Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (21)


Xem mục lục

Chương II: Thế Giới Quan Của Bà La Môn Giáo

(Đặc biệt về vật khí thế gian)

1- LỜI TỰA

Như đã nói ở trên, cơ sở của thế giới quan Phật giáo là nhân sinh quan. Cái lý do tại sao chủ ý của Phật giáo nguyên thủy có thể nói là luân lý duy tâm luận, do tâm trạng và hành vi thiện ác mà khai triển các loại thế giới cũng do đó.

Cái gọi là Tam giới chính là kết quả sản sinh từ nhân sinh quan, tức là, tùy theo trạng thái tinh thần của ta mà đặt ra những giai đoạn thiền định tu hành, và để thích ứng với điểm này, đem chia hữu tình giới thành ba thái là dục giới, sác giới và vô sắc giới, đại thể đó là cách phân loại hữu tình. Cứ theo cái danh nghĩa ấy thì toàn chỉ cho cảnh giới tinh thần, cho nên, đối với vật lý cổ truyền, dĩ nhiên nó mang một ý nghĩa rất khác.

Nhưng, giáo pháp của Phật giáo nguyên thủy đã dần dần được chỉnh lý, và cách phân loại trên không còn chỉ hạn định ở cảnh giới tinh thần nữa, mà, để thích ứng, đã nói có những thế giới đặc thù: đó là nguyên do đã từ nhân sinh quan mà khoáng trương sang thế giới quan vậy. Sự chuyển hướng này đã có rất sớm, đến Trung A Hàm, quyển 43, trong Phân Biệt Ý Hành Kinh thì cho ý nghĩa giữa tam giới của cảnh địa thiền định và tam giới của địa vị hữu tình tiên thiên là tương dồng, không có sai khác. Như vậy, vũ trụ hình thái luận của Phật giáo là kết quả của sự thống hợp giữa tam giới sống này với thần thoại không tưởng được lưu hành ở thời bấy giờ, cho đến thiên văn học và vật lý học để thuyết minh. Đương nhiên, trong tam giới, vô sắc giới là sự tồn tại tinh thần, không thuộc vật chất giới vì không có hình thái, cho nên không ở trong thế giới hiện tượng luận.

Tóm lại, đã dựa vào sinh địa để mà nói lên cái hình thái tổ chức của tam giới thì không thể không là đề mục thuộc hiện tượng luận. Do đó, trước hết cần phải bắt đầu từ vũ trụ quan thần thoại được lưu hành một cách nhất ban ở thời bấy giờ đã.

2- THẾ GIỚI QUAN CỦA VỆ ĐÀ VÀ ÁO NGHĨA THƯ

Vũ trụ quan của Lê Câu Vệ Đà hoàn toàn là vật lý. Lúc đầu chia thế giới thành Trời và Đất để quan sát, rồi dần dần lại khảo sát đến trung gian giới, và cuối cùng đã đi đến sự thành lập thuyết Tam giới. Tức là, trên cõi đất này gọi là địa giới, nơi nào có hiện tượng khí lưu thì gọi là không giới; và nơi nào có mặt trời, mặt trăng và tinh tú thì gọi là thiên giới; hay còn gọi bằng một danh từ riêng là Svar, Bhuvar, Bhùr. Tam giới này trở thành xứ sở có giai đọan, mà trong đó lấy các loại thần làm đầu và Thần được nhận là nơi y chỉ của hết thảy sinh vật.

Song, sự tưởng tượng của người ta còn đi xa hơn mà chia thuyết minh giới thành những khu biệt nhỏ hơn nữa. Trong Lê Câu Vệ Đà (R, V, VII, 87, 5) đã chia thành trời ba giai đoạn, đất ba giai đoạn, và cứ theo luận lý ấy, không cũng có ba giai đọan, đó là manh nha thuyết Tam giới cửu địa (ba cõi, chín nơi) vậy. Địa vị của các Thần và các loài hữu tình sống trong ba cõi này có cao, thấp, khác nhau, đó là cách phân loại đã phát xuất từ thuyết trên. Đương nhiên, theo chỗ tôi biết, trong các văn thư Vệ Đà vẫn chưa nói rõ chư thần và hữu tình phối hợp với tam giới, cửu địa như thế nào. Việc lấy thái dương phối với trời, lấy gió phối với không, lấy lửa phối với đất mà làm vị chủ thần thì chỉ đã manh nha trong Lê Câu Vệ Đà để rồi được thành lập vào thời đại Phạm Thư. Đến Phạm Thư hoặc Áo Nghĩa Thư thì lại chia ra tám cõi (bát giới) hay chín cõi (cửu giới) để nói rõ địa vị của các thần hoặc hữu tình. Chẳng hạn như trong Bách Đạo Phạm Thư kể có tám thần: 1. Hỏa thần, 2. Địa thần, 3. Phong thần, 4. Không thần, 5. Thái Dương thần, 6. Thiên thần, 7. Nguyệt thần, 8. Tinh thần. Lại trong Bá Lị Cáp Đức Áo Nghĩa Thư thì, phía trên cõi địa giới, kể có chín cõi là:1. Phong giới; 2. Không giới, 3. Càn Thát Bà giới, 4. Thái Dương giới, 5. Nguyệt giới, 6. Tinh giới, 7. Thiên giới, 8. Nhân Đà La giới, 9. Sinh Chủ giới. Nhìn một cách đại quan thì chư thần trong các cõi đó không có tầng bậc, nhưng trong Tam giới thì mỗi thần đều chiếm địa vị riêng, mà trung tâm là Sinh Chủ. Có thể nói đó là thế giới quan từ thời đại Phạm Thư đến thời đại Áo Nghĩa Thư.

Nhưng, cái hình thái của thế giới này như thế nào? Dĩ nhiên, vào thời đại Lê Câu Vệ Đà, vấn đề này vẫn chưa hiểu hiện một cách rõ ràng. Trên đại thể, tựa hồ nó không ngoài tưởng pháp trời che, đất chở. Trong Lê Câu Vệ Đà có chỗ ví trời đất như hai bánh xe mà trong đó có cái trục làm liên lạc, nhưng đến Bách Đạo Phạm Thư thì lại nói hình thái thế giới như con rùa và con voi. Nghĩa là, trời xanh tương đương với không giới, đất tương đương với bụng, còn trung gian tương đương với không giới. Rồi lại tiến lên một bậc nữa mà chỉnh lý là thế giới quan trong Ái Đà Lệ Da Áo Nghĩa Thư. Thuyết này cho rằng thế giới này trên dưới đều có nước bao bọc, trong đó có không (ánh sáng) và đất (chết). Song, ở thời đại cổ Bà Là Môn giáo (tức từ Lê Câu Vệ Đà đến thời đại Kinh Thư), nhưng sản vật không tưởng do đời sau sáng tạo như những thuyết về các núi, các sông và các châu, vẫn chưa phát đạt một cách rõ rệt. Danh từ Tu Di Sơn tuy đã thấy trong Suy Đề Lợi Da Áo Nghĩa Thư, nhưng nó vẫn chưa được lấy làm trung tâm để nói về hình trạng của thế giới. Về điểm này, bất luận tại đâu cũng đều như thế cả. Chẳng hạn như thế giới hình thái luận của dân tộc cổ đại thì lấy chỗ đất thực tế là nơi đang cư trú làm cơ sở, nên đối với những truyền thuyết không tưởng, luôn luôn dựa vào thực tế để quan sát rồi sau mới đúc kết. Như vậy, dĩ nhiên là đối với các nước khác, tức toàn cõi Ấn Độ, người cổ đại vẫn chưa có một dự tưởng toàn thể. Thế giới hình thái luận đại qui mô thật sự chỉ phát sinh sau thời đại đi xuống ở phía nam, biết có núi tuyết, có biển, thì lúc đó, ít ra, mới biết ngoài Ấn Độ còn có các nước khác.

3- THẾ GIỚI QUAN TÂN BÀ LA MÔN GIÁO

Thế giới quan Ấn Độ vào thời đại các học phái phát đạt đại thể có ba loại: 1) Thế giới quan Tân Bà La Môn giáo; 2) Thế giới quan Phật giáo; và 3) Thế giới quan Ky na giáo. Trong khoảng hổ tương giữa ba tổ chức này tuy có ít nhiều điểm cộng thông, nhưng cũng có chỗ bất đồng rất lớn. Bởi vì tuy cùng lấy tư tưởng cổ đại kể trên làm bối cảnh, nhưng giữa các phái cũng có cách khảo sát riêng, do đó dần dần đã đi đến chỗ bất đồng. Tựu trung, thuyết của Phật giáo đã có nhiều điểm bất đồng với thuyết của Kỳ Na và Tân Bà La Môn giáo để rồi cuối cùng đã hình thành một loại phát đạt đặc hữu. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thế giới quan của Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm được biến chế từ cái thế giới quan lưu hành ở đương thời, cho nên, muốn hiểu rõ thế giới quan Phật giáo, tất nhiên ta phải biết qua thế giới quan của Tân Bà La Môn giáo hay của Kỳ Na giáo.

