Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Bảy                              NÓI RÕ PHẦN CÒN LẠI CỦA                              GIỚI TĂNG TÀN                                    9. GIỚI: XUYÊN TẠC ÐỂ HỦY                              BÁNG.                              Khi                              Phật an trú tại thành Xá Vệ, như trên đã nói, bấy                              giờ tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử được chúng Tăng đề cử                              trông coi chín việc mà trên đã đề cập. Thế rồi, nhóm                              sáu Tỉ-kheo nhận phòng xấu, thức ăn kém, nên tâm                              thường sầu khổ, bèn suy nghĩ: "Nếu trưởng lão Ðà                              Phiêu Ma La Tử mà còn sống phạm hạnh lâu dài thì                              chúng ta còn chịu khổ não. Nhưng Thế Tôn đã chế giới                              không cho phép vu khống người khác phạm tội Ba La Di                              một cách vô căn cứ. Nay ta phải tìm chứng cứ của tội                              lỗi". Nghĩ như thế rồi, họ bèn theo sát tôn giả Ðà                              Phiêu Ma La Tử, trong những lúc đi, đứng, nằm, ngồi,                              đều theo sát hai bên. Hằng tháng vào các ngày mồng                              8, 14 và 15 các Tỉ-kheo-ni đến lễ Phật, khi ấy tôn                              giả Ðà Phiêu Ma La Tử đang ngồi đối diện cách Phật                              không xa, nên các Tỉ-kheo-ni đến đảnh lễ chân Phật                              rồi, bèn đến đảnh lễ tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử.                              (281b) Bấy giờ, có một Tỉ-kheo-ni trong khi đảnh lễ                              bị gió thổi làm tung góc y của cô vướng trên đầu gối                              của tôn giả, tôn giả liền dùng tay dở lên.                               Thế                              rồi, nhóm sáu Tỉ-kheo bèn nói: "Trưởng lão Ðà Phiêu,                              ông phạm tội Ba La Di".                               Ðà                              Phiêu nói: "Tôi không có việc ấy".                               Nhóm                              sáu Tỉ-kheo lại nói: "Việc ấy tôi đã thấy, còn nghi                              ngờ gì nữa, có ai ăn trộm mà lại nói mình là kẻ ăn                              trộm bao giờ".                               Rồi                              họ đem việc ấy nói tại chỗ vắng, chỗ nhiều người và                              chỗ chúng Tăng. Bấy giờ, Ðà Phiêu bèn đem nhân duyên                              ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo đi gọi là nhóm                              sáu Tỉ-kheo đến. Thầy liền đi gọi đến.                               Phật                              liền hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật các ông vu khống                              Ðà Phiêu Ma La Tử phạm tội Ba La Di một cách vô căn                              cứ chăng?"                               Ðáp:                              "Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Có chứng cứ thật".                               Phật                              nói: "Có chứng cứ gì?". Nhóm sáu Tỉ-kheo liền bạch                              với Phật: "Bạch Thế Tôn, gặp ngày trai kỳ, các                              Tỉ-kheo-ni đến đảnh lễ Thế Tôn rồi họ sang đảnh lễ                              Ðà Phiêu. Khi ấy gióthổi làm tung chéo y của                              Tỉ-kheo-ni lên đầu gối của Ðà Phiêu. Ðà Phiêu bèn                              dùng tay nắm y của cô ấy, đó là chứng cứ".                               Phật                              nói: "Này kẻ ngu si, đó chẳng phải là bằng chứng                              phạm tội Ba La Di. Ðó chỉ là một việc nhỏ thuộc phạm                              vi khác". Thế rồi, Phật khiển trách nhóm sáu Tỉ-kheo:                              "Các ông không từng nghe ta dùng nhiều nhân duyên ca                              ngợi việc đem thân, khẩu, ý, từ ái, kính trọng những                              người tu phạm hạnh hay sao? Nay vì sao đối với một                              Tỉ-kheo thanh tịnh vô tội, mà các ông lại muốn phá                              sự thanh tịnh của họ, rồi đem một việc nhỏ thuộc                              phạm vi khác chẳng phải Ba La Di của Tỉ-kheo mà vu                              cáo họ phạm tội Ba La Di? Ðó là việc phi pháp, phi                              luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng việc ấy để                              nuôi lớn thiện pháp được".                              Ðoạn,                              Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành                              Xá vệ phải tập họp lại tất cả, rồi vì mười lợi ích                              mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng                              nghe lại:                                                            -- Nếu Tỉ-kheo vì sân hận, không vui, đem một việc                              nhỏ thuộc phạm vi khác chẳng phải Ba La Di của                              Tỉ-kheo mà vu cáo họ phạm tội Ba La Di để phá hoại                              sự phạm hạnh của họ; rồi sau đó, hoặc bị tra hỏi,                              hoặc không ai tra hỏi mà tự nói rằng: "Chỉ vì sân                              hận nên tôi đem một việc thuộc phạm vi khác mà vu                              cáo", thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                                                           Giải thích:                              -                              Tỉ-kheo sân hận không vui: Như trên đã                              nói.  -                              Thuộc phạm vi khác: Trừ 4 Ba La Di, từ 13                              giới Tăng Già Bà Thi Sa trở đi là thuộc phạm vi khác.                              -                              Những việc nhỏ: Chúng học pháp và các oai                              nghi.  -                             Chẳng phải Ba La Di của Tỉ-kheo mà vu khống là                              phạm Ba La Di: Việc đó không thuộc Ba La Di,                              mà vu khống rằng phạm các giới trong 4 Ba La Di.                              -                              Muốn phá phạm hạnh của người ấy: Muốn làm                              cho người ấy không phải là Tỉ-kheo, không phải là Sa                              môn, không phải là con dòng họ Thích. (281c) Muốn họ                              làm Sa di, làm người thế tục, làm người giữ vườn,                              làm kẻ ngoại đạo.                              -                              Sau đó, hoặc bị tra hỏi, hoặc không bị tra hỏi.                                                           Tra hỏi: Như hỏi: "Ông thấy việc gì? Việc                              dâm chăng? Việc trộm cắp chăng? Cố ý giết người                              chăng? Không thật được pháp thượng nhân mà tự xưng                              được pháp thượng nhân chăng? Thấy tại chỗ nào?"Ðó                              gọi là tra hỏi. Nếu không hỏi như vậy thì gọi là                              không tra hỏi.                              Nếu                              vì sân hận đối với một Tỉ-kheo thanh tịnh vô tội mà                              đem một việc nhỏ thuộc phạm vi khác vu khống họ phạm                              tội Ba La Di, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              (Phần                              còn lại như trên đã nói rõ) Thế nên nói:                              - "Nếu                              Tỉ-kheo vì sân hận không vui mà đem một việc thuộc                              phạm vi khác, cho đến "vì sân hận mà nói", thì phạm                              tội Tăng Già Bà Thi Sa".                                                            (Hết giới Tăng tàn thứ 9.)                                                           10. GIỚI: PHÁ TĂNG HÒA HỢP.                              Khi                              Phật an trú tại thành Vương xá, nói rộng như trên.                              Bấy giờ, Ðề Bà Ðạt Ða vì muốn phá sự hòa hợp của                              Tăng đoàn, cho nên tìm đủ mọi cách để phá hoại việc                              của Tăng.                               Ðối                              với 12 bài tựa của giới Kinh, 4 Ba la di, 13 Tăng                              già bà thi sa, 2 Bất định, 30 Ni tát kì ba dạ đề, 92                              Ba dạ đề, 4 Ba la đề đề xá ni, Chúng học pháp, 7                              Pháp diệt tránh, pháp Tùy thuận.v.v...                                                           Những gì Phật không chế, thì ông chế thêm; những gì                              Phật chế thì ông mở ra. Cho đến, những pháp mà người                              tại gia, xuất gia cùng thực hành như 9 bộ kinh:                              1- Tu                              Ða La; 2- Kỳ Dạ; 3- Thọ Ký; 4- Già Ðà; 5- Ưu Ðà Na;                              6- Như Thị Ngữ Kinh; 7- Bản Sanh Kinh; 8- Phương                              Quảng; 9- Vị Tằng Hữu Pháp.                              Ðối                              với 9 bộ Kinh này, ông liền tạo ra những câu khác,                              những chữ khác, những ý nghĩa khác. Mỗi thứ đều có                              những lời văn khác để mà tụng đọc, cũng như dạy                              người khác tụng đọc. Khi ấy các Tỉ-kheo nói với Ðề                              Bà Ðạt Ða: "Ông chớ tìm cách phá sự hòa hợp của Tăng                              đoàn, chớ có kiên trì tìm đủ mọi cách để phá việc                              của Tăng, cố ý tranh cãi. Trưởng lão nên hòa mình                              với Tăng. Vì sao vậy? Vì Tăng hòa hợp vui vẻ, không                              tranh cãi, cùng học một giáo lý, như nước hòa với                              sữa, điều gì như pháp thì nói là như pháp một cách                              rõ ràng, để cùng sống an lạc".                              