Chương VI
Thực Tại Vốn Lìa Các Hình Tướng
Vào dịp khác tôi gặp Vajrapani vĩ đại và vinh quang trong thị kiến và tôi trải nghiệm thanh tịnh sáng tỏ toàn triệt . Tôi hỏi ngài : “ Thưa bậc chiến thắng , bậc cầm giữ Kim cương vĩ đại . Có phải Phật quả là nhận ra bậc giác ngộ trong hoàn cảnh tức thời . Hay có nơi nào khác để trở thành giác ngộ ? ” . Ngài ban sự trả lời sau đây :
“ Hỡi đứa con phước đức của dòng tộc vinh hiển . Có lẽ con nghĩ danh từ “ Phật ” hiện hữu như một nhân vật uy nghi , đẹp đẽ , ưa nhìn . An hoà , dịu dàng , tinh tế , hoàn thiện và đáng yêu . Một người ngắm nhìn không biết chán ; đang sống trong xứ sở rộng lớn vĩ đại . Nếu thế, thì ai là cha mẹ của những vị Phật như vậy ? . Nếu do những bà mẹ sinh ra . Các ngài phải chịu giới hạn của sự thường còn . Nếu chết , các ngài phải chịu giới hạn của giả ảo , không thực theo nghĩa hư vô .
Tóm lại , chừng nào một bản chất được xem là tự nó hiện hữu như thật trong ba giai đoạn : Phát sinh , kéo dài và diệt mất . Chắc chắn không thể có một bản tánh thực tại thoát khỏi những cực biên nhị nguyên. Những hiện tượng hình tướng bề ngoài . Cho dù xuất hiện như thế nào . Nó cũng biểu lộ như có sinh ra và diệt mất . Sự kiện đó không gì khác hơn những ý niệm được gán ghép .
Hơn nữa , nếu con chờ đợi cái gì thanh tịnh và hoàn toàn tinh ròng và xem là thật . Có nghĩa con đã tự ràng buộc mình. Nếu có sự khác biệt nào giữa thật tánh Sinh tử và thật tánh Niết bàn . Bấy giờ nói đến “ Bản tánh thực tại là tánh bình đẳng của Sinh tử và Niết bàn ” . Rốt cuộc chỉ là chuyện ngoài môi .
Thật vậy , nhiều người chấp vào Niết bàn . Xem như có những đặc tính cố định nội tại . Tức khắc bị rơi vào bẫy của hy vọng và lo sợ . Có rất nhiều cách để diễn tả về những kinh nghiệm được hưởng thọ trong các cõi thanh tịnh . Nhưng nếu bám vào những chi tiết đặc biệt này và xem chúng là những thực thể có thật . Và xem nó có những đặc tính cố định nội tại . Có nghĩa con vẫn còn vọng tưởng và cho những hiện tượng có tự tánh .
Dù chúng ta gán tên cho nó là gì . Quan kiến cho Như Lai là cái gì đó thuôc về trường cửu và có thật . Chắc chắn không thể siêu vượt quan kiến tự ngã cá nhân là có thật . Nếu con nghĩ : Một vị Phật có hai mắt . Có nghĩa ngài phải có nhãn thức . Một khi đã có nhãn thức . Tất nhiên sự xuất hiện những hiện tượng như sắc không thể tránh khỏi . Những cái này được gọi là : “ Cực đối tượng của nhìn thấy ” và “ Những đối tượng của giác quan ” .
Khi những đối tượng được thiết lập . Tất nhiên không thể tránh khỏi suy nghĩ ý niệm vi tế của tâm bình thường ; và nó sẽ góp phần kéo dài về sắc của mắt . Điều này được gọi là : “ Cực chủ thể của nhìn thấy ” và “ Tâm bình thường ” ( Sem ) . Tính nhị nguyên của ý niệm về đối tượng và chủ thể được gọi là “ Tâm bình thường ” . Như thế , bất cứ cái gì có tâm bình thường sẽ được gọi là “ Chúng sinh ” .
Cùng cách đó , nếu con nghĩ :
“ Vị Phật có tai .
Thế thì ngài cũng phải có nhĩ thức ;
Với những cảm giác về âm thanh tương ứng .
Nếu con nghĩ :
Vị Phật có mũi .
Thế thì ngài cũng phải có tỷ thức ;
Với những cảm giác về mùi tương ứng .
Nếu con nghĩ :
Vị Phật có lưỡi .
Thế thì ngài cũng phải có thiệt thức ;
Với những cảm giác về vị tương ứng.
Nếu con nghĩ :
Vị Phật có thân ,
Thế thì cũng phải có thân thức ;
Với những cảm giác về xúc tương ứng ” .
