaudà), có vương triều Kiều Ðức (? - 320 tây lịch). Sau này có vua Phổ Lạp Bạch Suy Tư Nô (Prabhavisnu) xuất hiện, và thôn tính cả hai vương triều Na Già Tư Na và Kiều Ðức đến vua Sa Mổ Ðà La Cấp Ða (Samudra - gupta), người sáng lập vương triều Cấp Ða. Ấn Ðộ một lần nữa qui về thống nhất. Thực ra thì nền tảng của vương triều cấp đa được dựng xây từ thời vua cha là Chiên Ðà La Cấp Ða đệ nhất (Candragupa I) đó là năm 320 tây lịch. Vương triều này lúc khởi đầu chỉ là tên của vị Thổ vương có tính thế tập, sau đổi thành quân vương.
Ở phương bắc vương triều Quí Sương bị diệt vong vào năm 320 tây lịch, trong khi ở phương nam vương triều Án Ðạt La bị bại vong vào năm 326 tây lịch. Thay vào đó là sự đại hưng của vương triều Cấp Ða.
TIẾT II. PHẬT GIÁO VỚI VUA CA NỊ SẮC CA.
- Phật Giáo trong thời gian ba trăm năm.
Lịch sử Ấn Ðộ tính từ thời vua A Dục đến thời vua Ca Nị Sắc Ca có hơn ba trăm năm, trong khoảng thời gian này, kết luận dù là tôn giáo hay chính trị, lịch sử Ấn Ðộ cớ hồ như tờ giấy trắng vì chẳng có sự ghi chép nào cả! Về mặt sử học, trong thời cận đại nhờ có sự khai quật mới phát hiện những di vật của thời cổ đại, nhờ vậy mới khảo sát, cùng lợi dụng các thứ tư liệu vừa gián tiếp và lờ mờ để qua đó đối chiếu, so sánh và thẩm tra rồi đi đến kết luận một cách đại lược. Phật Giáo trong thời kỳ này theo Lữ Trường, ông dựa vào bộ Phật Giáo Ấn Ðộ của Ðịch Nguyên Vân để biên soạn bộ Ấn Ðộ Phật Giáo Sử Lược, mà một thiên của chương một, tiết bảy, có hai đoạn nói tới thời gian này đại loại có năm khu vực:
- Phương nam thịnh nhất là Tích Lan.
- Tiếp đó là Ma Lạp Bà (Malava) thuộc Tây nam Ấn Ðộ.
- Thứ nữa là Tín Ðộ ở tây bắc Ấn Ðộ.
- Tương đối thịnh là Ca Thấp Di La và Kiền Ðà La thuộc bắc Ấn Ðộ.
- Ở đông bắc Ấn Ðộ là phạm vi của Kỳ Na giáo rất mạnh.
Như ta biết, sự phục hưng của Bà La Môn giáo đầu tiên là tại trung Ấn Ðộ. Từ sau khi vương triều Án Ðạt La tiêu diệt vương triều Ma Kiệt Ðà, lúc ấy tư tưởng Phật Giáo Ðại Chúng Bộ của phương nam mới đến được trung Ấn Ðộ, và rồi theo chân triều Án Ðạt La mà tiến vào tây Ấn Ðộ, khiến Phật Giáo Hữu Bộ của tây Ấn cũng cảm nhiễm tư tưởng của Ðại Chúng Bộ, cho nên sự xuất hiện của Sư Kinh Lượng Bộ ở tây Ấn không phải là ngẫu nhiên. Nhân vụ tại trung Ấn xảy ra pháp nạn nên có một bộ phận học giả của Thượng Tọa Bộ ở đông nam Ấn phải lánh nạn vào nam Ấn Ðộ, tại đây họ tiếp xúc tư tưởng của Ðại Chúng Bộ mà hình thành Phân Biệt Bộ rất tiến bộ. Lệ như Hóa Ðịa Bộ và Pháp Tạng Bộ lấy thành Ba Tra Li Tử làm trung tâm, Pháp Tạng (tức Ðàm Vô Ðức Bộ) có mang sắc thái Mật giáo, ấy là do tiếp thụ ảnh hưởng của văn hóa Án Ðạt La, do đó cho nên dưới thời vua A Dục có sự bất đồng giữa Pháp Tạng Bộ và Phân Biệt Bộ, cũng thế lúc Pháp Tạng Bộ truyền đến Tích Lan lại bất đồng với Phân Biệt Thượng Tọa Bộ.
