HÀNH TRÌNH GIÁC NGỘ
Tu tập Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày
TULKU THONDUP
Harold Talbort biên soạn - Bản Dịch Việt Ngữ: Tuệ Pháp
PHẦN MỘT
DẪN NHẬP 
1
VẬN DỤNG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY 
NHƯ SỰ THỰC HÀNH GIÁO PHÁP
Bài báo này đã được xuất bản trong Bản Tin Của Trung Tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới, Ðại Học Harvard, mùa Thu năm 1980.
Tôi  muốn giới thiệu với các bạn một số điểm về việc vận dụng những hoạt  động hằng ngày của chúng ta như sự thực hành Giáo pháp và làm cho sự  thực hành Giáo pháp được hiệu quả.
Theo kinh điển mật truyền của  Phật giáo, bản tâm, hay tâm không bị lừa dối, chính là Phật tánh. Nhưng  khuôn mặt thật tánh của tâm bị che ám bởi vô minh và cảm xúc nhiễm ô, giống như mặt trời bị mây đen che phủ. Vì  chúng ta không biết trạng thái tối thượng của tâm và bám chấp vào những  hình tướng nhị nguyên, huyễn ảo như là có thật, chúng ta lang thang  trong bóng tối của luân hồi (saṃsra) và kinh nghiệm phiền muộn, không  hài lòng như thể chúng ta đang nằm mơ. Trong lúc đang mơ, chúng ta không hiểu được đó là không có thật. Chỉ khi thức dậy ta nhận ra rằng những sự  kiện xảy ra trong giấc mơ là không thật. Tương tự, khi nhận ra thực tại  tối thượng, chúng ta hiểu được rằng những gì xảy ra trong vòng luân hồi  (saṃsra) là không thật và nhiều trạng thái của kinh nghiệm tâm thức  khác nhau đều là hư dối, và chỉ là một phản chiếu trong tâm thức bị lừa  dối. Nếu những nhiễm ô của tâm được tẩy sạch, thì bản tánh của tâm được  nhận thức như giải thoát khỏi sự khái niệm hóa và giác ngộ. Đức Phật  dạy: 
Chúng sanh đều là Phật trong tự tánh,
Nhưng tự tánh đó bị che ám bởi nhiễm ô từ bên ngoài.
Khi các nhiễm ô được tẩy sạch, bản thân chúng sanh chính là Phật.
Theo  Giáo pháp, trong cõi luân hồi (saṃsra) chỉ toàn là sự khổ đau và không  toại nguyện. Đôi khi người ta khổ đau vì trải qua những sự việc không  mong muốn. Người khác lại khổ đau vì lo sợ mất đi những gì họ có. Ngay  cả trạng thái hạnh phúc cao nhất mà chúng sanh có thể kinh nghiệm cũng  là đau khổ bất hạnh khi so với trạng thái của bản tánh tối thượng. Hạnh  phúc trong luân hồi cũng giống như sự thích thú của một tâm thức bị nhiễm độc.
Để nhận ra bản tánh tối thượng của Phật tánh, thoát khỏi mọi sự tạo tác, điều cần thiết trước tiên là phải tẩy sạch những cảm xúc nhiễm ô và viên mãn sự tích lũy công đức.
Trong  tuyệt đối, không có phân biệt giữa tốt và xấu hay hành động thiện và  bất thiện; cũng không phân biệt giữa kết quả tích cực và tiêu cực. Nhưng  với mục tiêu đạt giải thoát khỏi trạng thái như huyễn của vòng luân hồi  và nhận ra bản tánh tối thượng, điều cần thiết là phải thực hành nhiều  sự tu tập công đức như một phương tiện thiện xảo để tẩy sạch những ảo  tưởng trong tâm.
Tôi sẽ không đi vào cách tiếp cận triết lý thâm  sâu hướng đến chân lý tuyệt đối như đã dạy trong Phật giáo; nhưng tôi  muốn nhắc đến một số khía cạnh thiết thực được sử dụng trong các hoạt  động và kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta, để bất cứ điều gì chúng ta  làm đều có thể được chuyển hóa thành sự thực hành tu tập.
Trước  tiên, điều cần thiết là nhận ra các cảm xúc nhiễm ô chính, các thế lực tiêu cực làm che ám diện mạo của bản tánh tối hậu. Nói chung, chúng được phân loại thành ba phạm trù, được biết như ba độc: tham, sân, và  si. Gốc rễ của cảm xúc ô nhiễm là vô minh (si). Si là một khía cạnh của  tâm bị dối gạt – sự không biết khuôn mặt thật bản tánh tối thượng của  tâm mà bám chấp vào những hình tướng như huyễn của bản ngã và đối tượng  cho là có sự chia tách, có thật và bền vững.
Vì người ta chấp  nhận rằng chủ thể và đối tượng là có thật và bám chấp vào chúng nên làm  khởi sinh sự bám luyến vào các đối tượng được khao khát và ghét bỏ các  đối tượng không mong muốn. Do bám chấp vào đối tượng, nhận thức chúng  như là có thật và phát triển những niệm tưởng nhiễm ô thích hoặc không  thích, tiến trình của nghiệp lực được dựng nên, và vòng xoay luân hồi  chuyển động.