Song, ở đây, vì vấn đề quá phức tạp, không thể nói hết được, nên chúng tôi chỉ có dụng ý là trình bày một cách đơn giản thế giới quan của Tân Bà La Môn giáo để tiện việc so sánh sau này mà thôi.

Nhưng tài liệu về thế giới quan của Tân Bà La Môn giáo như thế nào? Những tài liệu xưa nhất là thế giới quan trong Ma Ha Bà La Đa và thế giới quan trong Ma Nô. Kế đến là những tài liệu được chế tác trong các loại Bá Lạp Na luận về vấn đề này. Bá Lạp Na (Phạm) chủ yếu có 18 loại: 1. Đa Ca Ngõa Tha Bá Lạp Na; 2. Ba Quy Xá Bá Lạp Na; 3. Bà La Màn Đà Bá Lạp Na; 4. Bà La Man Ngõa Y Ngõa Nhĩ Tha Bá Lạp Na; 5. Đức Duy Ba Ca Ngõa Tha Bá Lạp Na; 6. Ca Nhĩ Tha Bá Lạp Na; 7. Khố Lư Mã Bá Lạp Na; 8. Lăng Già Bá Lạp Na; 9. Ma Lư Can Đề Da Bá Lạp Na; 10. Ma Ca Bá Lạp Na; 11. Phạ Đà Ma Bá Lạp Na; 12. Thấp Bà Bá Lạp Na; 13. Tư Can Đà Bá Lạp Na; 14. Ngõa Ma Na Bá Lạp Na; 15. Ngõa Lạp Cáp Bá Lạp Na; 16. Ngõa Do Bá Lạp Na; 17. Duy Tư Nô Bá Lạp Na; 18. Na Lạp Lị Da Bá Lạp Na.

Những đề tài mà tất cả Bá Lạp Na trên đều nói đến là: 1. Đại khởi nguyên của thế giới, 2. Phá hoại, tân tạo, 3. Thần Phổ luận, 4. Sự chi phối của Ma Nô (Manu) và 5. Lịch sử của các Thiên Tôn Hệ. Năm đề tài này được coi là năm tướng của các Bá Lạp Na  (nhưng trong Na Lạp Lị Da không thấy thuyết minh về thế giới quan). Các giáo phái Ấn Độ lấy Bá Lạp Na làm nền tảng để thành lập, bởi thế nó được coi là Thánh điển của Tân Bà La Môn giáo. Nhưng người ta không rõ niên đại thành lập Bá Lạp Na. Còn về tên sách thì trong Bá Lợi Cáp Đức Áo Nghĩa Thư tuy đã nói đến tên Bá Lạp Na, nhưng thời gian nào nó được trở thành định hình thật sự thì người ta cũng vẫn chưa được rõ. Theo tôi, bất luận loại nào đi nữa cũng đều được thành lập sau kỷ nguyên, vì tư tưởng nền tảng của Bá Lạp Na ta thấy rải rác khắp nơi trong cách thuyết pháp của Số luận. Nhưng từ đó trở về trước tất kinh như thế nào thì hiện nay tựa hồ chưa thể quyết định được.

A Ma La Tân Cáp bảo đặc sắc của Bá Lạp Na là ngũ tướng, nhưng A Ma La Tân Cáp này là một trong chín thứ của báu của Vương Triều Duy Khắc La Ma Lợi Tha, Uy Nhĩ Tốn nói: cốt tử của Bá Lạp Na được thành lập trước kỷ nguyên. Nhưng trong phần chú thích lại bảo điều này không đúng. Do đó, nếu bảo thế giới quan trong Bá Lạp Na là uyên nguyên của vũ trụ quan Phật giáo thì không đúng, mà phải coi vũ trụ quan Phật giáo ngang hàng với thế giới quan Bá Lạp Na mới thích đáng. Tuy nhiên, nói theo cách thức, về mặt hệ thống tư tưởng, ta vẫn có thể coi nó là tiên khu của Phật giáo. Bởi thế, ở đây, tôi tưởng nên trình bày qua về những yếu điểm của nó.

4- THẾ GIỚI KHỞI NGUYÊN LUẬN CỦA BÁ LẠP NA

Trước hết, hãy nói một cách đơn giản về thế giới khởi nguyên luận. Từ Lê Câu Vệ Đà đến Khởi Nguyên luận của Áo Nghĩa Thư, tôi đã có dịp trình bày qua, nhưng về Khởi Nguyên luận của Bá Lạp Na thì chưa lần nào đề cập đến.

Bắt đầu từ áng thơ tự sự vĩ đại là Ma Ha Bà La Đa (Mahabharata), nhất là đến Bá Lạp Na, có thể nói người ta đã lấy tín ngưỡng thông tục làm trung tâm. Tức là xuất phát từ Đa Thần giáo đương thời, người ta muốn lấy Tỳ Nữu Noa hay Thấp Bà làm cơ sở tín ngưỡng thống nhất, rồi từ đó tiến lên mà kế thừa Bà La Môn giáo cổ phong, đồng thời, ở một phương diện khác, lại muốn gây một sự cải tạo trong dân tâm. Do đó, đối với thế giới khởi nguyên luận này, trong đó dĩ nhiên cũng đã đưa ra một lập trường mới, nếu nói đến yếu tố của nó thì dự tưởng thế giới khởi nguyên luận từ thời Lê Câu Vệ Đà và lấy đó làm nền thần thoại mới: có thể nói nhiệm vụ chủ yếu của nó là kết hợp một nền triết học mới. Kết quả, trong nền thần thoại mới, Phạm Thiên đã dần dần mất thế lực mà Tỳ Nữu Noa và Thấp Bà lại chiếm địa vị ưu việt, nhất là thần thoại Tỳ Nữu Noa được ứng dụng một cách rất phổ biến. Tức là Tỳ Nữu Noa quyền hiện (avatàra) rất nhiều hình để cứu chúng sanh. Đặc biệt là về thế giới sáng tạo quan, khi Tỳ Nữu Na nhập thiền định tại Tây Sa Na Đà, thì từ rốn (rún) sinh ra bông sen, rồi từ bông sen đó sinh ra Phạm Thiên mà tạo dựng thế giới. Song, sau khi nhiều thuyết đã phát sinh nếu chỉ thuyết minh thế giới khởi nguyên luận theo thần thoại thông tục, thì không thể làm thỏa mãn tâm ý của người ta. Để bổ cứu cho khuyết điểm đó mà triết học hóa thần thoại chính là Số Luận hữu thần. Tức là, thuyết này lấy thần Tỳ Nữu Noa (cũng gọi là Phạm) làm nguyên lý tối cao, rồi dưới đó thống hợp hai nguyên lý tự tính và thần ngã, rồi từ đó mở rộng đến ngã mạn, ngũ duy, mười một căn v.v... mà tạo dựng thế giới này. Từ cuối thời kỳ Áo Nghĩa Thư đến thời đại các học phái, về mọi phương diện, tư tưởng Số Luận, tựa hồ đã chi phối tư tưởng giới Ấn Độ, và thế lực này cũng có liên hệ đến cả thế giới khởi nguyên luận của Bá Lạp Na.

Nhưng tư tưởng Số Luận và thần thoại thông tục đã được thống hợp dưới hình thái nào để mới trở thành Khai Tịch luận của Tân Bà La Môn giáo? Nghĩa là, giữa Ma Ha Bà La Đa, Ma Nô hay Bá Lạp Đa tuy có rất nhiều điểm bất đồng, nhưng lẽ tự nhiên là cũng có những quan niệm cộng thông, điều đó tưởng không cần nói ai cũng biết. Giờ tôi hãy thử trình bày Khai Tịch luận của Ma Nô và Khai Tịch luận của Tỳ Nữu Noa Bá Lạp Na như sau (căn cứ theo Hasting's Encyclopaedia of Religion and Ethics vol. IV, phương pháp. 155-161):

Pháp Điển Ma Nô chương thứ nhất, nói từ sự sáng lập thế giới đến quá trình phát sinh các chế độ xã hội. Theo thuyết này thì ban sơ vũ trụ là một thể hỗn mang, nghĩa là tất ca đều ở trong một trạng thái mờ mịt. Trong thời gian này, đấng vĩnh viễn tự tồn muốn phá tan màn hắc ám để triển khai vạn hữu, bèn trước hết từ tự thể sinh ra nước (ta có thể so sánh các thuyết như Nguyên Thủy thuyết từ thời đại Lê Câu Vệ Đà đến Phạm Thư, A Tỷ Tư thuyết của A Tỷ Luân, dự tưởng nước Tha Lệ Tư, đất Hy Bá Lai bảo từ đấng tự tồn sinh ra nước). Rồi trong nước ấy đấng tự tồn lại gieo hạt giống để trở thành quả trứng sáng chói như ánh thái dương, và trong trứng đó Phạm Thiên hiển hiện (ở đây ta có thể tưởng tượng được cái nguyên lý tối cao của thời đại Vệ Đà: sự quan hệ giữa vật chất và nhân cách thần = "vật chất → Nhân cách thần"). Phạm Thiên ở trong quả trứng vàng này trải qua một năm sau thì chia nó thành hai phần: phần trên là trời, phần dưới là đất, ở giữa là hư không, như thế là đã tạo thành tam giới. Đồng thời với sự tạo lập khí thế giới, Phạm Thiên lại muốn thành lập hữu tình giới, bèn trước hết từ tự thể tạo ra ý, từ ý tạo ra ngã mạn, rồi bắt đầu từ ngã mạn đại ngã (giác) mà tạo ngũ duy, ngũ căn, rồi lài từ ngũ duy, ngã mạn tạo nơi y chỉ của sinh mệnh, rồi sau hết từ đó tạo thành ngũ đại để hoàn thành hết thảy. Về điểm này, thuyết Số Luận tuy có chỗ rất bất đồng, nhưng tinh thần không sai biệt mấy: Đó là điêu ta cần ghi nhận. Từ đó, qua đặc chất của những tác dụng hữu tình, đã phát sinh hết thảy như núi, sông cỏ, cây cho đến Tam Vệ đà, tứ tính và và thiện, ác v.v... tôi cho rằng đây là một thuyết minh rất nhất quán.