Sau                              khi khuyên can lần thứ nhất như vậy mà không chấm                              dứt, rồi khuyên can lần thứ hai, thứ ba cũng đều                              không đình chỉ, cho nên các Tỉ-kheo đem nhân duyên                              ấy bạch lên Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðề Bà Ðạt Ða vì                              muốn phá sự hòa hợp của Tăng, nên đã kiên trì tìm đủ                              mọi cách để phá việc của Tăng. Từ bài tựa của giới                              cho đến 9 bộ Kinh, ông đều đặt ra những chữ khác, ý                              nghĩa khác; (282a) mỗi thứ đều chế ra những thứ văn                              từ khác, rồi tự mình tụng đọc và dạy người khác tụng                              đọc. Thế nhưng, các Tỉ-kheo khuyên can lần thứ nhất                              không chấm dứt, rồi khuyên can lần thứ hai, thứ ba                              cũng không chấm dứt".                              Phật                              liền nói với các Tỉ-kheo: "Nếu ông Ðề Bà Ðạt Ða ngu                              si này vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng, nên đã kiên                              trì tìm đủ mọi cách để phá việc của Tăng sự, cho đến                              đối với 9 bộ Kinh làm ra những câu khác, chữ khác, ý                              nghĩa khác và mỗi thứ đều dùng những văn từ khác, mà                              khuyên can đến lần thứ ba vẫn không chấm dứt, thì                              các ông nên đến đó khuyên can ông ở chỗ vắng ba lần,                              rồi khuyên can ở chỗ đông người ba lần, sau đó                              khuyên can giữa chúng Tăng ba lần, khiến cho ông ta                              bỏ việc ấy".                              Khi                              Tỉ-kheo khuyên can ở chỗ vắng, thì nên nói như thế                              này: "Ông Ðề Bà Ðạt Ða kia, có thật ông muốn phá sự                              hòa hợp của Tăng, kiên trì phá Tăng sự, đối với 9 bộ                              Kinh tạo ra câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, văn từ                              khác, rồi tự mình tụng đọc và đem dạy người khác                              chăng?"                               Nếu                              đáp: "Có thật như vậy".                               Thì                              nên nói với Ðề Bà Ðạt Ða: "Ông chớ có phá sự hòa hợp                              của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự.                              Trưởng lão Ðề Bà Ðạt Ða! Phá sự hòa hợp của Tăng là                              tội ác rất nặng, phải đọa vào đường ác, rơi trong                              địa ngục, phải chịu tội đến một kiếp. Ðề Bà Ðạt Ða,                              nay tôi vì lòng từ muốn ông được lợi ích, vậy phải                              nghe lời tôi. Một lần khuyên can đã qua, còn hai lần                              khuyên can nữa, vậy ông có bỏ việc ấy không?"                              Nếu                              trường hợp không bỏ, thì phải khuyên can đến lần thứ                              hai, thứ ba cũng như thế. Lại khuyên can ở chỗ đông                              người, cũng như vậy, nếu vẫn không chấm dứt, thì                              phải đưa đến giữa chúng Tăng làm pháp Yết ma cầu                              thính (Xin trình bày).                              Bấy                              giờ, người làm Yết ma nói như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe. Ông Ðề Bà Ðạt Ða vì muốn phá                              sự hòa hợp của Tăng, mà kiên trì tìm đủ mọi cách để                              phá Tăng sự. Ðối với 12 bài tựa của giới cũng như 9                              bộ Kinh, ông làm ra những câu khác, chữ khác, ý                              nghĩa khác, văn từ khác rồi tự tụng đọc và dạy người                              khác. Các Tỉ-kheo đã khuyên can tại chỗ vắng ba lần,                              tại chỗ nhiều người ba lần mà vẫn không chấm dứt.                              Nếu thời gian thích hợp với Tăng, nay ở giữa Tăng                              nên khuyên can ba lần nữa khiến ông chấm dứt".                              Bấy                              giờ, Tăng nên hỏi Ðề Bà Ðạt Ða: "Có thật ông đối với                              12 bài tựa của giới, cũng như 9 bộ Kinh, làm ra                              những câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, văn từ khác,                              rồi tự tụng đọc dạy người tụng đọc chăng? Thế rồi                              các Tỉ-kheo đã khuyên can ba lần tại chỗ vắng,                              khuyên can ba lần tại chỗ nhiều người mà vẫn không                              chấm dứt chăng?"                              Nếu                              đáp: "Có thật như vậy!", thì khuyên can giữa Tăng: "Này                              ông Ðề Bà Ðạt Ða, đừng vì muốn phá sự hòa hợp của                              Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, rồi                              đối với 9 bộ Kinh, tạo ra câu khác, chữ khác, ý                              nghĩa khác, và văn từ khác. Ông đừng phá sự hòa hợp                              của Tăng, vì phá sự hòa hợp của Tăng là một tội ác                              lớn, là tội nặng, phải đọa vào đường ác, rơi trong                              địa ngục, phải chịu tội khổ đến một kiếp. (282b)                              Ngày nay chúng Tăng vì lòng từ khuyên can, muốn ông                              được lợi ích. Vậy hãy vâng lời chúng Tăng. Một lần                              khuyên can đã qua, còn hai lần nữa, vậy ông bỏ việc                              ấy đi?".                               Thế                              nhưng, ông ta không bỏ, rồi tiếp tục khuyên can đến                              lần thứ hai, thứ ba cũng không bỏ. Cuối cùng, các                              Tỉ-kheo phải đem việc ấy bạch lên Thế Tôn: "Bạch Thế                              Tôn! Chúng Tăng đã khuyên can ông Ðề Bà Dạt Ða tại                              chỗ vắng ba lần, tại chỗ đông người ba lần, giữa                              chúng Tăng ba lần, mà vẫn không bỏ việc ấy".                              Phật                              bèn nói với các Tỉ-kheo: "Ông Ðề Bà Ðạt Ða này là kẻ                              ngu si, phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi                              cách để phá Tăng sự và đã khuyên can ở chỗ vắng ba                              lần, ở chỗ đông người ba lần, ở giữa chúng Tăng ba                              lần mà vẫn không bỏ việc ấy, thì Tăng nên làm pháp                              Yết ma cử tội (vạch tội)".                              Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              ông Ðề Bà Ðạt Ða này không chịu nghe lời các Tỉ-kheo                              khuyên can mà tự chuốc lấy khổ não?".                               Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Không những ngày nay ông không                              nghe lời người khác, phải tự chuốc khổ não mà trong                              thời quá khứ cũng đã từng có như vậy".                               Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy                              sao?".Phật đáp: "Ðúng như vậy! Trong thời quá khứ,                              tại thành Ba La Nại, nước Già Thi có một người Bà la                              môn đào một cái giếng tại nơi hoang vắng để làm                              phước thiện; nhằm giúp những kẻ mục đồng, những                              người đốn củi và khách bộ hành tới đó uống nước và                              tắm rửa. Bấy giờ, sắp đến lúc hoàng hôn, có bầy dã                              can đến đó uống nước dưới giếng, chỉ có con dã can                              chúa không chịu uống nước dưới giếng mà đút đầu vào                              trong lu để uống nước. Uống xong, nó bèn mang cả cái                              lu giơ cao đầu lên đập vỡ chiếc lu. Nhưng miệng lu                              vẫn còn vướng vào cổ nó, đàn dã can bèn nói với dã                              can chúa: "Nếu một chiếc lá cây ướt mà còn dùng được,                              người ta vẫn gìn giữ nó, huống gì cái lu này rất có                              ích cho người đi đường".                               Dã                              can chúa nói: "Ta làm việc này vì cảm thấy trong                              lòng thích thú, đâu cần gì biết đến việc khác".                               Bấy                              giờ, những người đi đường bèn nói với Bà la môn: "Cái                              lu của ông để trên giếng đã bị vỡ rồi. Vậy ông hãy                              đặt lại cái lu khác ở chỗ cũ". Dã can phá như vậy                              chẳng phải một cái lu mà đến 14 cái, mặc dù đàn dã                              can vẫn thường khuyên can, nhưng dã can chúa vẫn                              không nghe lời. Thế rồi, Bà la môn bèn suy nghĩ: "Ta                              đào giếng làm việc phước thiện nhưng không biết ai                              đã gây ra chướng ngại nhỉ? Nay ta phải đến xem".                               Khi                              đến nơi, ông ta thấy rõ sự việc, bèn đem cái lu khác                              đặt lại trên giếng như trước, rồi núp tại một chỗ                              khuất theo dõi, thì thấy các người bộ hành uống nước                              liền đi, không ai phá lu cả. Ðến lúc mặt trời về                              chiều, ông bèn thấy bầy dã can đến uống nước dưới                              giếng, chỉ có con dã can chúa là uống nước trong lu,                              rồi đập vỡ lu. Thấy thế, ông bèn nghĩ: "Chính con dã                              can này gây ra tai họa đối với việc đào giếng làm                              phước của ta".                               