Những gì chúng ta cần để khởi đầu con đường giải  thoát khỏi vòng luân hồi hư huyễn này chính là tâm tỉnh giác – theo dõi  tâm để bảo vệ nó không rơi vào những cảm xúc nhiễm ô và hiến thân mình  để tu tập công đức.
Khi một tư tưởng thù hận hay ghét bỏ khởi lên  trong ta hướng tới con người hay đồ vật, kể cả kẻ thù, chúng ta nên tự  suy xét lại rằng những kẻ thù này đã từng là bạn bè và họ hàng thân yêu  nhất trong vô số kiếp trước của mình, và chúng ta nên phát triển lòng bi  mẫn với họ như những người bất hạnh, vô minh và bị lừa dối. 
Sân  hận hướng tới người khác sẽ sinh ra nghiệp ác xấu nhất, và nghiệp ác là nguyên nhân của đau khổ. Nếu giận dữ với người nào đó, chúng ta tự  làm đau khổ và hủy hoại chính mình với một kết quả tiêu cực, buồn thảm  trong những kiếp tương lai. Thay vào đó, nếu thực hành nhẫn nhục khi gặp những yếu tố không mong muốn, chúng ta sẽ bước vào một trong những thực hành Giáo pháp hiệu quả nhất. Vị Đại Bồ Tát và học giả Shantideva đã  nói: 
Không có kẻ thù nào tai hại hơn sân hận;
Không có sự khổ hạnh sâu xa nào hơn nhẫn nhục.
Khi  tư tưởng thèm muốn khởi lên, chúng ta cũng nên suy niệm về bản chất  không đáng tin cậy, vô thường và không có giá trị của đối tượng được  thèm muốn.
Khi niệm tưởng si mê khởi lên, đó là khi chúng ta  không thấu suốt được bản tánh tối hậu, chúng ta nên quán sát ý nghĩa của  hai chân lý: chân lý tương đối, và tuyệt đối – đặc biệt là chân lý tuyệt đối – bằng phương  tiện của học hỏi, suy niệm và thiền định.
Trong chân lý tương  đối, tất cả những hiện tượng xuất hiện đều chỉ có thật về mặt quy ước,  có nghĩa là chúng có thật theo cách giống như một giấc mộng, một ảo ảnh,  hay một phản chiếu được xem là thật. Chúng xuất hiện và hoạt động qua  tiến trình tạo tác nhân quả phụ thuộc lẫn nhau (lý duyên sanh) của một tâm bị lừa dối. Trong chân lý tuyệt đối thì mọi hiện  tượng đều rỗng không, vượt khỏi sự khái niệm hóa và tạo tác.
Có  nhiều pháp tu tập trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến cùng một mục tiêu là  chứng ngộ và thể nhập trạng thái tuyệt đối của Phật tánh. Các thực hành  này được phân loại theo hai phương diện chính: phương tiện thiện xảo và  trí tuệ. Hai phương diện này giống như đôi cánh để con chim bay đến mục  tiêu. Phương tiện thiện xảo là một thực hành hỗ trợ quan trọng, dẫn đến  sự thể nhập bản tánh tuyệt đối. Phương diện trí tuệ là sự thực hành để  trực tiếp chứng ngộ rằng mọi hiện tượng xuất hiện trong trạng thái tương  đối như một giấc mộng, và trong thật tánh tuyệt đối của chúng là rỗng không.
Vào lúc khởi đầu, người ta cần tu tập phương tiện  thiện xảo, như là thực hành nghi thức sùng kính, hoặc bố thí cho người nghèo, nghiêm trì giới  luật, thực hành nhẫn nhục, tùy hỷ và cúng dường. Nhưng điều quan trọng  nhất là phát triển một thái độ dịu dàng, bi mẫn và đúng đắn đối với  người khác, không có sự cứng nhắc hay ích kỷ. Đây là tinh hoa thực hành  của truyền thống Đại thừa (Mahayana).
Ba phạm trù chính của Phật giáo được mô tả như sau:
– Đặc trưng của Thanh văn thừa (Hinayana) là phát triển sự khao khát từ bỏ vòng luân hồi vì lợi ích chính mình.
– Đặc trưng của Đại thừa (Mahayana) là phát triển những niệm tưởng lợi ích hướng đến tất cả chúng sanh.
– Đặc trưng của Mật thừa (Vajrayana)  là tịnh hóa nhận thức, nhận thức về thế gian và chúng sanh trong đó như  là cõi tịnh độ và các bổn tôn cõi tịnh độ, để đạt được bản tánh tuyệt  đối.