Nhưng theo Ma Nô, hay Ma Hà Bà La Đa thì thế giới này không phải vĩnh cửu, tương tục, mà sau khi được sáng tạo, nó phải trải qua các giai đoạn tuần hoàn, biến thiên để rồi cuối cùng trở về cái trạng thái bản lai mờ mịt của nó. Điều này đến các học phái đã đề xướng cái gọi là Kiếp diệt thuyết. Về năm, tháng, theo Ma Nô, xã hội nhân gian xoay vần trong bốn thời kỳ gọi là bốn Du Dà: Khố Lợi Tha, Thoát Lợi Tha, La Ngõa Bà La và Khải Lợi. Khố Lợi Tha Du Dà đi trong thời đại hoàn toàn chính pháp, tức là Thự Quang thời đại (thời kỳ rạng đông – 400 năm), Bản Kỳ thời đại (4,000 năm), Hoàng Hôn thời đại (400 năm) tổng cộng 4,800 năm, lúc đó người thọ 4000 tuổi. Thoát Lợi Tha Du Đà thời đại chỉ còn ba phần tư chính pháp, thêm Thự Quang và Hoàng Hôn nữa thì kéo dài được 3,600 năm; thời đại này người thọ 3,000 tuổi. La Ngõa Ba La Du Dà là thời kỳ chính pháp chỉ còn hai phần tư, kéo dài 2,400 năm; người thọ 2,000 tuổi. Sau hết đến khải Lợi Du Dà là thời kỳ chính pháp chỉ còn lại một phần tư, tức là chính pháp thời bấy giờ kéo dài 1,200 năm; tuổi thọ của người vào thời kỳ này không còn nhất định. Cứ như thế khi thời kỳ Khải Lợi Du Dà kết thúc thì cuộc tuần hoàn lại trở lại bắt đầu từ Khố Lợi Tha Du Dà và xoay vần như cũ (về niên số của Du Dà, tham chiếu Wilsons Visnu Puràna Vol. 1, pp. 50-54 Note). Ở đây chúng ta có thể liên tưởng đến bốn thời kỳ của Ân Tỳ La Khố Lợi Tư (1- Duy Ái; 2- Tăng Sinh; 3- Duy Tăng; 4- Ái Tái Sinh).

Song, đến thời kỳ tuần hoàn nào thì thế giới băng hoại theo Ma Nô, cứ bốn Du Dà của nhân gian, nghĩa là 12,000 năm (tức 4,800 + 3,600 + 1,200 = 12,000) là một Du Dà của các thần. Một nghìn Du Dà này, và cứ theo công thức trên, thêm lên một nghìn nữa là một ngày của Phạm Thiên. Một ngày ở đây chỉ kể ban ngày mà thôi. Lúc đó Phạm Thiên ngưng mọi hoạt động mà nghỉ đêm, ấy là kiếp diệt. Như vậy, chỉ trong một đêm, thế giới chìm trong cảnh tối tăm, và sau đó Phạm Thiên lại tiếp tục hoạt động: ấy là sự tái tạo của thế giới (Deussen, Allgemeine Geschte der Philosophie I,3, ss. 45-47).

Thuyết trên đây tuy do sự hoạt động một ngày một đêm ở nhân gian mà tưởng tượng ra, nhưng nếu đặt nó vào căn để của lý luận, thì tôi cho rằng nó muốn điều hòa giữa sự sáng tạo thế giới và luân hồi vô tận. Tại sao? Vì thuyết sáng tạo thế giới ngay từ thời đại Lê Câu Vệ Đà đã được quy định rồi, bỏ đi không thể được, nhưng nếu thế thì luân hồi vô tận không thể thành lập được, cho nên phải điều hòa nó để tỏ rằng không ngoài thuyết tuần hoàn. Nhưng, đứng về mặt sự thực mà nói thì thuyết này là do sáng kiến của các nhà tìm tòi nghiên cứu Ma Ha Bà La Đa, hay là sản phẩm của các học phái khác? Vấn đề này vì không thể phán định ngay được, nên cần phải có sự nghiên cứu tinh xác nữa. Tuy vậy, điều ta cần ghi nhận là, bất luận từ đâu đến, thuyết này, dưới nhiều hình thái, từng đã chi phối toàn thể tư tưởng giới Ấn Độ.

Trên đây là Khai Tịch luận của pháp điển Ma Nô, còn Khai Tịch luận của Bá Lạp Na thì thế nào? Khai tịch luận của Bá Lạp Na tuy là đại đồng tiểu dị, nhưng ở đây tôi cũng xin trình bày những điểm cương yếu, căn cứ theo Khai Tịch luận của Tỳ Nữu Nô.

Đấng Tự Tồn dĩ nhiên là duy nhất, thế nhưng cũng lại triển khai ra ba loại yếu tố lớn là: thần ngã, tự tính và thời. Thần ngã là nguyên lý tinh thần; tự tính là nguyên lý vật chất; còn thời là nguyên lý kết hợp cả hai. Do thời kết hợp cả hai, nên khi đấng Tự Tồn tự nhập vào trong, thì từ tự tính triển khai giác, ngã mạn, ngũ đại và mười một căn. Khi ngũ đại triển khai rồi lại kết hợp với nhau mà thành Phạm Noãn (trứng Phạm = khí thế giới), đứng trên nước, nhờ có nước, lửa, gió, không, ngã mạn, giác, tự tính mà đứng vững. Đấng Tự Tồn tự thành hình Phạm Thiên, rồi do đức lo mà tạo vạn vật, do đức mừng lấy Tỳ Nữu Noa mà bảo tồn, và cuối đức tối lấy Lỗ La Lạp mà phá hoại, tức là kiếp diệt.

Ta có thể thấy thuyết này tuy đại thể cũng tương tự như thuyết Ma Nô, hay Ma Ha Bà La Đa, nhưng đã để lộ sắc thái tôn phái, vả lại muốn điều hòa mọi tư tưởng: có thể nói đây là điểm xuất sắc ban (Allegemeine Géschichte der Philosophie I, 3, SS. 38-47; Hasting's Encycleopadia of Religion and Cosmology by Jacobbbi; Wilson's Visnu Puràna IV, 30).

5- DIÊM PHÙ ĐỀ CHÂU

Thứ đến là cái hình thái của vũ trụ được thành lập như thế nào? Tức cũng là vấn đề thế giới hình tượng luận như thế nào?

Theo Bá Lạp Na thì trong không gian vô hạn này có vô hạn tổ chức vũ trụ. Gồm tất cả tổ chức này lại gọi chung một tên là Phạm Noãn. Nghĩa là, phát sinh luận Phạm Noãn về phương diện hình thái luận, cũng có thể được dùng một cách uyển chuyển. Song, điểm chủ yếu của Bá Lạp Na không phải luận cứu tất cả những tổ chức vũ trụ vô hạn mà là lấy một tổ chức trong số đó, tức là hình thái vũ trụ trong đó chúng ta đang sống làm mục đích luận cứu. Lý do là tất cả vũ trụ, bất luận loại nào, đều là một tổ chức đồng nhất. Theo ý nghĩa ấy, ta có thể hiểu Phạm Noãn là một vũ trụ.

Phạm Noãn, như đã nói ở trên, được bao quanh bằng những vòng đai nước, lửa, gió, không, ngã mạn, đại (giác) và tự tinh. Lớp dày của nó dần dần được tăng tên gấp mười. Xem biểu đồ ở dưới:

 

 

Nghĩa là tự tính, ngã mạn hỗn hợp với Phạm, không, gió, lửa, và đất do Áo Nghĩa Thư phát triển, và gọi cái hình thái đồng thời tồn tại của tất cả yếu tố là vũ trụ quan.