Những cái này bao gồm những cực đối tượng của tri giác cho những từng loại thức . Những khuôn khổ tư tưởng và ý niệm sẽ góp phần cho sự kéo dài của chúng tạo thành tâm bình thường . Có nghĩa : Những cực chủ thể của tri giác cho từng loại thức . Như đã nói . Cái gì có tâm bình thường sẽ được gọi là chúng sinh .
Về cái chúng ta gọi là “ Phật ” . Nếu có trạng thái Phật quả không siêu vượt khỏi những tri giác nhị nguyên về đối tượng và chủ thể . Bấy giờ những phẩm tính tốt của trạng thái được gọi là “ Phật ” . Có thể chuyển thành chúng sinh cũng như những phẩm tính bình thường chuyển từ người nọ sang người khác .
Con có thể nghĩ : Chư Phật giáo hóa những người khác . Nhưng nếu chư Phật tự nghĩ những vị thầy và những giáo pháp là cái để dạy . Và chúng sinh là những người nhận giáo pháp . Thế thì , đâu có gì khác biệt giữa chư Phật và chúng sinh bình thường . Cho dù chỉ nhỏ bằng hạt mè .
Nếu thế các ngài cũng là chúng sinh ! . Nếu con nghĩ những phẩm tính độc nhất của một vị Phật là : Có một cõi lạc phúc , có tướng tốt với hội chúng tuyệt hảo . Mọi thứ được trang hoàng bằng các châu báu và sống hạnh phúc lớn lao . Không sân hận , tham lam . Có nghĩa con vẫn còn trong sự hình dung của chúng sinh . Không đáng ca ngợi hơn những vị trời trong cõi sắc .
Trong ý nghĩa rốt ráo . Nền tảng hiện thể sẵn có của con lại chính là đức Samantabhadra ( Phổ Hiền ) trọn hảo . Cũng là “ Bậc an lạc đi trong cả ba thời ” . Trong sự thật tối hậu , một đức Phật không kinh nghiệm sự đi đến thế gian hay thuyết pháp . Nhiều bộ Tantra , luận và giáo huấn trao truyền trực tiếp ; đã nói rõ ràng cách hình tướng của vị thầy tự biểu lộ ; và xuất hiện cho một cá nhân cần được giáo hóa . Vậy hãy khảo sát chúng và thấu hiểu điểm này .
Thêm nữa , quả thật vô lý khi nghĩ rằng : Những trạng thái hiện hữu tách biệt trong vòng sinh tử lại được xem là thật có . Và chúng sinh lần lượt lao vào để trải nghiệm vui thú và đau khổ . Nếu hình tướng thân thể , dung để tâm thức làm việc trong đời trước . Giờ đã bỏ đi như đồ thải lại có thực . Thế thì làm sao lại có thân trung ấm giữa cái chết và tái sinh ? .
Nếu thân trong đời này có thể chết vì những vết thương , bỏng hay vì ngọn gió lạnh . Thế thì làm sao thân được tạo thành trong địa ngục lại có thể trải nghiệm nóng , lạnh . Bị nấu đốt mà không chết ? . Tương tự , nếu chúng ta có thể chết vì đói trong vài tháng hay thậm chí vài ngày . Thế thì tại sao những chúng sinh quỷ đói không chết vì đói khát trong hàng kiếp ? .
Như vậy , chúng sinh trong sáu cõi cũng như chúng sinh trong trạng thái trung ấm . Tất cả đều mê lầm vì bám chấp và cho những hiện tượng hình tướng là thật . Thật sự , chúng chỉ như những hình ảnh trong mộng . Không gì khác hơn là những sự xuất hiện hình tướng trống không . Không thể hiện hữu khách quan .
Như thế , nếu con đi đến quyết định để kết luận : Những hiện tượng hình tướng sinh khởi từ mê lầm và chứng ngộ rằng chúng vô tự tánh . Con sẽ nạo vét hết những chiều sâu của sinh tử luân hồi . Bằng cách xác quyết Phật quả không gì khác hơn nền tảng bổn nhiên của chính con . Khi đã có được sự tự tin này bên trong . Có nghĩa con thực sự đạt được cái gọi là : “ Sự giải thoát tự nhiên vốn có của chư Phật ” .
Hỡi bậc uy quyền của hư không . Kim cương hiện diện khắp tất cả . Con phải quyết định để kết luận rằng : “ Không có hiện tượng nào của Sinh tử và Niết bàn là hiện hữu . Sự thật tất cả đều trống không và con quyết định phải chứng ngộ bản tánh của sự không hiện hữu ” .
Nói thế, ngài biến mất khỏi tầm nhìn.