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự  kiện hay tiến trình. Nguyên nhân của tất cả những kinh nghiệm cảm thụ,  có nghĩa là những tính chất của kinh nghiệm trong luân hồi, chính là một  tâm thức bị lừa dối. Nhận ra thật tánh của tâm là sự thành tựu của bản tánh tuyệt  đối, Phật tánh. Sự tích lũy công đức và phát triển chánh kiến là khía  cạnh chủ yếu của thực hành. Các thực hành thân thể, đó là những thực  hành sử dụng thân và khẩu, là một hỗ trợ cho việc duy trì chánh kiến của tâm. Ngài Kunkhyen Jigme Lingpa đã nói: 
Nếu rễ cây là thuốc thì quả của nó sẽ là thuốc.
Nếu rễ cây độc thì không nghi ngờ gì về quả của nó [là có độc].
Những phẩm tánh công đức và không công đức theo sau tương ứng với thái độ của con người;
Chứ không bắt nguồn từ tự thân những hành vi được nhìn thấy từ bên ngoài [có vẻ như tốt hoặc xấu].
Vì  thế, bất cứ chúng ta làm gì, miễn là với tư duy ý hướng làm ích lợi cho  người khác và không có bất kỳ thái độ ích kỷ nào, thì những điều đó đều  sẽ trở thành thực hành hoàn thiện. Các cảm xúc nhiễm ô sẽ tự nhiên giảm  xuống. Thậm chí nếu một hành động thô bạo xuất hiện là phi công đức, nó  sẽ chuyển hóa thành một thực hành công đức, tùy thuộc vào ý định của chúng ta, giống như một vài giọt sữa sẽ làm một tách trà có màu  trắng. Thế nên, một người không thể thực hiện những hành động không công đức khi họ còn có lòng bi và chánh kiến. Vì thế, điều quan trọng đối với  bất cứ ai muốn tu tập Giáo pháp là phải phát triển lòng bi và tư tưởng  làm lợi ích người khác để chuyển hóa những hoạt động hằng ngày thành sự  thực hành Giáo pháp.
Chẳng hạn, khi chúng ta dùng bữa, nếu thưởng  thức bữa ăn chỉ với tư tưởng thỏa mãn chính mình, đó sẽ là một hành  động không công đức. Tuy nhiên, nếu chúng ta quán tưởng chính mình như  những bậc thánh và dùng thực phẩm như một sự cúng dường, hoặc ít nhất  thì chúng ta cũng hưởng thụ thực phẩm với ý định dùng nó để giữ gìn sự  sống của ta nhằm phục vụ người khác và thực hành Giáo pháp, thì đó sẽ là  một thực hành công đức. 
Tương tự, chúng ta có thể làm bất cứ  công việc nào theo cách kết hợp với sự thực hành Pháp. Nếu không, cho dù chúng ta có nhập thất tu hành nhiều  năm trong cô tịch, tụng niệm mantra và quán tưởng Bổn tôn, nhưng nếu  làm những việc này vì hướng đến danh tiếng hay hạnh phúc cho bản thân  mình, đó sẽ không trở thành một thực hành Pháp thanh tịnh.
Tư  tưởng lợi lạc cho tất cả chúng sanh, không có sự thiên vị, mong cầu,  được gọi là thái độ Giác ngộ. Những hoạt động phát sinh từ tư duy giác  ngộ đều là hành động Giác ngộ. Đó là hai phương diện thực hành của chư  Bồ Tát. Ngài Shantideva đã nói: 
Nếu quan điểm Giác ngộ đã phát triển, thì chính lúc đó
Những chúng sanh đang đau khổ trong ngục tù luân hồi sẽ được biết như Con của chư Phật (Bồ Tát).
Một  yếu tố quan trọng khác trong thực hành Pháp là lòng tin. Sự thành tựu  kết quả qua thực hành Pháp tùy thuộc vào niềm tin – tin tưởng vào vị thầy, vào giáo lý và tin vào chính mình. Nếu thiếu niềm tin, thì dù có  thực hành cả ngày lẫn đêm, sự thực hành của ta có thể phát sinh công đức nhưng khó có thể đạt được bất cứ kết quả to lớn nào. Khi chúng ta chưa  đạt tới giai đoạn chứng ngộ cao siêu, trong đó không còn ảnh hưởng của  mọi sự kiện thế tục đối với ta và không có khác biệt giữa hạnh phúc và  đau khổ, thì chúng ta phải duy trì tự tin – đó là lòng tin – là nền tảng của thực hành. Không có niềm tin, không thể đạt được thành tựu tâm linh.  Đức Phật dạy: 
Đối với những ai không có niềm tin
Giáo pháp sẽ không phát sinh kết quả,
Giống như một hạt giống bị thiêu đốt
Sẽ chẳng bao giờ sinh được mầm xanh.
Điểm  cốt yếu ở đây là, bất kể làm việc gì, chúng ta nên làm với một tư duy  vì lợi ích cho mọi người. Nhờ đó mọi hoạt động hằng ngày của chúng ta  đều sẽ trở thành thực hành Chánh pháp. Và chúng ta nên phát triển một sự tin tưởng mạnh mẽ vào sự thực hành, đối với vị thầy và đối với chính mình để việc thực hành Giáo pháp được hiệu quả.