Nhưng trung khu bộ từ bộ phận nào mà được thành lập? Thông thường chia nó thành Bá Lỗ, Ngõa Tư, Tư Ngõa Lỗ, Mã Cáp Lỗ, Ca Na Tư, Tha Ba Tư và Tát Đỏa Dạ Ma gồm bảy tầng, tức là thế giới từ cõi đất này trở lên. Tựu trung, Bá Lỗ, Bá Ngõa Tư, Tư Ngõa Lỗ, ở thời đại Phạm Thư đã được gọi là Thiên, Không, Địa tam giới; cho đến Thái Cơ Lợi Da, A Nan Da Dà, rồi lại thêm Mã Cáp Lỗ, Ca Na Tư, Bá Lạp Na lại dùng hình thức này để nói rõ sự khu biệt về địa vị của chư Thiên. Đối lại với bảy cõi trên cõi đất còn có bảy cõi dưới cõi cõi đất. Đó là trụ xứ của Ba Tha Lạp, tức A Tu La, rồi dưới nữa là địa ngục. Bảy cõi của Ba Tha Lạp là: A Tha Lạp, Duy Tha Lạp, Tư Tha Lạp, Tha Lạp Tha Lạp, Mã Cáp Tha Lạp, Lạp Tát Tha Lạp và Ba Tha Lạp. Nếu nói rõ tất cả các cõi này một cách chi tiết thì rất phiền tạp, cho nên ở đây tôi chỉ đề cập đến những điểm trọng yếu mà thôi.

Cõi đất mà chúng ta ở đây dĩ nhiên là cõi Bá Lỗ (Bá Lỗ giới) và được thành lập từ bảy châu, bảy biển, và bất luận loại nào, đều là trạng thái vòng tròn. Xem đồ biểu trang ở dưới:

 

 

Tự trung Diêm Phù Đề châu là trung tâm của bảy châu và được bao bọc bởi biển La Ngoã Nô Lạp (Lavanodà). Châu này bao hàm toàn châu Ấn Độ thời bấy giờ. Vì Bà La Môn giáo cũng như Kỳ Na giáo đềư coi toàn Ấn Độ là trung tâm của thế giới. Điểm này có khác với Phật giáo, vì Phật giáo cho núi Tu Di là trung tâm, còn Diêm Phù Đề chỉ là một trong bốn châu và ở về phía Nam mà thôi. Đường trực kính của châu Diêm Phù Đề là mười vạn do tuần, chu vi ba mươi vạn do tuần (Phật giáo thì nói trực kính hai nghìn do tuần, và chu vi sáu nghìn do tuần - Lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 2, Đại chính 32, trang 179, hạ). Đông, Tây chạy đều nhau và do sơn mạch lại chia thành bảy nước. Đó là: 1) Ba Lạp Tha (núi: Hi Ma Ngõa Đà); 2) Kim Bá Lỗ Sa (núi: Hải Mã Khố Tha); 3) Cáp Lợi Ngõa Lỗ Sa (núi Nị Sa Lạp); 4) Đông – Ba Độc Lập Tư Ngõa; Trung – Y Lạp Ngõa Lỗ Tha (núi: Nị Lạp); và Tây - Khắc Tư Mã lạp; 5) Nam Đa Dà (núi: Tư Duy Tha); 6) Hi Thương Mã Da (núi: Tú Đốn Tạp Ngõa Tha); 7) Trung tâm địa của Ưu Đa La Khố Ộ Bà La Môn, lấy Bát Lạp Đà (ở phía bắc Kim Đề Lợi) làm trung tâm, xem đồ biểu ở dưới:

 

 

Sự phân loại trên đây, một phần căn cứ vào sự thật, một phần do theo tưởng tượng mà thành toàn cõi Ấn Độ.

Giờ hãy nói về đặc sắc của các nước. Bát Lạp Đà là nước trong đó thiện, ác, hỗ tương giao tạ, để thích ứng với điều này, thọ mệnh hay quả báo cũng có sai biệt: đó là đặc sắc của nước này.

Thứ đến là nước Kim Bá Di Sa, nước này chạy dài giữa khoảng núi Hi Mã Ngõa Dộc và núi Hải Mã Khố Tha. Người trong nước ăn trái (quả) Bá Lạp Khố Tha, không đau ốm, thợ một vạn tuổi. Con trai thì sắc vàng, con gái thì như A Bá Sa Lạp Tư. Căn cứ theo Bà Tạp Ngõa Tha Bá Lạp Na thì Tỳ Nữu Noa ở nước này, thủ hình Lạp Mã và được Cáp Nô Mã Tha tôn kính.

Thứ ba là Cáp Lợi Ngõa Nhĩ Sa, ở giữa khoảng núi Hải Mã Khố Tha và Nị Sa Lạp.Dân cư trong nước này đều từ thần giới xuống. Sống bằng mía ngọt, và thọ một nghìn tuổi, không có bệnh tật và già yếu. Tỳ Nữu Noa ở đây và thủ hình Nô Lộ Tây mã. Và đây cũng là trụ xứ của quỷ thần như Lạp Na Ngõa hay Thái Đà Da v.v...

Thứ tư là Y Lạp Vũ Lợi Tha ở trung tâm châu Diêm Phù Đề; tức Nam, Bắc, ở vào khoảng giữa núi Nị Xa Tha và núi Nị Lạp, Đông, Tây thì ở giữa khoảng núi Mã Nhĩ Ba Ngõa Tha và núi Á Tha Mã Lạp Na. Núi Mê Lư ở chính giữa, cao mười vạn do tuần (từ đất trở lên, 84,000 do tuần, từ đất trở xuống, 16,000 do tuần). Đường trực kính dưới chân núi là một vạn sáu nghìn do tuần, và trên đỉnh núi là ba vạn hai nghìn do tuần. Bốn Châu Tu Di là bốn phương của nước Y Lạp Vũ Lợi Tha, thứ tự như sau: phương Bắc có Ưu Đa La Khố Nhĩ, phương Nam có Ba La Tha, phương Đông có Ba Đà La Tây Ngõa, và phương Tây có Khải Tư Mã Lạp (nhưng trong Mbh. VI, 226, Padma P, III , 3, 49, thì bảo phương Nam là Diêm Phù Đề, điểm này tương hợp với Phật giáo Kirfel; Die Kosmographie der Inder S. 93). Chung quanh núi Tu Di có bốn ngọn núi, mỗi ngọn cao một vạn do tuần. Phía Đông là Mạn Đa Lạp, phía Nam là Á Tha Mã Lạp Na, hay, Mê Lư Mạn Đa La, phía Tây có Tỳ Bá lạp, và phía Bắc là Tư Ba Nhĩ Tư Ngõa. Trên đỉnh của bốn ngọn núi này có bốn cây đại thụ đại biểu cho mỗi núi, mỗi cây cao một nghìn một trăm do tuần. Tức ở phía Đông là Khải Nam Lạp, phía nam là Khương Bá, phía Tây là Tỳ Ba La, và phía Bắc là Ngõa Tha; châu này gọi là Diêm Phù Đề là đặt theo tên cây của ngọn núi phía nam (danh từ Khương Bá có rộng, hẹp khác nhau; tư tưởng thời kỳ đầu thì nói nó ở phía Nam Tu Di, còn tư tưởng ở thời kỳ sau này thì nói toàn thể là Khương Bá. Ở đây có thể so sánh với danh xưng của Đại Hòa).

Chính giữa ngọn núi Tu Di là thủ đô của Phạm Thiên, rộng một vạn bốn nghìn do tuần; chung quanh thủ đô này có tám vị thần cthủ hộ, và mỗi vị thần đó lại có thủ đô riêng. Tức là: phương Đông có thần Nhân Đà La, kinh đô là là thành A Mã Lạp Ngõa Cơ; phương Đông Nam, thần A Cô Nị, thành Đề Kiêu Ngõa Cơ; phương nam, thần Da Mã, thành Tham Da Mã Nị, phương Tây Nam, thần Vũ Y Lộ Ba Khố Sa, thành Khố Lộ Tư Nam Á Na; phương Tây, thần Ngõa Lộ Na, thành Tú lạp Ngõa Cơ; phương Tây bắc, thần Ngõa Du, thành Cam Lạp Ngõa Cơ; phương bắc, thần Tô Ma, thành Da Tẩu Ngõa Cơ. Tóm lại, nước Y Lạp Duy Lợi Tha là địa phương có núi lớn nhất trong châu Diêm Phù Đề, lấy Phạm Thiên làm trung tâm, và lấy chỗ ở của thần minh thủ hộ thế giới làm đặc sắc.

Lại ở phía Đông và phía Tây nước Y Lạp Duy Lợi Tha còn có nước Ba Lạp Tú Ngõa (Đông) và nước Hải Tự Mã lạp (Tây). Đặc sắc của nước Ba Lạp Tú Ngõa ở chỗ dân cư tuy có nhiều giống, nhưng bất luận giống nào đều có đức hạnh tự nhiên, không biết có sự phân biệt pháp và phi pháp là gì. Người thọ một vạn tuổi, không có tai họa và luôn luôn tươi trẻ. Tỳ Nữu Noa ở đây và được tôn kính dưới hình thái mã đầu. Còn nước Hải Tự Mã lạp ở phía Tây cũng có nhiều giống dân; con trai sắc đẹp, con gái thì sắc xanh nhạt. Người cũng thọ một vạn tuổi. Ở đây Tỳ Nữu Noa thủ hình thái Tạp Mã Thiên.