Trong giai đoạn này, vùng đất căn cơ của Bà La Môn giáo sơ kỳ là tại tây Ấn và bắc Ấn; bởi tại trung Ấn thế lực Phật Giáo đang thịnh hành, vì là thời trị vì của vua A Dục. Nên Phật Giáo phản đối sự chiếm lĩnh của Bà La Môn giáo, do vậy, Bà La Môn giáo hướng về nam Ấn, và hình thành tín ngưỡng của dân tộc Án Ðạt La. Rồi cũng do sự hỗn hợp giữa Bà La Môn giáo với văn hóa Án Ðạt La mà sản sinh ra tân Bà La Môn giáo - đó là phái Thấp Bà. Lại nữa, cũng do vương triều Án Ðạt La đến trung Ấn. Nhờ vậy. Phật Giáo tại trung Ấn lại hưng thịnh hẳn lên.
- Riêng tại Tích Lan, sách này sẽ dành một thiên để giới thiệu.
Phương diện hiểu biết về Án Ðạt La rất giới hạn, duy chỉ có một hệ của Hữu Bộ ở phương bắc còn lưu lại điển tích, do đó sẽ giới thiệu vấn đề này.
- Vua Ca Nị Sắc Ca và những việc làm của ông.
Tên tuổi vua Ca Nị Sắc Ca được thấy trong các ghi chép của Phật Giáo, và được truyền đến Tây Tạng và Mông Cổ. Năm 1909, bác sĩ Tư Ban Nội (Dr. Spooner) khai quật được một hòm xá lợi Phật tại tây bắc Ấn Ðộ, trên nắp hòm có khắc tên vua Ca Nị Sắc Ca, điều đó chứng thực rằng ông là người có thực trong lịch sử Ấn Ðộ cổ đại; mặt ngoài hòm xá lợi có khắc tự dạng “Nạp Thọ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ”, như vậy cho thấy ông là người hộ pháp của Phật Giáo Hữu Bộ.
Căn cứ nét hoa văn trên tiền đúc dưới thời trị vì của vua Ca Nị Sắc Ca mà khảo sát, thì vua lúc về già mới tín phụng Phật pháp. Tiền tệ được phát hành vào thời kỳ đầu dưới thời ông, về hình sắc mà nói thì rất đẹp. Chữ Hy Lạp được khắc chạm lên tiền đồng, và khắc cả tượng thần Nhật Nguyệt nữa. Lần phát hành tiếp theo ông lại dùng Ba Tư ngữ thuộc cổ văn Hy Lạp để khắc lên tiền đúc, đồng thời cũng khắc tượng thần được các dân tộc như Hy Lạp, Ba Tư và Ấn Ðộ tôn thờ lên tiền đúc, nhưng chưa thấy khắc tượng đức Thích Ca.