Rồi                              ông làm một cái thùng bằng gỗ kiên cố khó mà phá vỡ                              (282c), hễ đút đầu vào thì dễ mà rút ra thì khó, đem                              đặt bên giếng, bèn cầm gậy núp ở chỗ khuất mà rình.                              Ông thấy những bộ hành uống nước xong rồi đi. Vào                              lúc xế chiều, bầy dã can lại tụ về uống nước giếng                              như lần trước. Chỉ có dã can chúa là uống nước trong                              thùng, uống xong liền đập thùng xuống đất, nhưng                              không phá được. Khi ấy ông Bà la môn bèn cầm gậy                              chạy tới đập chết dã can. Thấy thế, từ trên không                              trung một vị trời bèn đọc kệ:                              "Bạn                              từ tâm khuyên can                              Phật                              bèn nói với các Tỉ-kheo: "Dã can chúa thuở ấy, ngày                              nay chính là Ðề Bà Ðạt Ða; còn bầy dã can khi ấy,                              ngày nay là các Tỉ-kheo khuyên can Ðề Bà Ðạt Ða. Các                              Tỉ-kheo nên biết, trong thời quá khứ, ông ta đã                              không chịu nghe lời khuyên ân cần của các bạn bè đến                              nỗi tự hại tính mạng; ngày nay cũng lại không chịu                              nghe lời khuyên can của các Tỉ-kheo, nên sẽ rơi vào                              ác đạo, chịu khổ lâu dài".                              Thế                              rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành                              Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, rồi vì 10 lợi ích mà                              chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải                              nghe lại:                                                            -- "Nếu Tỉ-kheo phá sự hòa hợp của Tăng, bèn kiên                              trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, đấu tranh với                              người khác. Rồi các Tỉ-kheo nói với Tỉ-kheo ấy: "Trưởng                              lão, chớ phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ                              mọi cách để phá Tăng sự, đấu tranh với người khác.                              Trưởng lão hãy hòa mình với chúng Tăng. Vì sao phải                              thế? Vì Tăng phải hòa hợp, vui vẻ, không tranh chấp,                              cùng học một giáo pháp, như nước hòa với sữa, điều                              gì như pháp thì nói là như pháp một cách rõ ràng để                              cùng sống an lạc. Trưởng lão hãy bỏ động cơ phá Tăng                              ấy đi".                                                           Khi các Tỉ-kheo đã khuyên can Tỉ-kheo ấy như vậy, mà                              vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỉ-kheo phải khuyên                              can đến lần thứ hai, thứ ba cho bỏ việc ấy. Khi                              khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba mà bỏ thì tốt,                              nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".                                                           Giải thích                               -                              Tăng hòa hợp: Không biệt chúng. Các                              Tỉ-kheo tuy có tranh cãi, nhưng vẫn nói chuyện với                              nhau, lại cùng ở trong một ranh giới, trong một                              chúng, một trú xứ, cùng Bố tát, tự tứ, đó gọi là                              Tăng hòa hợp.                              Thế                              thì, đến chừng mực nào mới gọi là phá sự hòa hợp của                              Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự? Ðó là:                              Nếu                              Tỉ-kheo đối với mười hai việc trong bài tựa của giới,                              4 pháp Ba La Di, 13 pháp Tăng Già Bà Thi Sa, 2 pháp                              Bất định, 30 pháp Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề, 92 pháp Ba Dạ                              Ðề, 4 pháp Ba La Ðề Ðề Xá Ni, pháp Chúng Học, 7 pháp                              Diệt Tránh, (283a) pháp Tùy thuận.v.v..., Phật không                              chế mà chế ra, Phật đã chế liền khuếch đại, đó gọi                              là phá sự hòa hợp của Tăng.                              Lại                              nữa, đối với các tội thuộc năm chúng, Phật không chế                              mà lại chế ra, Phật đã chế rồi đem khuếch đại, đó                              gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.                              Lại                              nữa, đối với các tội thuộc bốn chúng, Phật không chế                              mà chế ra, Phật đã chế mà khai mở, đó gọi là phá sự                              hòa hợp của Tăng.                              Lại                              nữa, đối với các tội của ba chúng, các tội của hai                              chúng, các tội của một chúng như 4 Ba La Di, Phật                              không chế mà lại chế ra, Phật đã chế mà khai mở, đó                              gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.                              Lại                              nữa, đối với sáu pháp "Tác xả"như:                              1- Yết                              ma chiết phục; 2- Yết ma không nói; 3- Yết ma phát                              hỉ; 4- Yết ma Tẫn Xuất; 5- Yết ma cử tội; 6- Yết ma                              biệt trú.                                                            Trong sáu pháp Yết ma tác xả này, những gì Phật                              không chế mà chế, những gì Phật đã chế bèn khai mở.                              Ðó gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.                              -                              Tỉ-kheo phá sự hòa hợp của Tăng: Như                              trường hợp Ðề Bà Ðạt Ða.                              -                              Các Tỉ-kheo: Hoặc một người, hoặc hai                              người, hoặc nhiều người, hoặc chúng Tăng.                              -                              Ba lần khuyên can: Ba lần khuyên can ở                              chỗ vắng, ba lần khuyên can ở chỗ nhiều người và ba                              lần khuyên can ở giữa chúng Tăng.                              -                              Ba lần khuyên can ở chỗ vắng: Chẳng hạn                              hỏi: "Trưởng lão! Ông có thật phá sự hòa hợp của                              Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, cho                              đến đối với mười hai đoạn trong bài tựa giới Kinh                              Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế mà khai mở                              chăng?"Nếu đáp: "Ðúng như vậy", thì vị Tỉ-kheo ấy                              bèn khuyên can: "Trưởng lão, ông chớ có phá sự hòa                              hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng                              sự, đối với mười hai đoạn trong bài tựa giới kinh                              Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế liền khai mở;                              phá Tăng là một tội lớn, sẽ đọa vào đường ác, rơi                              xuống địa ngục, chịu đau khổ lâu dài. Nay tôi có                              lòng từ khuyên can ông vì muốn được lợi ích. Ông hãy                              nghe lời tôi. Một lần khuyên can đã xong, còn hai                              lần nữa, ông có bỏ việc đó chăng?". Nếu không bỏ thì                              lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như thế. Rồi lại                              khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần cũng như vậy.                              Nếu vẫn không bỏ thì đem đến giữa chúng Tăng làm                              phép Yết ma cầu Thính như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp này vì muốn                              phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách                              để phá Tăng sự, đã khuyên can ở chỗ vắng ba lần,                              khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần vẫn không chấm                              dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay ở                              giữa Tăng hãy khuyên can ba lần để cho ông chấm dứt".                              Thế                              rồi, Tăng lại hỏi: "Trưởng lão, ông có thật vì muốn                              phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách                              để phá Tăng sự cho đến những gì Phật không chế, ông                              liền chế, những gì Phật đã chế, bèn khai mở chăng?"                              Nếu                              đáp: "Ðúng như thế", thì nên khuyên can: "Trưởng lão,                              nay chúng Tăng khuyên ông, đừng vì muốn phá sự hòa                              hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng                              sự, cho đến những gì Phật không chế, bèn chế; những                              gì Phật đã chế, bèn khai mở; phá Tăng là việc đại ác,                              tội lỗi rất nặng, phải chịu khổ đau lâu dài trong                              đường ác. Ngày nay chúng Tăng có lòng từ quở trách                              ông, ông hãy đình chỉ ngay việc đó". (283b) Nếu                              không bỏ thì phải khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba                              cũng như thế. Khi khuyên can như vậy, nếu bỏ thì tốt,                              nếu không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              -                              Tăng Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói.                              