Thứ năm là nước Lạp Mật Đa Khải, ở khoảng giữa Ni lạp và núi Tú Vệ Đà. Dân cư giàu có sung sướng, sống một vạn một nghìn năm trăm năm. Tỳ Nữu Noa thủ hình mã Tự Da.

Thứ sáu là nước Tỷ Nam Mã Da, ở khoảng giữa núi Tú Vệ Đà và núi Tú Lâm Tạp Ngõa Độc. Tại đây có sông Tỷ Nam Ngõa Cơ, hoa sen đầy sông, dân chúng khỏe mạnh, giàu có; sống lâu một vạn hai nghìn năm trăm tuổi. Ở đây Tỳ Nữu Noa cũng dùng hình Ma Lộ Mã để chi phối.

Thứ bảy là Ưu Đa La Câu Lư, tức Bắc Câu Lư Châu (Ái Lạp Ngõa Tha), ở phía Bắc núi Tú Lâm Tạp Ngõa Độc. Trong số bảy nước, nước này là một tiên cảnh lớn nhất, có hai ngọn núi Nguyệt Quang Huy và Nhật Quang Huy, ở giữa là sông Ba Đà lạp Tẩu Mã. Tất cả sông ngòi đều tràn đầy sữa và mật lai láng, gió thoảng hương đưa đất toàn bằng ngọc quý, cát bụi cũng là vàng ròng. Đây là nơi tái sinh của những người đã rời bỏ thiên quốc, vợ chồng cùng sinh một lúc, cùng một tư thái, cùng một tính cách, và khi chết, cũng cùng chết một lúc. Sống lâu 14,500 tuổi. Trong thời gian đó hoàn toàn hạnh phúc, không có bệnh hoạn, không có tội ác (có điểm tương tự như truyền thuyết của Phật giáo). Ở đây Tỳ Nữu Noa thủ hình Mã Tư Da (trở lên, theo Kirfel, Die Kosmographie der Inder S. 5700).

Trên đây là sự quan sát đại thể về châu Diêm Phù Đề. Nó là kết quả được tạo thành bởi sự khảo sát kỳ quái về địa lý trộn lẫn với thần thoại không tưởng: điều này tưởng không cần nói ai cũng biết.

6- SÁU CHÂU KHÁC

Thứ bốn, tình hình của sáu châu kia như thế nào? Đến đây lại càng không tưởng nữa, vả lại, cực kỳ phức tạp, cho nên chỉ có thể đề cập đến một cách nhất ban, chứ không thể đi sâu vào từng chi tiết được. Duy có điểm hơi thú vị là thuyết nói về cái biển Lạp Ngõa Nhu Lạp bao vây châu Diêm Phù Đề này. Theo thuyết đó thì nước biển Lạp Ngõa Nhu Lạp Mặn, và trong biển có rất nhiều đảo. Tựu trung hòn đảo cách Ba Lạp Tha về phía Nam 10,000 do tuần là hòn đảo hiển trứ nhất. Tại đảo này có nhiều ngọc qúy, dân cư sắc đen và rất sung sướng. Tôi cho rằng đây là tưởng tượng về đảo Tích Lan, hoặc Qua Oa, Tô Môn Đáp Lạp hiện nay. Theo Bá Lạp Na thì Lan Tạp, tức đảo Tích Lan, là đảo phụ thuộc của châu Diêm Phù Đề, do đó, giữa Tích Lan thực tế và Tích Lan tưởng tượng, có thể nói không có sự khu biệt. Cũng trong biển này, về phía Bắc của Bắc Câu Lư châu có một đảo Khương Đà Lạp Ta Ngõa Ba (Nguyệt châu) là nơi cư ngụ của mặt trăng, vì là trên trời nên đặt tên như thế. Mặt trăng lấy đấy làm chỗ nghỉ ngơi. Nhưng, như sau đây sẽ nói, đứng trên lập trường, thiên văn học mà khảo sát, thì mặt trăng so với Thái dương vẫn cao hơn, cho nên lấy Nguyệt châu làm chỗ nghỉ ngơi của mặt trăng chẳng qua chỉ là bảo tồn một loại truyền thuyết mà thôi.

Lấy biển Lạp Ngõa Nhu Lạp này làm khởi điểm, nằm ở phía ngoài cùng là châu Bá Tư Tạp Lạp Đà Duy Ba, ở phía ngoài biển Khố Tây La Lạp, và ở phía trong biển Tư Ngõa Lỗ Lạp Tạp (nước ngọt). Trong châu này có núi Mã Na Tô Đà Lạp, cao năm vạn do tuần, quốc nội được chia thành hai phần. Dân cư đều bình đẳng, không có bốn giai cấp khác nhau; không có ưu, bi, khổ, não; Vệ Đà, luân lý, chính trị: tất cả đều không có. Người thọ một vạn tuổi. Có cây Ni Câu Lư Đà trên đó Phạm Thiên cư ngụ, một mặt được chư thần sùng bái, một mặt bảo hộ nhân dân. Lại có núi Na Mã Na Tô Lạp Đà là trụ xứ của bốn thần thủ hộ: phương Đông thần Nhân Đà La (Đế Thích), kinh đô gọi là Ngõa Tư Ngõa Vũ Tạp Sa Lạp, hoặc là A Mã Lạp Ngõa Cơ; phương Nam là thần Da Mã, kinh đô là Tham Da Mã Ni; phương Tây là Ngõa Lỗ, kinh đô là Tư Tạp, hoặc là Ma Hạ, phương Bắc là Tô Mã, kinh đô là Duy Lạp Ngõa Lợi.

Nước này là châu cuối cùng của vũ trụ. Biển Tư Thái Tư Lạp Tạp bao quanh châu này và là chung kết của thế giới. Nhất là trong biển Nước ngọt tuy có đảo làm bằng hoàng kim, nhưng xa mặt trời mặt trăng quá, nên không có người ở.

Vũ trụ này là hình tròn lớn, có năm ức do tuần đường trực kính, được bao bọc bởi bảy châu, bảy biển và lấy châu Diêm Phù Đề làm trung tâm: đó là ý kiến của Bá Lạp Na.

7- KHÔNG GIỚI VÀ THIÊN GIỚI

Trở lên mới là đại quan về địa giới, nhưng còn không giới, tức khí lưu giới, thì thế nào? Theo Ngõa Tạp Ngõa Thà Bá Lạp Na thì địa phương từ Thái Dương trở xuống một nghìn do tuần là không giới, gồm Da Cổ Sa, Lạp Ma Sa, Tỳ Sa Khâu, Bá Lệ Tha và Bá Tha. Nhưng trong Bá Lạp Na không nói rõ về cõi này, vì hình thái của nó không được rõ ràng lắm.

Điều mà các Bá Lạp Na nói rất rõ là Thiên giới, tức là ký sự về Nhật, Nguyệt, Tinh Thần v.v... Theo Bá Lạp Na thì độ cao của Nhật, Nguyệt, Tinh Thần không phải nhất luật; thấp nhất là Thái dương, cao nhất Bắc cực, trong đó đại ước còn nói về Nguyệt cầu, Thất tinh và Nhị thập bát tú v.v.... Giờ xin biểu thị sự sai biệt về độ cao của Nhật, Nguyệt, Tinh Thần như sau:

Thái dương cách trái đất mười vạn do tuần; mặt trăng hai mươi vạn do tuần; Hằng tinh ba mươi vạn do tuần; Thủy tinh năm mươi vạn do tuần; Kim tinh bảy mươi vạn do tuần; Hỏa tinh chín mươi vạn do tuần; Mộc tinh một trăm vạn do tuần; Thổ tinh một trăm ba mươi vạn do tuần; Đại hùng tinh một trăm bốn mươi vạn do tuần; Bắc cực tinh một trăm năm mươi vạn do tuần.

Theo Bá Lạp Na thì trong những hiện tượng thiên thể này là nơi ở của các loài hữu tình,  đặc biệt là của các thần. Chẳng hạn như Nhật, Nguyệt và hành tinh được chở trong xe do ngựa hoặc thần kéo: dĩ nhiên đây  là sự quan sát cực ấu trĩ. Tuy nhiên, nếu giả định cho đây là một loại thiên văn học cổ xưa để quan sát, và đứng trên lập trường văn minh sử mà nhận xét, thì những quan điểm trên đây đích thực là một thuyết minh rất nhiều thú vị.

8- NĂM VÀ GIỜ LẤY THÁI DƯƠNG LÀM TRUNG TÂM

Trước hết hãy nói về Thái dương. Như đã trình bày ở trên, Thái dương là một viên thể có đường kính chín nghìn do tuần và cách cõi đất mười vạn do tuần. Nó gồm hai bánh xe, chiều dài một nghìn chín trăm bảy mươi vạn do tuần, ngắn bốn vạn năm nghìn năm trăm do tuần. Theo Bá Lạp Na thì trong bánh xe ấy có mười hai vị thần mặt trời là nguồn gốc phát ra ánh sáng. (trong Thái dương có mười hai vị Nhật thần, mười hai vị Mâu Ni, mười hai vị tiên, mười hai Càn Thát Bà, mười hai A Bá Sa Lạp Tư, mười hai Ma Lạp Mã Ni, mười hai con rắn và mười hai La Sát).