Phật Giáo tại Ca Thấp Di La và tại Kiền Ðà La phải đợi đến cuối thời vua A Dục mới được xiển dương hoằng hóa, và do hoàn cảnh đặc thù mà Phật Giáo tại đây dần dà trở thành một hệ riêng, mang nặng tính tuyển thuật phong phú về luận điển, và coi trọng thiền dịnh, do đó cho nên sau này các luận sư, thiền sư cũng như mười chín học giả đều xuất từ hệ này. Khi đã có nhiều luận sư, thì điều không thể tránh là giữa họ xảy ra tranh luận với nhau; vì vậy, vua Ca Nị Sắc Ca đối với Phật Giáo là một vị vua có công đưc cực lớn, đó là việc ông xúc tiến cuộc kết tập lần thứ tư thành công. Có ba truyền thuyết nói về lần kết tập thứ tư:
1. trong Ðại Ðường Tây Vực Ký quyển ba(4), Huyền Trang chép:
Nhân việc vua lấy đạo hỏi người, mỗi người giải đáp khác nhau, vua bèn đem việc ấy hỏi Hiếp Tôn giả. Tôn giả đáp:”Sau khi Như Lai diệt độ, qua nhiều năm tháng, chúng đệ tử Phật chấp theo Bộ phái mình, khiến lời dạy của Phật được giải thích theo sự “kiến văn” khác nhau của mỗi Bộ, kết quả dẫn đến mâu thuẫn nhau”. Nghe xong, nhà vua vô cùng xót xa, đau đớn, ông liền phát tâm và truyền lệnh triệu tập chư vị thánh triết đến dự cuộc kết tập. Ðại chúng trong đại hội kết tập đồng lòng thỉnh Bồ Tát Thế Hữu làm thượng chủ. Cuộc kết tập lần lượt tiến hành các việc như: tạo luận, giải thích kinh, luật mỗi thứ có đến mười vạn bài tụng. Cộng cả thảy có ba mươi vạn bài tụng với chín trăm sáu mươi vạn lời (9.600.000) chú thích đầy đủ tam tạng.
2. Truyện Bà Tẩu Bàn Ðậu(5) Pháp sư chép:
Sau Phật nhập diệt năm trăm năm, có ngài La hán Ca Chiên Diên Tử xuất gia với Bồ tát Bà Ða, ngài cùng năm trăm vị La Hán và năm trăm vị Bồ Tát cùng nhau tuyển tập bộ A Tỳ Ðạt Ma cho Bộ phái Tát Bà Ða.
3. Vấn đề này được truyền tại Tây Tạng:
Tại nước Ca Thấp Di La có vua Ca Nị Sắc Ca cúng dường tịnh xá Nhĩ Lâm, dùng nơi này để triệu tập năm trăm vị La Hán, năm trăm vị Bồ Tát, và năm trăm học giả tại gia, thỉnh cầu họ kết tập lời Phật. Từ đó về sau những thuyết của mười tám Bộ được chứng nhận đúng là lời Phật dạy. Lại cho ghi chép luật thành văn tự, những kinh, luận nào trước đây chưa được viết thành văn, thì nay cũng được viết đầy đủ.
Trong ba thuyết vừa nêu, thì Ðại Ðường Tây Vực Ký chỉ lấy ngài Thế hữu xưng là Bồ Tát. Trong khi Thế Thân truyện lại ghi có năm trăm vị Bồ Tát và Tây Tạng thì gia thêm năm trăm vị học giả tại gia. Như vậy, có thể hình dung lần kết tập này thông hàm tất cả những điều Phật dạy. Thực ra, lần kết tập thứ tư này là của Nhất Thiết Hữu Bộ, vì trong ba thuyết trên chỉ có thuyết của Ðại Ðường Tây Vực Ký là đủ độ khả tín. Thành quả của lần kết tập này là sự xuất hiện của luận Ðại Tỳ Bà Sa với hai trăm quyển, và bộ luận này hiện vẫn còn trong tạng luận, trong đó còn lưu giữ tự dạng thời vua Ca Nị Sắc Ca. Nếu xét về nội dung, bộ luận Ðại Tỳ Bà Sa đã qua nhiều tăng bổ của hậu nhân.
- Ngài Mã Minh với vua Ca Nị Sắc Ca.