Khi                              vị Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ vắng một lần mà                              không bỏ, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Lần thứ hai, thứ                              ba cũng như thế. Khi khuyên can ở chỗ nhiều người,                              một lần mà không chấm dứt thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Lần thứ hai, thứ ba cũng như thế. Nhưng khi đến giữa                              Tăng khuyên can lần thứ nhất, nói chưa xong, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni; nói xong, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Khuyên can lần thứ hai, nói chưa xong thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni; nói xong thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khuyên can lần thứ ba, nói chưa xong, thì phạm tội                              Thâu Lan Giá; nói xong thì phạm tội Tăng Già Bà Thi                              Sa.  Tội                              Tăng Già Bà Thi Sa phát khởi từ lúc khuyên can ở chỗ                              vắng, khuyên can ở chỗ nhiều người và khuyên can                              giữa chúng Tăng. Tất cả các tội Việt Tỳ Ni, các tội                              Thâu Lan Giá gộp lại thành một tội Tăng Già Bà Thi                              Sa. Nếu giữa chừng mà đình chỉ, thì tùy theo chỗ                              đình chỉ để trị tội. Thế nên nói:                              "Nếu                              Tỉ-kheo vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì                              tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, cho đến ba lần                              khuyên can (ở giữa chúng Tăng) mà không bỏ, thì phạm                              tội Tăng Già Bà Thi Sa".                                                           (Hết giới Tăng tàn thứ 10)                                                           11. GIỚI: ÐỒNG LÕA VỚI NGƯỜI PHÁ TĂNG                              Khi                              Phật an trú tại thành Vương xá nói rộng như trên.                              Bấy giờ, các Tỉ-kheo tác pháp Yết ma cử tội Ðề Bà                              Ðạt Ða. Lần Yết ma đầu tiên xong, không có ai ngăn                              cản, đến lần Yết ma thứ hai chấm dứt, cũng không có                              ai ngăn cản. Nhưng đến lần Yết ma thứ ba, thì Ðề Bà                              Ðạt Ða nhìn vào mặt nhóm sáu Tỉ-kheo, nói như sau: "Này                              nhóm sáu Tỉ-kheo! Các ông từ lâu phụng sự ta, cùng                              cộng tác với ta, nay chúng Tăng làm Yết ma vạch tội                              ta đến lần thứ hai mà sao các ông vẫn im lặng? Ngày                              nay, các ông đem ta bỏ vào giữa đám đông giống như                              dùng sữa chua phết lên bún, rồi đem cho quạ, hoặc                              như dùng váng sữa bôi lên bánh, rồi đem cho Na Câu                              La, hoặc như dùng dầu trộn với cơm, rồi đem cho dã                              can. Người tu phạm hạnh trông thấy kẻ khác bị khốn                              đốn mà lại ngồi xem sao?"Lập tức nhóm sáu Tỉ-kheo                              liền đứng dậy nói với (người làm Yết ma): "Như vậy,                              như vậy đó trưởng lão. Vị Tỉ-kheo ấy nói đúng như                              pháp, nói đúng như luật. Ðiều gì Tỉ-kheo ấy nói thì                              chúng tôi đều chấp nhận cả, những ý kiến của Tỉ-kheo                              ấy chúng tôi cũng đều công nhận. Vị Tỉ-kheo ấy biết                              mới nói, chứ không phải không biết mà nói". Vì lúc                              ấy có nhiều người ngăn cản, nên Yết ma không thành.                              Thế rồi, các Tỉ-kheo bèn nói với nhóm Tỉ-kheo sáu                              người : "Các trưởng lão chớ trợ giúp Ðề Bà Ðạt Ða                              phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý, mà                              nên cộng tác với Tăng. Vì tất cả Tăng cần phải hòa                              hợp, hoan hỉ, không tranh cãi, cùng học một giới                              pháp, như nước hòa với sữa, (283c) điều gì như pháp                              thì nói là như pháp một cách rõ ràng, để được sống                              an lạc". Khuyên can lần thứ nhất như vậy mà không từ                              bỏ; họ bèn khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba, vẫn                              ngoan cố không từ bỏ. Thế nên, các Tỉ-kheo bèn đem                              nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền nói                              với các Tỉ-kheo: "Nhóm sáu Tỉ-kheo này cùng với Ðề                              Bà Ðạt Ða ngu si muốn phá hoại sự hòa hợp của Tăng,                              nên a dua, đồng ý với nhau, Tăng đã một lần, hai lần,                              ba lần khuyên can vẫn không từ bỏ. Vậy các ông hãy                              đi tới chỗ vắng khuyên can ba lần, rồi tới giữa chỗ                              đông người khuyên can ba lần; sau cùng đến giữa Tăng                              chúng khuyên can ba lần, khiến cho bỏ việc ấy".                              Tỉ-kheo lãnh giáo liền đi tới chỗ vắng hỏi nhóm sáu                              Tỉ-kheo: "Có thật chăng các ông cùng với Ðề Bà Ðạt                              Ða ngu si phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua, cùng                              đồng ý kết làm bè đảng, rồi các Tỉ-kheo đã ba lần                              khuyên can vẫn ngoan cố không từ bỏ?"...                               Họ                              đáp: "Ðúng như vậy".                               Các                              Tỉ-kheo liền khuyên can: "Này nhóm sáu Tỉ-kheo, chớ                              cấu kết với Ðề Bà Ðạt Ða để phá sự hòa hợp của chúng                              Tăng, rồi cùng a dua, cùng đồng ý. Các ông phải hợp                              tác với chúng Tăng. Vì tất cả chúng Tăng cần phải                              hòa hợp, hoan hỉ, không tranh cãi, cùng học một giới                              pháp, như nước hòa với sữa, điều gì như pháp thì nói                              là như pháp một cách rõ ràng, có vậy mới sống an lạc                              được. Các trưởng lão, phá sự hòa hợp của Tăng là tội                              ác rất lớn, sẽ đoạ vào ác đạo, rơi xuống địa ngục,                              chịu đua khổ lâu dài. Nay tôi vì từ tâm khuyên các                              ông, muốn cho các ông được lợi ích. Vậy phải nghe                              lời tôi. Một lần khuyên đã xong, còn hai lần khuyên                              nữa, các ông phải bỏ việc ấy đi". Nếu họ không bỏ,                              thì lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế. Rồi lại                              khuyên can ở giữa đông người ba lần, cũng như vậy.                              Nếu vẫn không từ bỏ, thì phải đến giữa Tăng làm pháp                              Yết ma cầu thính như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Nhóm sáu Tỉ-kheo này cùng                              với Ðề Bà Ðạt Ða phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua,                              cùng đồng ý với nhau, đã được khuyên can ba lần ở                              chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ đông người, vẫn                              ngoan cố không bỏ. Nếu thời gian thích hợp đối với                              Tăng, thì nên khuyên can ba lần ở giữa Tăng, khiến                              cho bỏ việc ấy".                              Thế                              rồi, thầy Yết ma hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật                              chăng các ông cùng với Ðề Bà Ðạt Ða phá sự hòa hợp                              của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý và đã được khuyên                              can ba lần ở chỗ vắng, được khuyên can ba lần ở chỗ                              đông người mà vẫn ngoan cố không bỏ?".                              Họ                              đáp: "Ðúng như vậy". Các Tỉ-kheo liền khuyên can: "Này                              nhóm sáu Tỉ-kheo! Các ông chớ cấu kết với Ðề Bà Ðạt                              Ða để phá sự hòa hợp của Tăng, rồi cùng a dua, cùng                              đồng ý. Vì phá sự hòa hợp của Tăng là tội ác rất lớn,                              sẽ đọa vào ác đạo, rơi xuống địa ngục, chịu đau khổ                              lâu dài. Nay Tăng có lòng từ khuyên can các ông là                              vì muốn cho các ông được lợi ích. Vậy hãy vâng lời                              chúng Tăng. Một lần khuyên can đã xong còn hai lần                              nữa, các ông hãy bỏ việc ấy". Nếu như không chấm dứt,                              thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như vậy. Thế                              nhưng họ vẫn ngoan cố không bỏ.                               Các                              Tỉ-kheo liền đem việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn.                              Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến, họ bèn đi                              gọi đến.                                Bấy                              giờ, Phật liền hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "(284a) Có thật                              các ông cùng với Ðề Bà Ðạt Ða ngu si cùng a dua,                              cùng đồng ý phá sự hòa hợp của Tăng, rồi các Tỉ-kheo                              đã khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ                              đông người ba lần, khuyên can giữa chúng Tăng ba lần                              mà vẫn không bỏ phải không?".                              Ðáp:                              "Có thật như vậy, bạch Thế Tôn!"                              