Thái dương này lấy núi Tu Di làm trung tâm, từ phương Đông xoay quanh qua phương Tây và lấy đó là nguyên nhân của ngày, đêm. Tức là núi Tu Di làm trung tâm thì thuận tự sẽ là: giữa trưa ở châu phương Nam là lúc mặt trời mọc ở châu phương Tây, nửa đêm ở châu phương Bắc là lúc mặt trời lặn ở châu phương Đông. Về tên các châu tuy khác nhau, nhưng sự giải thích của Phật giáo về điểm này cũng tương đồng (Câu Xá quyển 11).

 

 

Tại Ấn Độ, ngày đêm được chia thành ba mươi Mâu hô lật đa. Mỗi Mâu hô lật đa là 1440:30 = 48 phút. Trong mỗi Mâu hô lật đa, Thái dương đi được ba trăm mười lăm vạn do tuần. (tính đến chu vi núi Mã Na Tư thì là chín nghìn bốn trăm năm mươi vạn do tuần).

Nhưng, về sự dài, ngắn của ngày, đêm và sự bất đồng của bốn mùa thì tính như thế nào? Theo Bá Lạp Na thì Thái dương lấy núi Tu Di làm trung tâm, tuy xoay theo một đường tròn nhưng đường đó chưa hẳn đã là đồng nhất. Tất cả có 180 đường mà thứ tự của chúng so với núi Tu Di thì cách xa. Lấy  núi Tu Di làm trung tâm,Thái dương đi 180 vòng trên một đường hình trôn ốc. Khi đường này gần  núi Tu Di nhất thì tại Ấn Độ, tức nước Ba Lạp Tha, gần Thái dương nhất, và lúc đó là hạ chí, thời gian ban ngày là 18 Mâu hô lật đa, ban đêm có 12 Mâu hô lật đa. Từ đây ban ngày, so với  núi Tu Di, Thái dương vẫn xa, đến chín mươi ngày thì ngày đêm bình phân, và lúc đó là ngày thu phân. Khi đến đường thứ 180 thì Thái dương cách xa nước Ba Lạp Na nhất, và lúc đó là đông chí, ngày có 12 Mâu hô lật đa và đêm cũng 12 Mâu hô lật đa. Tháng đó là tháng Mã Ca, tương đương với tháng giêng, tháng hai. Cuộc hành trình gọi là Nam đạo. Đến ngày thứ 181 thì gọi là Bắc đạo, tức là cuộc hành trình của Thái dương dần dần xích lại gần  núi Tu Di. Đến ngày thứ 270, hay khi trở lại đến ngày đêm bình phân, là ngày xuân phân, rồi đến ngày thứ 360 mà lại trở lại đến hạ chí thì, đến đây, đã hoàn thành một năm.

Do đó, ở đây vấn đề được đặt ra là: Thái dương, nếu trong khoảng nửa năm, mỗi ngày xoay quanh một đường tròn bán kính khác nhau, do mùa, tiết mà ngày, đêm dài ngắn khác nhau thì còn có lý, chứ đàng này thì thường nhất định là 30 Mâu hô lật đa, mà tại sao cũng cùng lấy  núi Tu Di làm trung tâm tròn mà xoay vần? Và tại sao không những do đường bán kính mà ngày đêm có thể chia thành bình phân, mà còn do nơi mùa, tiết mà ngày đêm có dài ngắn khác nhau? Về vấn đề này, tác giả của Bá Lạp Na bảo rằng, để thích ứng với sự bất đồng của bán kính mà tốc độ của Thái dương cũng có sự bất đồng; bởi thế, cũng là 30 Mâu hô lật đa, lấy đó làm một vòng, nhưng không có sự khu biệt về thời gian. Có sự bất đồng về ngày đêm là vì: khi Thái dương đi về Nam (tức về phương diện xa dần) thì ban ngày đi nhanh, ban đêm đi chậm, nên đêm dài; trái lại, khi đi về Bắc, thì ban ngày đi chậm, ban đêm đi nhanh, cho nên dần dần ngày trở nên dài. Nhưng về điểm này, đối với sự tự chuyển, công chuyển của địa cầu, cái trạng thái đường quỹ đạo của nó vẫn chưa được biết, vậy mà tưởng định ra giờ giấc thì đó chẳng qua chỉ là sự giải thích bất đắc dĩ mà thôi, và như thế, dĩ nhiên nó cũng là một sự thuyết minh rất lỏng lẻo. Bởi thế, vì sự sai biệt về mùa, tiết mà có lạnh, ấm khác nhau, thay vì cho đó là do sự bất đồng về khoảng cách của Thái dương, thì Bá Lạp Na lại đứng về mặt thần thoại mà bảo rằng đó là do tính chất của các vị thần chi phối mặt trời mà có.

Sau đây xem đồ biểu theo Khắc Lỗ Bái Lỗ, căn cứ vào Phạm Thư và Ba Tạp Ngõa Tha Bá Lạp Na:

Hiện nay

Tháng

Àditya

Nhiệt lượng

1-2 (tháng)

2-3

3-4

4-5

5-6

6-7

7-8

8-9

9-10

10-11

11-12

12-1

Màgha

Phàlguna

Caitra

Vaisàkha

Jyaistha

Àsàdha

Sravana

Prausthapada

Àsvayuja

Kàrtlika

Màrgasirsa

Pausa

Varuna

Pùsan

Amsu

Dhàtr

Indra

Savitr

Vivasvat

Bhaga

Parjanya

Tvastr

Mitra

Visnu

5000 Sirira (rất lạnh)6000        "           "

7000 Vasanta (xuân)

8000        "           "

9000     Gnisma

10000        "

11000     Varsa

10000         "

9000     Sarad

8000         "

7000     Hemanta

6000           "

9- MẶT TRĂNG VÀ CÁC VÌ SAO

Thứ đến là mặt trăng và các vì sao chủ yếu: mặt trăng cách trái đất hai vạn do tuần, cao gấp đôi mặt trời; đường kính của mặt trăng là một vạn tám nghìn do tuần, cũng gấp đôi Thái dương. Nhưng qũy đạo đó ngắn nhất trong các thiên thể: chỉ có 28 ngày là một vòng.

Theo Bá Lạp Na thì sự tròn, khuyết của mặt trăng là: bạch phân (tức là quá trình dần dần thành thể tròn), là lúc quá trình ánh Thái dương uống nước cam lộ từ Tư Tú Na, ngày thứ 28 (ngày 15 AL) là ngày tròn đầy. Khi ấy có nhiều thần (36,333 thần) đến uống nước cam lộ, đó là bắt đầu hắc phân, tại Ấn Độ lấy đó làm đầu tháng, vì các thần uống cam lộ nên mặt trăng dần dần khuyết đi, và cuối cùng chỉ còn lại một phần mười sáu (gọi là tạp lạp) thì các thần đi hết. Lúc đó, tổ tiên mới đến để uống một phần còn lại, và đến 14 thì hoàn toàn đi vào quỹ đạo mặt trời ở trong quang tuyến A Mã, do đó, ẩn trong nước một ngày một đêm. Tiếp sau, mầm cây sinh ra cánh, đi trong Thái dương rồi lại uống nước cam lộ như trước, tức lại trở về bạch phân.

Trong khoảng 28 ngày, khi mặt trăng đi vòng quanh một vòng, qua ccái gọi là nhị thập bát tú. Đây tức là các vị sao. Bắt đầu từ cuối thời đại Vệ Đà (như Atharva Veda XIX, 7,1. Kàthaka Samhità XXXIX, 13. Taittirìyabramana 1,5,1 ... tham chiếu Kirfel, Die Kosmographie der Inder S. 36), thuyết tinh tọa đã trường kỳ chi phối Ấn Độ, kể cả trong Phật giáo. Tinh tọa, tức tinh diệu, có 27 hay 28, do một hoặc nhiều tinh tọa hợp thành. Xin kể những tên như sau:

1. Mão; 2. Tất; 3. Tuy; 4. Sâm; 5. Tỉnh; 6. Quỷ; 7. Liễu; 8. Tinh; 9. Trương; 10. Dực; 11. Chẩn; 12. Dốc; 13. Cáng; 14. Thị; 15. Phòng; 16. Tâm; 17. Vĩ; 18. Kỳ; 19. Đẩu; 20. Ngưu; 21. Nữ; 22. Hư; 23. Nguy; 24. Thất; 25. Bích; 26. Khuê; 27. Lâu; 28. Vị.