Theo những gì được truyền tại Trung Quốc cũng như tại Tây Tạng, thì giữa vua Ca Nị Sắc Ca và ngài Mã Minh (Asvaghosa) đều có liên quan với nhau. Truyền rằng, khi vua Ca Nị Sắc Ca tấn công nước Ma Kiệt Ða, dân nước này địch không nổi bèn lấy bình bát của đức Phật ra cung hiến và nhờ Bồ Tát ngài Mã Minh đứng ra cầu hòa. Lại nữa, theo Ðại Trang Nghiêm Luận, thì ngài Mã Minh là người viết bài “Qui Kính Tự” trong đó có câu “Phú Na Hiếp Tỳ kheo, ngã đẳng giai kính thuận” (Ngài Hiếp Tôn Giả Tỳ kheo Phú Na, chúng con xin cung kính qui thuận). Qua đó cho thấy dưới thời trị vì của vua Ca Nị Sắc Ca, ngài Mã Minh là đệ tử của Hiếp Tôn Giả, truyền thuyết cũng nói đến vua và ngài Mã Minh đều thờ Hiếp Tôn Giả làm thầy. Theo “Thế Thân Truyện(6) thì “Mã Minh viết một mạch trong mười hai năm xong bộ luận Tỳ Bà Sa, với một trăm vạn bài kệ”. Theo truyền thuyết này thì Mã Minh là người trước tác luận Ðại Tỳ Bà Sa. Sự thực thì Mã mInh là một đại văn hào của thời đại ông mà thôi, và ông là người nhuận sắc Luận Ðại Tỳ Bà Sa, chứ ông không phải là sư của Bà Sa. Vì trong “Ðại Trang Nghiêm Kinh Luận - Qui Kính Tự”, ông tỏ rõ một mực qui kính các ngài: Phú Na, Hiếp Tỳ kheo, Di Lặc (Hóa Ðịa Bộ), Tát Bà Thất Bà (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ), Ngưu Vương Chánh Ðạo Giã (tức Kê Dẫn Bộ) v.v...
Bất luận thế nào, trong quá trình kiến quốc vua Ca Nị Sắc Ca là người mở thông Bộ giữa hai nước Ấn Ðộ và Trung Quốc. Khi về già ông là vị vua tích cực hộ trì Phật Giáo. Cũng nhờ đó mà Phật Giáo có đủ thời gian truyền đến các dân tộc trong vùng. Buổi đầu Phật Giáo đến được Trung Quốc là do đường bộ từ Tây Vực mà đến. Vì vậy, khi nói đến công đức vua Ca Nị Sắc Ca, ta có thể sánh công đức của ông ngang với vua A Dục.
- Pháp nạn tại Ấn Ðộ.
“Vật cực tắc phản” tựa hồ như đấy chính là qui luật thép của thế gian pháp! Theo Sử thư Ràjatanginì của Ca Thấp Di La thì hai vị vua của vương triều Quí Sương trước thời vua Ca Nị Sắc Ca, đều là những vị vua hộ pháp và có kiến trúc tăng viện, Chi Ðề (tháp thờ xá lợi) rất nhiều, khi vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi thì Phật Giáo tại Ca Thấp Di La lại càng hưng thịnh hơn, và có phần áp đảo tín ngưỡng Thấp Bà của Bà La Môn giáo, bấy giờ tại Ca Thấp Di La, Phật Giáo bị tộc người Thổ Bang Long (Nagà) phản đối bằng cách sát hại Phật Giáo đồ một cách bừa bãi. Vua Ca Nị Sắc Ca cũng từng gặp phải sự bất ổn này nên đành tránh né.
Bấy giờ có Bà La Môn là Cam Ðà La Ðề Bà (Condradeva) nổi lên trấn áp Phật Giáo. Ðến vua Chiên Ðà La (Gonada) đời thứ ba mới chận đứng được sự đàn áp Phật Giáo. Ðại Ðường Tây Vực Ký quyển ba(7) cũng chép:
Sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời, giống người Ngật Lợi Ða lại tự xưng vương, họ bài xích và xô đuổi tăng đồ, hủy hoại Phật pháp, về sau nhờ có Tứ Ma Ðát La thuộc tộc Thích Ca của nước Ðồ Hóa La giết chết vua Ngật Lợi Ða, Phật Giáo nhơn đó được phục hưng.