Phật                              bèn khiển trách: "Này các Tỉ-kheo! Ðó là việc ác,                              các ông không thường nghe Ta dùng nhiều nhân duyên                              để chê trách tính ương ngạnh, khó khuyên bảo và dùng                              nhiều nhân duyên để khen ngợi tính nhu nhuyến dễ                              khuyên bảo hay sao? Các ông vì sao lại ương ngạnh                              khó khuyên bảo? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái                              lời Ta dạy; không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện                              pháp được".                               Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              nhóm sáu Tỉ-kheo cùng cấu kết với Ðề Bà Ðạt Ða cùng                              a dua, cùng đồng ý, để phải chịu đau khổ một cách                              oan uổng?".                               Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Nhóm sáu Tỉ-kheo này không                              những ngày nay cùng a dua, cùng đồng ý để phải chịu                              đau khổ oan uổng mà trong đời quá khứ cũng đã từng                              như vậy".                                Các                              Tỉ-kheo bèn hỏi Phật: "Ðã từng có như vậy sao? Xin                              Thế Tôn hãy nói về việc ấy".                              Phật                              bảo với các Tỉ-kheo: "Trong thời quá khứ tại thành                              Ba la nại, nước Già Thi có năm trăm con khỉ đột sinh                              sống trong rừng tại một nơi hoang vắng, rồi chúng du                              hành đến một cây Ni câu luật. Dưới cây này có một                              cái giếng. Trong giếng có bóng trăng hiện ra. Con                              khỉ đột chúa khi thấy bóng trăng ấy, liền nói với                              đồng bọn: "Mặt trăng hôm nay đã chết và rơi vào                              trong giếng, chúng ta phải cùng nhau vớt lên, chớ để                              thế gian sống mãi trong tăm tối".                               Thế                              rồi chúng cùng nhau bàn bạc: "Vớt lên bằng cách nào                              đây?".                                Ðoạn,                              khỉ đột chúa nói: "Ta biết cách đem lên. Ta nắm cành                              cây, các ngươi nắm đuôi ta, nối kết vào nhau, thì có                              thể vớt lên được".                               Thế                              rồi, các khỉ đột liền làm theo lời khỉ chúa, lần                              lượt nắm vào nhau, nhưng chưa tới nước mà vì một                              chùm khỉ quá nặng còn cành cây thì yếu ớt nên bị gãy                              tiện. Thế là, cả chùm khỉ đột đều rơi tõm vào trong                              giếng nước. Bấy giờ, thần cây liền đọc kệ:                              "Một                              bầy thú lẩn thẩn                              Bấy                              giờ, Phật liền nói với các Tỉ-kheo:"Con khỉ đột chúa                              thuở ấy, nay là Ðề Bà Ðạt Ða, còn bầy khỉ đột lúc                              bấy giờ, nay là nhóm sáu Tỉ-kheo này. Ngày xưa đã                              từng tùy thuận nhau mà chuốc lấy khổ não, rồi ngày                              nay cũng lại như thế".                              Ðoạn,                              Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành                              Vương xá phải tập họp lại tất cả, rồi vì mười lợi                              ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                                                           -- "Nếu Tỉ-kheo đồng ý tương trợ nhau, hoặc một,                              hoặc hai, hoặc nhiều người cùng nói, cùng ý kiến,                              muốn phá sự hòa hợp của Tăng (284b); khi các Tỉ-kheo                              khuyên can Tỉ-kheo ấy, thì Tỉ-kheo đồng bọn nói: "Các                              trưởng lão chớ nói về việc tốt xấu của Tỉ-kheo ấy,                              tại vì sao? Vì Tỉ-kheo ấy nói đúng pháp, nói đúng                              luật. Những lời nói của Tỉ-kheo ấy chúng tôi đều                              chấp nhận, những ý kiến và việc làm của Tỉ-kheo ấy                              chúng tôi đều chấp nhận. Tỉ-kheo ấy biết mới nói,                              chứ không phải không biết mà nói".                                                           Các Tỉ-kheo phải khuyên can Tỉ-kheo đồng tình này                              như sau: "Các trưởng lão chớ nên nói rằng: Tỉ-kheo                              ấy nói đúng pháp, nói đúng luật. Tại vì sao? Vì đó                              là Tỉ-kheo nói phi pháp, nói phi luật. Các trưởng                              lão chớ nên trợ giúp việc phá Tăng, mà nên vui vẻ                              tán trợ sự hòa hợp của Tăng. Tại vì sao? Vì Tăng hòa                              hợp, hoan hỷ, không tranh cãi, cùng học một giới,                              như nước hòa với sữa, điều gì đúng pháp thì nói là                              đúng pháp một cách rõ ràng thì mới sống an lạc. Các                              trưởng lão nên bỏ việc phá Tăng ấy đi".                                                           Nếu Tỉ-kheo đồng bọn khi được các Tỉ-kheo khuyên can                              mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỉ-kheo nên khuyên                              can lần thứ hai, thứ ba để ông ta bỏ việc ấy. Nếu                              khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba mà bỏ việc ấy thì                              tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".                                                           Giải thích                              -                              Tỉ-kheo: Ở đây chỉ cho Ðề Bà Ðạt Ða.                              -                              Tỉ-kheo cùng nói, cùng ý kiến: Chỉ cho                              nhóm sáu Tỉ-kheo.                              -                              Hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều người cùng nói,                              cùng ý kiến: Hoặc có khi cùng nói mà không                              cùng ý kiến, hoặc có khi cùng một ý kiến mà không                              cùng nói; hoặc có khi cùng nói cũng cùng ý kiến;                              hoặc có khi không cùng nói cũng không cùng một ý                              kiến.  -                              Cùng nói mà không cùng ý kiến: Dùng lời                              nói để trợ giúp nhau, nhưng không đồng ý kiến với                              người ấy; đó gọi là cùng nói mà không cùng một ý                              kiến.  -                              Cùng ý kiến mà không cùng nói: Cùng chung                              ý kiến với người ấy mà không nói giúp vào. Ðó gọi là                              cùng một ý kiến mà không cùng nói.                              -                              Cùng nói và cùng ý kiến: Hỗ trợ lời nói                              của người ấy, đồng thời cùng ý kiến với họ. Ðó gọi                              là cùng nói cùng ý kiến.                              -                              Chẳng cùng nói cũng chẳng cùng ý kiến:                              Không tán trợ lời nói của người ấy, cũng không cùng                              ý kiến. Ðó gọi là chẳng cùng nói cũng chẳng cùng ý                              kiến.                               Trong những trường hợp trên: Cùng nói chẳng cùng ý                              kiến và cùng nói cùng ý kiến, thì đáng khiển trách.                              -                              Cùng nói và cùng chung ý kiến: Ðối với                              mười hai pháp (mười hai đoạn của bài tựa giới kinh),                              Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế mà khai ra, đó                              gọi là cùng nói và cùng ý kiến. Lại nữa, đối với năm                              chúng tội, Phật không chế mà chế, Phật đã chế bèn                              khai ra; đối với bốn chúng, ba chúng, hai chúng và                              một chúng tội cũng thế, nghĩa là Phật không chế mà                              chế ra, Phật đã chế liền khai mở. Lại nữa, đối với                              sáu pháp "Tác xả", Phật không chế mà chế ra, Phật đã                              chế bèn khai mở. Ðó gọi là cùng nói cùng ý kiến.                              Trong trường hợp này, các Tỉ-kheo nên khuyên can                              thầy Tỉ-kheo ấy rằng: "Trưởng lão đừng tham dự vào                              việc phá sự hòa hợp của Tăng, rồi tìm đủ mọi cách để                              cùng nói và cùng đồng ý".                              -                              Trong khi các Tỉ-kheo khuyên can (284c) mà các                              Tỉ-kheo ấy vẫn kiên trì cố chấp vào việc đó:                              Ðó là nhóm sáu Tỉ-kheo.                              -                              Các Tỉ-kheo: Hoặc là Tăng, hoặc là nhiều                              người, hoặc là một người vậy.                              -                              Khuyên can ba lần: Khuyên can ở chỗ vắng                              ba lần, khuyên can ở giữa nhiều người ba lần và                              khuyên can giữa chúng Tăng ba lần.                              -                              Khuyên can ở chỗ vắng: Chẳng hạn nói: "Các                              trưởng lão có thật tham dự vào việc phá sự hòa hợp                              của Tăng, tạo phương tiện, cùng nói cùng chung ý                              kiến với người đó chăng?"                              Ðáp:                              "Có thật như vậy!"                              