10- THIÊN GIỚI (phần 2)

Trở lên mới chỉ là đại thể của Tư Ngõa Lỗ Đà Tạp. Từ đây trở lên nữa, còn thích ứng với công đức của người cư trụ mà chia thiên giới thành các cõi như: Mã Cáp Lỗ Đà Dà, Đa Na Lỗ Đà Dà, Tha Ba Đà Dà, Sa Cơ Da Lỗ Dà v.v... Tựu trung, Mã Cáp Lỗ Đà Dà là trụ xứ của những người ở kiếp trụ, Dà Na Lỗ Đà Dà là chỗ ở của các con Phạm Thiên, như Sa Nan Đà Na v.v... Lại theo Tú Bá Lạp Na thì các nhà hiền triết của Số Luận như Ca Tỳ La, A Tư Lợi, Nga Túc, Bang Ca Thi Dà v.v... cũng ở cõi này. Đây đại khái có nghĩa là cõi tịnh độ của những người giải thoát ở. Tha Ba Đà Dà, theo Lâu Ca Bá Lạp Na là Sa La Cá Ba Ca Lạc Dà, người ở cõi này thân dài tám nghìn vạn do tuần. Sau hết là Tát Ca Lạc Dà; đây là Phạm Thiên giới, sinh vào cõi này không còn phải chết nữa, thân dài bốn ức tám nghìn vạn do tuần (48koti), duy chỉ là những người Bà La Môn đã được chân trí.

Còn điều nữa nên chú ý là: căn cứ theo phần chú thích kinh Du Dà của Da Xá thì: 1. Nhĩ Lạc Ca, 2. An Đa Nhã Xá Lạc Ca, 3. Mã Đàm Đà Lạp Lạc Ca, 4. Bá Lạp Xá Ba Già Lạc Ca,5. Dà Na Lộ lạc Ca, 6. Tha Ba Lạc Ca, 7. Tát Già Lạc Ca gọi là thất giới (bảy cõi). Lại theo phần chú thích Du Dà Tát Đa Khương Đa Lợi Ca của Bá Đa Na Cơ Lợi Tha thì vị thần ở cõi thứ tư Bá Lạp Xá Ba Dà Lạc Ca là A Di Đà Bá: đây là điểm rất đáng chú ý khi nghiên cứu thần thoại Di Đà trong Phật giáo.

Lại nữa, thế giới quan trong phần chú thích kinh Du Dà và thế giới quan Phật giáo có chỗ tương tự; đây cũng lại là điểm có giá trị về mặt nghiên cúu. Tức như trong Dà Na Lỗ Đà Ca Lập Phạm phụ thiên, Phạm chúng thiên; rồi trong Ta Ba Lạc Ca thì Quang âm thiên chính là điểm đó (tham chiếu Kirfel, Die Kosmographie der Inder ss. 142-143).

11- HẠ GIỚI

Về thượng giới, đại thể đã được trình bày qua như trên, sau đây ta hãy đề cập đến hạ giới, tức nói về Ba Tha Lạp.

Như trên đã nói, Ba Tha Lạp (có nghĩa là rơi xuống) gồm có bảy tầng là: A Tha Lạp hay Tha Lạp, Duy Tha Lạp, Ni Tha Lạp, Tư Tha lạp, Tha Lạp Tha Lạp, Lạp Tát Tha Lạp và Mã Cáp Tha Lạp. Mỗi tầng này lấy một nghìn do tuần ngoài vỏ cõi đất làm cảnh, tổng cộng là bảy vạn do tuần. Tất cả tầng này đều là chỗ ở của A Tu La, La Sát và Rồng v.v... Những đô thị trong đó có thể nói cũng trang nghiêm như ở Thiên quốc. Về địa vị,, những cõi này tuy ở dưới nhân gian, nhưng về phương diện lực (sức) thì lại ở trên nhân gian, cho nên thế giới này được cấu tạo dưới mặt đất. Về sự khu biệt của mỗi tầng tuy không được rõ lắm, như đại khái thì chẳng qua chỉ là đem phối hợp các loại quỷ thần thoại trong đó, bởi thế tôi tưởng sau đây nên nói sơ qua về mỗi tầng.

Tầng thứ nhất, có cung điện của Nam Cơ, tức A Tu La.

Tầng thứ hai, có cung điện của Cáp Da Khố Lợi Ngõa.

Tầng thứ ba, có thành đô của Tư Lợi Hi Lạp Tư, Hi Hưu Mã Lạp, Khổn Tì Lạp, hay có cung điện của Tạp Tì Lạp v.v...

Tầng thứ tư, có đô thành của Tạp Lạp Nại Mễ.

Tầng thứ năm, có đô thành của Đãi Kỷ Đa, Vũ La Ca Na.

Tầng thứ sáu, là chỗ ở của Quảng Tài Tử Long Vương.

Tầng thứ bảy, có đô thành Ba Lợi, A Tu La và Độc Long ở.

12- ĐỊA NGỤC

Sau hết là địa ngục. Địa ngục tuy được bảo là ở dưới Ba Tha Lạp, nhưng lúc đầu nó được coi ngang với Ba Tha Lạp. Điều này cứ xem Kỳ Na Giáo thay Ba Tha Lạp mà lập bảy địa ngục thì đủ rõ.

Tư Tưởng địa ngục tuy đã manh nha từ thời đại Lê Câu Vệ Đà nhưng vẫn chưa rõ ràng, đến A Thát Bà Vệ Đà và Phạm Thư nó mới được biểu hiện dần dần, và cuối cùng, đến thời đại Phật giáo thì tư tưởng đó trở nên rất thịnh. Những kỷ tải của nó liên tục trải qua các niên đại và dần dần đã được phô bày một cách tinh tế. Trong các kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, hoặc Ma Ha Bà La Đa thứ 12, cho đến Pháp điển Ma Nô 4.88, cũng đều đã nói đến, nhất là đến Bá Lạp Na, có thể nói đã đạt đến điểm viên thục. Về cách trình bày, trên đại thể, tuy cộng thông, nhưng nếu đi vào từng chi tiết, thì trong đó không khỏi có sự sai biệt. Bởi thế, ở đây chỉ nói một cách đại yếu mà thôi.

Trước hết xin nói về số mục. Địa ngục có 28 loại, con số này tuy là thông lệ, nhưng trong Ma Nô Đạt Ma Xá kinh, Vu Tuần Tư Ô Lợi Để v.v... thì chỉ có 21. Tôi cho rằng con số 21 so với 28 vẫn còn là nguyên thủy.

Bây giờ căn cứ theo Ma Nô để liệt kê những tên như sau:

1. Tha Di Tư Lạp (Ám hắc); 2. An Lạp Tha Di Tư Lạp (Manh ám); 3. Ma Ha Lao Lạp Ngõa (Đại khiếu hoán); 4. Lao Lạp Ngõa (Khiếu hoán); 5. Nại Lạc Ca (Nại lạc ca?); 6. Tạp Lạp Tư Đà La (Hắc thằng); 7. Ma Ha Nại Lạc Ca (Đại nại lạc ca); 8. Tam Địa Ngõa Na (Đẳng hoạt); 9. Ma Ha Vu Cơ (Đại a tỳ); 10. Tha Ba Na (Viêm nhiệt); 11. Tam Ba La Tha Thiên Na (Đẳng nhiệt); 12. Tam Cáp Tha (Chúng hội); 13. Tát Tạp Câu Lạp (?); 14. 14 Khố Đặc Mã Lạp (Ác xú); 15. Phụ Cơ Mộc Lợi Kỷ Lạp (Thiết đình); 16. La Cáp Hương Khố (Phũ nhập); 17. Lợi Kỳ Xá (?); 18. Bản Tha Na (?); 19. Xá Lộ Mã Lợi (Lạt); 20. A Tư Bà La Ngõa Na (Kiếm diệp lâm); 21. La Cáp Lạp La Tạp (?).

Con số 28 đại khái cũng có thể là do số 21 trên đây mà thêm lên, hoặc cũng có thể là chính con số 21 đã thiếu mất: điều này chưa đoán định được. Giờ hãy tạm căn cứ theo Bà Tạp Ngõa Tha Bá Lạp Na và Đề Vu Ba Tạp Ngõa Tha Bá Lạp Na để liệt kê những tên sau đây:

1. Ám hắc địa ngục; 2. Đại ám hắc địa ngục; 3. Khiếu hoán địa ngục; 4. Đại khiếu hoán địa ngục; 5. Bình chử địa ngục; 6. Hắc thằng địa ngục; 7. Đạo diệp lâm địa ngục; 8. Trư khẩu địa ngục; 9. Ám tỉnh địa ngục; 10. Thực trùng địa ngục; 11. Hỏa trứ địa ngục; 12. Thiết quản địa ngục; 13. Kim cương thích thương địa ngục; 14. Thỉ niệu cấu địa ngục; 15. Bất khiết trì địa ngục; 16. Tắc tức địa ngục; 17. Sát thương địa ngục; 18. Thóa ẩm địa ngục; 19. Ngục khuyển địa ngục; 20. Vô gián địa ngục; 21. Thiết ẩm địa ngục; 22. Diêm thủy trì địa ngục; 23. La sát quần thực địa ngục; 24. Thương tuy địa ngục; 25. Xỉ thương địa ngục; 26. Huyệt dịệt địa ngục; 27. Phản báo địa ngục; 28. Châm khẩu địa ngục.

Địa ngục trong Du Dà Tất Đàm Đa Khương Đà Lợi Dà (trang 127) đã thoát thai từ con số trên. Giờ xin tạm căn cứ vào những địa ngục trên để tả sự khổ trong mỗi địa ngục.