Nhờ cả hai sách vừa dẫn đều được ghi giống nhau, do đó có thể đủ để tin là sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời chắc chắn là có việc thổ vương theo Bà La Môn giáo, nổi lên hủy diệt Phật Giáo.
- Ảnh hưởng sau Pháp nạn.
Theo pháp sư Ấn Thuận, sau pháp nạn tại trung Ấn, Phật Giáo tại Trung Ấn đi đến ba kết quả.
1. Vội vàng chạy theo ngoại diên, đánh mất sự thuần chơn:
Cảm nhận từ giáo nạn đưa đến lãnh vực nhận biết về tôn giáo thế giới, mà trước tiên không còn tôn trọng chính tôn giáo mình, không chịu củng cố cái gốc của mình, và không chịu làm sạch nguồn mạch của tôn giáo mình. Ngược lại ngày càng vọng ngoại, cho đấy là tùy phương ứng hóa. Tuy những suy nghĩ như thế bị Ðức Thích Tôn bác bỏ, cũng không nên tiếc rẽ việc tùy phương ứng hóa, cho đó là phương tiện, dù vẫn biết phải thích ứng với hoàn cảnh để vượt qua giáo nạn, và khỏi bị diệt vong, còn cho đó là sức mạnh mà đánh mất chơn thuần của Phật pháp thì không nên.
2. Tin về Phật pháp bị tiêu diệt được loan đi, tạo nên tâm lý chán nản:
Chánh pháp trụ thế cả nghìn năm, và được truyền bởi kinh, luật từ xưa trước, lấy đó mà hình dung sự trường tồn Thánh giáo tại thế gian, chứ chẳng nên nhìn thấy việc người bị sát hại mà cho rằng chánh pháp cũng nhân đó mà bị diệt theo. Chính vì thế mà đức Phật chế định giới luật có công năng nhiếp tăng (giữ cho tăng sĩ thanh tịnh). Nhưng cũng từ giáo nạn, cổ nhân hứng khỏi niềm bi cảm mà than “Thiên niên pháp diệt”. Pháp diệt do lòng bi cảm không đồng với pháp diệt do chính đức Phật dự đoán. Bởi khi khởi niệm bi cảm như thế, thì phong cách hùng biện của Phật Giáo liền bị tiêu tan, sự suy vong không có gì nguy hơn là”tâm tử” (chết từ trong lòng), quả đúng là điều không htể nói hết.
3, Nhờ Phật tử tự lực đứng vững và cầu sự hộ pháp của vua quan từ bên ngoài:
Trước giờ người Phật tử tự coi mình rất cao đó là không cần cậy sự trợ giúp từ sức mạnh chính trị, cũng không bị câu thúc bởi sức mạnh chính trị. Nhưng sau pháp nạn, người Phật tử cảm thấy tự lực không thôi không đủ để duy trì việc hộ pháp. Mà cho rằng Phật pháp cũng cần sự ngoại hộ của các vua, quan. Nhưng tăng đoàn thanh tịnh, và Phật pháp được lưu bố là do tự lực, nhưng cũng cần có ngoại lực trợ duyên. Thánh điển chép là có thiên long hộ trì, đó là muốn nhấn mạnh: hãy tự lực đi rồi sẽ cảm đến ngoại lực. Như vậy là cần sự trợ giúp chứ không bỏ qua sự trợ giúp. Sau giáo nạn, tư tưởng hướng vào ngoại lực trợ giúp ngày càng đậm thêm, làm lộ ra sự cầu cạnh không mấy thanh cao.