Lại                              nói: "Trưởng lão! Ông chớ có tham dự vào việc phá sự                              hòa hợp của Tăng, rồi tạo phương tiện cùng nói, cùng                              chung ý kiến với người đó. Vì phá Tăng là việc ác                              rất lớn, sẽ rơi vào đường ác, chịu đau khổ lâu dài.                              Tôi nay vì từ tâm khuyên can ông. Vậy ông nên bỏ                              việc đó đi. Lần khuyên can thứ nhất đã hết, còn hai                              lần khuyên can nữa". Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ                              thì lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. Khi                              khuyên can ở giữa nhiều người cũng như vậy. Rồi đến                              giữa Tăng ba lần Yết ma khuyên can mà vẫn không đình                              chỉ, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              -                             Tăng Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ vắng một lần mà                              không chấm dứt thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Lần thứ hai,                              thứ ba cũng như vậy. Ðược khuyên can ở chỗ nhiều                              người ba lần cũng như vậy. Nhưng nếu ở giữa Tăng làm                              Yết ma khuyên lần đầu chưa xong mà không chấm dứt,                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nhưng nếu nói xong (lần đầu)                              thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lần Yết ma thứ hai chưa                              xong mà không chấm dứt, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu                              nói xong, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lần Yết ma thứ                              ba chưa xong mà không chấm dứt, thì phạm tội Thâu                              Lan Giá. Nếu nói xong, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi                              Sa.  Tội                              Tăng Già Bà Thi Sa phát khởi từ khi khuyên can ba                              lần ở chỗ vắng (phạm tội Việt Tỳ Ni) ba lần ở giữa                              nhiều người (cũng phạm tội Việt Tỳ Ni) và ở giữa                              chúng Tăng phạm tội Thâu Lan Giá. Tất cả các tội ấy                              gộp lại thành một tội Tăng Già Bà Thi Sa. Nếu giữa                              chừng mà đình chỉ, thì tùy theo đình chỉ ở chỗ nào                              mà theo đó trị tội. Do đó đức Thế Tôn nói:                              "Nếu                              Tỉ-kheo đồng tình hỗ trợ nhau, hoặc một, hoặc hai,                              hoặc nhiều người cùng nói, cùng ý kiến, rồi được                              Tăng khuyên can ba lần vẫn không bỏ, thì phạm tội                              Tăng Già Bà Thi Sa".                                                            (Hết giới Tăng tàn thứ 11)                                                           12. GIỚI: NGOAN CỐ.                              Khi                              Phật an trú tại nước Câu xá Di, nói rộng như trên.                              Bấy giờ, trưởng lão Xiển Ðà ác tánh, khó nói chuyện                              với thầy. Các Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo,                              thì thầy nói một cách bướng bỉnh: "Các trưởng lão                              chớ nói tôi hoặc tốt hoặc xấu. Tôi cũng không nói                              các trưởng lão hoặc tốt hoặc xấu. Vì sao thế? Vì các                              ông đều là dòng họ tạp nhạp, còn tôi là con nhà quan;                              ví như chim, quạ ngậm những loại xương khác nhau                              cùng đậu tại một chỗ, thì làm sao khuyên bảo tôi về                              các việc Phật Pháp Tăng. Từ khi tôi chấp nhận theo                              Bồ tát xuất gia, tôi thường theo hầu ngài cho đến                              ngày nay, chỉ có Phật dạy tôi thì tôi mới vâng lời".                              Khi ấy các Tỉ-kheo bèn nói với Xiển Ðà: "Trưởng lão!                              Các Tỉ-kheo đã khéo nói về các việc vi phạm thuộc                              lãnh vực giới luật, (285a) thầy đừng có làm cho mình                              thành người không ai có thể nói chuyện được, thầy                              nên làm người có thể nói chuyện được. Trưởng lão!                              Thầy nên khuyên bảo các Tỉ-kheo đúng theo tinh thần                              của giới luật và các Tỉ-kheo cũng theo đúng tinh                              thần của giới luật mà khuyên bảo thầy. Vì sao vậy?                              Vì cùng nói chuyện, cùng bàn bạc, cùng khuyên nhủ,                              ai có tội thì cùng phát lồ, có như thế chúng đệ tử                              của Như Lai mới lớn mạnh. Trưởng lão hãy từ bỏ cái                              tật làm cho mình thành người không ai có thể nói                              chuyện được đó đi".                                                           Khuyên can lần thứ nhất như vậy mà không bỏ, rồi                              khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba cũng vẫn không bỏ,                              nên các Tỉ-kheo bèn đem nhân duyên ấy đến bạch Thế                              Tôn: "Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Xiển Ðà tự làm cho                              mình thành người không ai có thể nói chuyện được,                              cho đến khuyên can ba lần vẫn không bỏ". Phật nói                              với các Tỉ- kheo: "Ông Xiển Ðà này tự làm cho mình                              thành người không ai có thể nói chuyện được, cho đến                              khuyên can ba lần vẫn không bỏ. Vậy các ông phải đi                              đến chỗ vắng khuyên can ba lần. Nếu không bỏ, thì                              đến chỗ nhiều người khuyên can ba lần. Nhưng nếu vẫn                              không đình chỉ thì phải đến giữa chúng Tăng làm pháp                              Yết ma cầu thính, nên nói thế này:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Trưởng lão Xiển Ðà này có                              tính xấu, khó cùng nói chuyện. Các Tỉ-kheo như pháp                              khéo nói về các việc vi phạm thuộc lãnh vực giới                              luật mà thầy lại tự làm cho mình thành người không                              ai có thể nói chuyện được.                              Thế                              rồi đã được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can                              ở chỗ nhiều người ba lần vẫn không chấm dứt. Nếu                              thời gian thích hợp đối với Tăng, nay nên khuyên can                              ở giữa Tăng ba lần, khiến cho chấm dứt việc ấy".                              Rồi                              khuyên can ở giữa Tăng: "Trưởng lão Xiển Ðà! Có thật                              thầy có tính xấu khó cùng nói chuyện, rồi các                              Tỉ-kheo như pháp như luật khuyên bảo mà thầy vẫn tự                              làm cho mình thành người không ai có thể nói chuyện                              được, thậm chí đã được khuyên can ở chỗ vắng ba lần,                              ở chỗ nhiều người ba lần mà vẫn không chấm dứt phải                              không?" Nếu đáp: "Quả thật như vậy!", thì Tăng nên                              khuyên can: "Trưởng lão! Thầy không nên có tính xấu                              khó cùng nói chuyện, nay các Tỉ-kheo như pháp khéo                              nói về các việc vi phạm thuộc lãnh vực giới luật,                              thầy đừng có tự làm cho mình thành người không ai có                              thể nói chuyện được", cho đến: "Vì cùng nói chuyện,                              cùng bàn luận, cùng khuyên nhủ, ai có tội thì cùng                              xuất tội, có như thế chúng đệ tử của Như Lai mới lớn                              mạnh". Nay Tăng vì lòng từ khuyên can thầy là vì                              muốn được lợi ích. Một lần khuyên can đã xong, còn                              hai lần khuyên can nữa thầy nên đình chỉ việc ấy".                              Nếu như không bỏ, thì lần thứ hai, thứ ba cũng                              khuyên can như vậy. Thế nhưng thầy vẫn ngoan cố                              không chấm dứt. Do đó, các Tỉ-kheo liền đem việc ấy                              đến bạch với Thế Tôn. Phật bảo: "Gọi Xiển Ðà đến đây".                               Họ                              liền đi gọi đến. Rồi Phật hỏi Xiển Ðà: "Có thật ông                              có tính xấu khó cùng nói chuyện, thậm chí được                              khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không                              chấm dứt chăng?"Ðáp: "Có thật như vậy". Phật bèn                              khiển trách: "Xiển Ðà, đó là việc xấu. Há ông không                              thường nghe ta dùng nhiều nhân duyên để chê trách                              tính bướng bỉnh và khen ngợi tính không bướng bỉnh                              hay sao? Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời Ta                              dạy, không thể dùng (285b) việc đó để nuôi lớn thiện                              pháp".                               Thế                              rồi, các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn!                              Vì sao Tỉ-kheo Xiển Ðà này lại tự phụ nói rằng: "Chỉ                              có Phật dạy, tôi mới nghe lời?". Phật liền nói với                              các Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo Xiển Ðà này không những ngày                              nay không chịu nghe lời người khác, chỉ tin lời ta,                              mà trong thời quá khứ cũng đã từng như vậy".                               Các                              Tỉ-kheo lại bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao?                              Chúng con muốn được nghe, mong Thế Tôn hãy nói".                              