1. Ám hắc địa ngục là chỗ ở của những người chuyên nghề ăn trộm (trộm vợ người khác cũng thế). Nỗi khổ là đói khát, bị đánh đập bằng dao, gậy, luôn luôn chết ngất đi.

2. Đại ám hắc địa ngục là nơi đi đến của những kẻ làm hại mạng sống của người khác để cướp giật vợ, con, tài sản của người ta. Kẻ ấy thường chịu đau khổ cũng như cây lớn bị mất gốc.

3. Khiếu hoán địa ngục là chỗ đi đến của những người chỉ biết lợi mình, không đoái hoài gì đến lợi của chúng sanh. Nỗi khổ là do rắn hành hạ.

4. Đại khiếu hoàn địa ngục, so với địa ngục trên, trình độ còn kịch liệt hơn nữa.

5. Bình chử địa ngục là nơi ở của những kẻ giết người hay thú vật. Nổi khổ là bị chưng trong chão dầu.

6. Hắc thằng địa ngục là nơi đi đến của những người giết cha mẹ hay giết Bà La Môn. Địa ngục này rộng một vạn do tuần, trên dưới do đồng nóng đốt cháy. Tội nhân chịu khổ trải qua vô số kiếp.

7. Đao diệp lâm địa ngục là nơi đi đến của những người bỏ kinh Vệ Đà để chạy theo những kẻ mê tín dị đoan.

8. Trư khẩu địa ngục là chỗ ở của hàng vua chúa, đại thần đã xử tử những người vô tội. Nỗi khổ là do sứ giả của Diêm ma là Tư Ca Lạp cắt đứt chân tay.

9. Ám tỉnh địa ngục là nơi ở của những người làm tổn hại sinh vật của kẻ khác. Trong cái giếng tối tăm này, tội nhân thường chịu khổ do sinh vật hành hạ.

10. Thực trùng địa ngục là nơi đi đến của những người không tế lễ, không bố thí cho người khác. Nỗi khổ là bị ác trùng ăn thịt.

11. Hóa chử địa ngục là chỗ ở của những người ăn trộm vàng, bạc, của cải của người ta. Nỗi khổ là do ngục tốt đốt những cây đũa lửa xiên vào người.

12. Thiết quản địa ngục là nơi đi đến của những kẻ gian dâm. Nỗi khổ là bị đánh bằng gậy sắt nung đỏ.

13. Kim cương thích thương địa ngục là chỗ ở của những kẻ giao tiếp với mọi loài sinh vật. Theo Bá Lạp Phu Mã Bá Lạp Na thì đây là chỗ ở của những người đàn bà hoang dâm.

14. Thỉ niệu cấu địa ngục là nơi ở của hàng quốc vương đại thần dùng làm pháp luật đối với những dị đoan. Bao quanh địa ngục này là những cứ rãnh đầy dẫy vật nhơ nhớp.

15. Bất khiết trì địa ngục là chỗ ở của những người thông dâm với đàn bà vô hạnh. Nỗi khổ  là phải ăn những đồ nhơ bẩn trong ao nước tù hãm.

 16. Hàn tức địa ngục là nơi đi đến của những người Bà La Môn hay người ngoài, vì săn bắn mà giết lầm sinh vật. Lính gác ngục dùng nhữngngười đó  làm đích để bắn.

17. Sát thương địa ngục là chỗ ở của những người giết động vật để tế lễ bậy bạ. Nỗi khổ là ngục tốt cắt hết chân tay.

18. Thóa ẩm địa ngục là nơi đi đến của những người Bà La Môn bỗng vì dục tình mà cùng đàn bà đồng chủng tộc giao tiếp. Chịu khổ ở địa ngục tinh dịch.

19. Ngục khuyển địa ngục là chỗ ở của những kẻ làm nghề giặc cướp, bóc lột người khác. Nỗi khổ là do 720 con chó của sứ giả Diêm Ma cắn xé.

20. Vô gián địa ngục là nơi của những kẻ giả dối, lừa gạt. Nổi khổ là đứng trên một mỏm đá cao 100 do tuần mà lộn nhào xuống, và cứ thế tiếp tục, không bao giờ ngừng.

21. Thiết âm địa ngục là chổ ở của những kẻ tu hành mà uống rượu say sưa. Nỗi khổ là ngục tốt bắt uống nước sắt nóng.

22. Diêm thủy trì địa ngục là nơi mà những kẻ lúc sống chuyên khen mình, chê người, đên lúc chết phải đọa vào đó.

23. La sát quần thực địa ngục là chỗ ở của những người giết người để làm vật tế lễ, hoặc đàn bà ăn thịt của người bị giết làm vật tế lễ. Nỗi khổ là bị La sát ăn thịt, uống máu họ và vừa ăn vừa nhảy múa.

24. Thương tuy địa ngục là nơi đi đến của những người đem đày người khác ra những hoang đảo trong khi họ thật không có tội. Nỗi khổ là do các loài chim dùng mỏ mổ cắn.

25. Xỉ thương địa ngục là chỗ ở của những người thịnh nộ bắt ép người phải theo mình. Sau khi chết bị con rắn lớn dùng răng mà cắn xé.

26. Huyệt diệt địa ngục là nơi đi đến của những kẻ khi còn sống bắt người nhốt vào hang động u ám. Khi chết bị giam vào hang núi, núi biến thành lửa.

28. Châm khẩu địa ngục là nơi đi đến của những kẻ khi còn sống, vì tham dục, duy chỉ chú ý đến của báu. Nỗi khổ là bị ngục tốt dùng kim đâm vào chân tay.

13- THẾ GIỚI DIÊM MA

Trở lên đã giải thích một cách đại khái về các tên của địa ngục. Trong các Bá Lạp Na, ngoài những con số trên đây, còn có nhiều số mục và tổ hợp nữa. Nhưng ở đây không đủ thì giờ để trình bày một cách tỉ mỉ, mong độc giả đọc thêm Die Kosmographie der Inder ss. 147-137 của Kirfel sẽ rõ. Tuy nhiên, ở đây không thể không nói qua về điểm này: Tức là, người tống giam vong hồn kẻ chết vào địa ngục ấy cứu kinh là ai? Về vấn đề này, nếu đứng trên lập trường tự nghiệp, tự đắc mà nói, thì cái gọi là địa ngục chẳng qua chỉ là "tự nghiệp sở cảm", nhưng Bá Lạp Na lại cho đó là sự tồn tại vật lý nên cần phải có người hướng đạo. Người lãnh công việc đó là Diêm Ma. Theo Bá Lạp Phu Bá Lạp Na thì kẻ ác sau khi chết bị sứ giả của Diêm Ma đến bắt linh hồn đưa về đô thành của Diêm Ma. Thành này rộng mười vạn do tuần, bốn góc cao một vạn do tuần, và tường thành đúc bằng vàng. Nhưng đô thành của Diêm Ma không phải chỉ là nơi đi đến của những ác nhân, mà cả thiện nhân cũng được đưa đến đây, sau khi chết. Nhưng lối vào của những người này có khác nhau. Nghĩa là cửa Đông được trang trí bằng tràng phan dải đá quý, ngâm vịnh Kiện Đại Phược, A Bá Tát Lạp Tư để đón rước: đó là lối vào của các thần tiên, người tu Du Dà và các thánh nhân. Cửa Bắc được trang hoàng bằng tràng hoa, ngọc trai, có tiêu, địch và đọc tụng Vệ Đà: đó là lối vào của những người có đức hạnh, có làm phúc, có kòng chân thật và hiếu kính cha mẹ. Cửa Tây, so với cửa Bắc kém hơn một chút, nhưng vẫn có trang hoàng và âm nhạc: đó là lối vào của những người lễ bái Thấp Bà, hành hương thánh tích và thờ phụng Hỏa thần. Còn cửa Nam là đường vào của những kẻ làm ác. Vừa bước đến cửa đã nghe tiếng kêu gọi, đã thấy các loài ác thú, ác trùng trông rất đáng sợ đang đi đi lại lại. Linh hồn kẻ ác phải đi qua cửa đó để đến chỗ Diêm Ma. Lúc ấy Diêm Ma là ông quan tòa rất đáng sợ. Ngồi cạnh Diêm Ma là viên Thư ký tên Cơ Đà La Cô Bá Tha, tuyên đọc tội trạng của tội nhân ở Sa Bà, Diêm Ma theo đó mà xét xử thích đáng, và cuối cùng, tùy theo tội trạng nặng, nhẹ mà truyền lệnh tống giam vào những địa ngục như dã kể trên trong một thời kỳ nhất định cho xứng đáng với tội trạng. Trong Bá Lạp Phu Bá Lạp Na còn nói rõ địa ngục có lớn, nhỏ và thời gian có dài, ngắn v.v... nhưng ở đây tôi không đề cập đến.

Tại Diêm Ma còn có phương diện chủ Thiên quốc, đây là điểm ta cần lưu ý (tham khảo thêm Kirfel, Die Kosmographie der Inder ss. 163-4).

Xem mục lục