Phật                              nói: "Ðúng như vậy! Trong thời quá khứ có một trưởng                              giả ở thành Ba La Nại, nước Già thi, ông ta có một                              đứa nô bộc tên A Ma Do tính tình hung ác. Bấy giờ,                              trưởng giả cùng với những cậu con trai của các Bà la                              môn du hí tại viên lâm, thì bọn người theo hầu đều ở                              cả bên ngoài cổng vườn. Khi ấy, A Ma Do đang ở ngoài                              cổng vườn liền đánh bọn người theo hầu. Lúc ấy, mọi                              người theo hầu đều báo lại với chủ mình. Thế rồi,                              những người con của các Bà la môn đều ra khiển trách                              y. Nhưng A Ma Do không nghe lời họ, mà trả lời với                              những người con của các Bà la môn rằng: "Ta không                              nghe lời các người. Khi nào chủ ta đến rầy la ta,                              thì ta mới chịu nghe lời". Rồi y tiếp tục đánh không                              ngừng. Họ liền đến báo với chủ của A Ma Do. Chủ của                              A Ma Do bình sinh có thiên nhãn, ông quan sát thấy                              dưới chỗ đánh nhau có kho tàng vàng bạc, vì hung khí                              của chất vàng bạc nên khiến chúng đánh nhau. Do vậy,                              ông bèn đến đó, la rầy tên nô bộc. Vì vậy, y mới                              dừng lại".                               Bấy                              giờ, Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Ông trưởng giả                              thuở ấy đâu phải ai khác mà chính là Ta đây, còn A                              Ma Do lúc đó, thì nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà". Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              ông Xiển Ðà này ỷ thế Thế Tôn lăng mạ người khác?".                               Phật                              nói: "Này các Tỉ-kheo! Tỳ kheo Xiển Ðà không những                              ngày nay ỷ thế Ta khinh thường người khác mà trong                              thời quá khứ cũng đã từng ỷ thế Ta khinh thường                              người khác rồi".                               Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao?".                              Phật                              nói: "Ðúng như vậy. Trong thời quá khứ tại thành Ba                              La Nại, nước Già Thi có một Bà la môn học rộng tên                              là Phất Lô Ê làm quân sư cho nhà vua. Ông thường dạy                              năm trăm đồng tử học tập. Khi ấy, kẻ gia nô của ông                              vừa sinh được một bé trai tên là Ca La Ha. Chủ nhà                              sai y phục dịch cho các đồng tử. Theo phép tắc của                              Bà la môn thì những chủng tộc khác không được phép                              nghe (những giáo lý của họ), nhưng vì tên nô bộc này                              gần gũi cung phụng các đồng tử, nên được ở gần họ.                              Do đó, khi Bà la môn dạy các đồng tử, thì tên nô bộc                              sáng dạ này ghi nhớ hết những điều ông giảng dạy.                              Thế rồi, một hôm, y có chút xích mích với các đồng                              tử, bèn bỏ sang nước khác, mạo xưng mình là con trai                              của Bà la môn Phất Lô Ê, (285c) tên Da Nhã Ðạt Ða,                              và nói với Bà la môn quân sư của quốc vương đó rằng:                              "Tôi là con trai của Phất Lô Ê, quân sư của quốc                              vương Ba la nại, vừa mới đến đây, muốn theo đại sư                              học giáo pháp của Bà la môn".                               Thầy                              trả lời rằng: "Có thể được!". Tên nô bộc này bản                              tính thông minh, trước đã từng nghe, nay được nghe                              lại nên nghe đâu nhớ đó. Thế nên ông thầy rất vui,                              bèn nói với y: "Ta có việc phải đi đến nhà vua, vậy                              ngươi hãy thay mặt ta dạy dỗ năm trăm đồng tử môn đồ".                               Vì                              ông thầy Bà la môn này không có con trai mà chỉ có                              một cô con gái, nên suy nghĩ: "Nay ta có thể gả con                              gái cho Da Nhã Ðạt Ða, vì nó ở trong nhà ta cũng như                              con trai ta".                               Nghĩ                              thế, liền nói: "Da Nhã Ðạt Ða hãy nghe ta nói đây!".                               Ðáp:                              "Xin vâng lời!".                               Thầy                              liền nói: "Ngươi chớ trở về Ba la nại mà hãy ở lại                              nước này. Nay ta sẽ gả con gái ta cho ngươi". Ðáp: "Xin                              vâng lời".                               Ông                              bèn gả con. Cô gái này cùng sống với chồng tại nhà                              mình, khiến gia đình dần dần trở nên giàu có. Nhưng                              Da Nhã Ðạt Ða vốn là con người khó tính, cô vợ làm                              thức ăn chua ngọt, mặn nhạt, sống chín không thể nào                              vừa miệng y, cho nên y thường ôm lòng tức giận. Thấy                              thế, cô vợ thường suy nghĩ: "Phải chi có người nào                              từ Ba la nại đến, ta sẽ theo họ học phương pháp nấu                              ăn, rồi ta áp dụng nấu nướng cung phụng chồng ta".                              Ông                              Bà la môn Phất Lô Ê nghe được sự tình ấy, liền suy                              nghĩ: "Tên nô bộc Ca La Ha của ta đã trốn sang nước                              khác, ta phải đến đó bắt về, may ra được lại nó".                              Thế rồi, ông đi đến nước ấy. Lúc bấy giờ, Da Nhã Ðạt                              Ða cùng các học trò đang đi đến công viên dạo chơi,                              giữa đường y bỗng thấy chủ cũ từ xa, nên hoảng sợ,                              nói nhỏ với môn đồ: "Này các đồng tử! Các người hãy                              trở về, ai nấy lo việc học bài".                               Khi                              các học trò đi rồi, y bèn đến trước mặt chủ, cúi đầu                              đảnh lễ dưới chân, bạch với chủ rằng: "Con đến nước                              này nói với họ rằng đại gia là phụ thân con, rồi tôn                              vị quốc sư là Bà la môn học rộng làm thầy để học các                              Kinh điển cao cấp. Thầy Bà la môn ấy bèn đem con gái                              gả cho con làm vợ. Hiện giờ mong đại gia chớ nói rõ                              sự thật của con. Con sẽ phụng sự đại gia như đầy tớ                              đối với chủ".                               Ông                              Bà la môn này vốn là người hiểu rõ sự đời, liền đáp:                              "Ngươi thật là con ta, hà tất phải nhiều lời. Nhưng                              phải tạo điều kiện để ta trở về sớm". Tên đầy tớ bèn                              đưa ông về nhà giới thiệu với mọi người trong nhà: "Phụ                              thân tôi vừa mới đến".                                                            Người vợ rất vui mừng, bèn sửa soạn các thức ăn uống                              dâng lên thiếch đãi. Sau khi ăn xong, lựa lúc nhàn                              rỗi, cô bèn lén đảnh lễ dưới chân Bà la môn, hỏi                              rằng: "Con phụng sự chồng con là Da Nhã Ðạt Ða,                              thường dâng các thức ăn uống, nhưng chàng không vừa                              ý, (286a) xin đại gia chỉ dạy. Lúc còn ở nhà chồng                              con thường ăn những thứ gì, để con làm các thức ẩm                              thực giống như khi trước".                                                            Khách Bà la môn bèn nổi giận, nhưng kiềm chế, suy                              nghĩ: "Cái thằng chết bầm, làm khốn khổ con gái                              người ta như thế đó!", bèn nói với cô ấy: "Con hãy                              sắp đặt cho ta trở về sớm, đến lúc sắp đi, ta sẽ dạy                              con một bài kệ. Khi con đọc kệ ấy, sẽ khiến chồng                              con không thể nói nữa".                               Ðoạn,                              cô ta bèn nói với chồng: "Ông cụ Bà la môn từ xa đến,                              vậy hãy sớm tiễn ông ta trở về".                               Anh                              chồng liền suy nghĩ: "Ðúng như vợ ta nói, phải sớm                              tiễn ông ta trở về, không khéo ở lâu ngày lỡ nói                              năng sơ suất, sẽ tổn hại đến ta không ít".                               Rồi                              anh ta xuất ra nhiều tiền đưa cho vợ bảo sắm thức ăn                              và đích thân cung phụng để mua chuộc tình cảm của                              chủ. Sau khi dâng thức ăn xong, cô vợ bèn đảnh lễ từ                              biệt ông già và xin bài kệ ông đã hứa trước kia. Ông                              liền đọc bài kệ để dạy cho cô:                              "Cô                              độc tới tha phương                              Rồi                              bảo: "Nay ta dạy con bài kệ này, nếu khi nào nó giận                              dữ chê thức ăn dở, thì con hãy đứng gần nó, quay                              lưng lại, đọc nhỏ cho nó nghe".                               Dạy                              như thế rồi, ông bèn trở về lại bản quốc. Khi Da Nhã                              Ðạt Ða tiễn chủ đi rồi, mỗi lần đến bữa ăn, y lại                              nổi giận. Cô vợ bèn đứng bên cạnh chồng đọc lên bài                              kệ ấy. Khi y nghe kệ rồi, lòng thấy không vui, liền                              suy nghĩ: "Ôi! Ông già quái ác này, phanh phui                              chuyện xấu của ta".                               Thế                              nên, từ đó trở đi, y thường nói năng nhã nhặn, vì sợ                              cô vợ nói với người khác về sự ám muội của mình.                              Bấy                              giờ, Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Bà la môn Phất                              Lô Ê của nước Ba La Nại thuở ấy nào phải là ai khác                              mà chính là Ta đây, còn tên nô bộc Ca La Ha lúc ấy                              thì nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà vậy. Thuở ấy, Y đã từng ỷ                              thế Ta mà lăng mạ người khác, thì nay y lại ỷ thế Ta                              mà khinh miệt tha nhân".                              Ðoạn                              Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại Câu Xá Di                              phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải                              nghe lại và chế giới:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo nói những lời hung ác, rồi được các                              Tỉ-kheo như pháp như luật khuyên can, bèn nói một                              cách bướng bỉnh: "Các ông chớ nói với tôi hoặc tốt                              hoặc xấu, tôi cũng không nói với các ông hoặc tốt                              hoặc xấu", thì các Tỉ-kheo phải khuyên can Tỉ-kheo                              này rằng: "Trưởng lão! Các Tỉ-kheo như pháp như luật                              khuyên bảo, thầy chớ có bướng bỉnh mà nên vâng lời.                              Thầy cũng như pháp như luật mà khuyên bảo các                              Tỉ-kheo. Vì sao vậy? Vì các đệ tử của đức Như Lai có                              chỉ bảo lẫn nhau, khuyên can lẫn nhau. Ai có tội thì                              cùng (286b) phát lồ, thì thiện pháp mới tăng trưởng".                                                           Khi các Tỉ-kheo khuyên can Tỉ-kheo ấy nên bỏ việc đó,                              nhưng nếu không bỏ thì phải khuyên can đến lần thứ                              hai, thứ ba. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm                              tội Tăng Già Bà Thi Sa".                                                           Giải thích                              -                              Tỉ-kheo dùng những lời nói bướng bỉnh:                              Chỉ cho Tỉ-kheo Xiển Ðà.                              -                              Các Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo:                              Ðó là: Bài tựa của giới, bốn pháp Ba La Di, mười ba                              pháp Tăng Già Bà Thi Sa, hai pháp Bất Ðịnh, ba mươi                              pháp Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề, chín mươi hai pháp Ba Dạ Ðề,                              bốn pháp Ba La Ðề Ðề Xá Ni, pháp Chúng học, bảy pháp                              Diệt Tránh, pháp Tùy Thuận; dùng các pháp luật này                              mà khuyên bảo lẫn nhau. Lại dùng năm Chúng Tội, bốn                              chúng tội, ba Chúng Tội, hai Chúng Tội, một Chúng                              Tội và sáu pháp Tác Xả để khuyên bảo lẫn nhau. Lại                              dùng các tội Ba La Di, Tăng Già Bà Thi Sa, Ba Dạ Ðề                              cho đến tội Việt Tỳ Ni, có thật chứ không phải không                              có thật, đúng lúc chứ không phải không đúng lúc, có                              lợi ích chứ không phải không có lợi ích, nói nhã                              nhặn chứ không phải nói thô lỗ, vì từ tâm chứ không                              phải cố ý vạch lỗi; đó gọi là như pháp, như luật                              khuyên bảo lẫn nhau.                              -                              Thầy Tỉ-kheo ấy: Tức là Xiển Ðà.                              -                              Các Tỉ-kheo: Ðó là một người, nhiều người                              và chúng Tăng.                              -                              Ba lần khuyên can: Khuyên can ba lần ở                              chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ nhiều người, và                              khuyên can ba lần ở giữa chúng Tăng.                              -                              Chỗ vắng: Người khuyên can ở chỗ vắng nên                              hỏi như sau: "Trưởng lão! Thầy có thật dùng những                              lời nói ngang bướng, rồi các Tỉ-kheo như pháp, như                              luật khuyên can, thì thầy tỏ ra ương ngạnh                              chăng?"Nếu đáp: "Có thật như vậy", thì liền khuyên                              can: "Trưởng lão! Thầy chớ có dùng những lời nói                              ngang bướng. Khi các Tỉ-kheo như pháp, như luật                              khuyên can thì thầy nên nghe lời, thầy chớ có tỏ ra                              ương ngạnh..., cho đến "khuyên bảo lẫn nhau thì                              thiện pháp được tăng trưởng. Tôi nay vì lòng từ                              khuyên bảo thầy nên bỏ việc ấy đi. Một lần khuyên                              can đã xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu không                              bỏ, thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như thế.                              Rồi lại khuyên can ở chỗ nhiều người cũng như thế.                              Nhưng nếu vẫn                              không chấm dứt, thì phải đem đến giữa Tăng làm pháp                              Yết ma cầu thính, tác bạch như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Thầy Tỉ-kheo mổ giáp này                              dùng những lời nói ngang bướng, rồi các Tỉ-kheo như                              pháp, như luật khuyên bảo vẫn không nghe lời. Ông đã                              được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người                              ba lần mà vẫn không chấm dứt. Nếu thời gian thích                              hợp đối với Tăng, nay nên khuyên can ở giữa Tăng ba                              lần khiến cho thầy chấm dứt việc ấy".                              Bấy                              giờ, Tăng liền hỏi: "Trưởng lão có thật dùng những                              lời nói ngang bướng, rồi các Tỉ-kheo như pháp, như                              luật khuyên bảo mà không nghe lời, lại được khuyên                              can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà                              vẫn ngoan cố không nghe lời phải không?" (286c) Nếu                              đáp: "Có thật như vậy", thì Tăng nên khuyên can: "Trưởng                              lão chớ có tỏ ra ương ngạnh. Các Tỉ-kheo đã như pháp,                              như luật khuyên can, cho đến "khuyên bảo lẫn nhau                              thì thiện pháp được tăng trưởng". Nay Tăng vì lòng                              từ khuyên can thầy là muốn được lợi ích, vậy thầy                              nên nghe lời chúng Tăng mà bỏ việc ấy đi. Tăng                              khuyên can một lần đã xong, còn hai lần khuyên can                              nữa". Nếu không chấm dứt thì phải khuyên can đến lần                              thứ hai, thứ ba, nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì                              phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              -                              Tăng Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói. Nếu                              Tỉ-kheo ấy đã được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở                              chỗ nhiều người ba lần mà không chấm dứt thì mỗi lần                              khuyên can phạm mỗi tội Việt Tỳ Ni. Khi khuyên can ở                              giữa Tăng lần đầu chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni,                              khi Yết ma lần đầu xong thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi Yết ma lần thứ hai chưa xong cũng phạm tội Việt                              Tỳ Ni, và khi xong thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nhưng                              khi Yết ma lần thứ ba chưa xong thì phạm tội Thâu                              Lan Giá và khi nói xong thì phạm tội Tăng Già Bà Thi                              Sa.  Tội                              Tăng Già Bà Thi Sa khởi đi từ lúc khuyên can ở chỗ                              vắng, cho đến khuyên can ở giữa chúng Tăng có các                              tội Việt Tỳ Ni, Thâu Lan Giá, gộp tất cả các tội ấy                              thành một tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              Nếu                              trường hợp đình chỉ nửa chừng, thì tùy theo đình chỉ                              ở chỗ nào trị tội ở chỗ đó. Thế nên đức Thế Tôn nói:                              "Nếu                              Tỉ-kheo tự mình nói những lời ngang bướng, cho đến                              khuyên can ba lần mà không bỏ thì phạm tội Tăng Già                              Bà Thi Sa".                                                           (Hết giới Tăng tàn thứ 12)                                                              13. GIỚI: LÀM MẤT LÒNG TIN CỦA TÍN ÐỒ.                              Khi                              Phật an trú tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy                              giờ, nhóm sáu Tỉ-kheo ở tại thôn Ca Thi Hắc Sơn làm                              các việc trái oai nghi: thân trái oai nghi, miệng                              trái oai nghi, thân miệng trái oai nghi.                              - Thân                              trái oai nghi: Hoặc chạy đi, chạy lại, hoặc nhảy                              nhót, đi lẩn quẩn, đi xà lui, đi khúm núm, hoặc gõ                              bồn cười đùa, hoặc cõng nhau, dùng cái thân làm các                              trò đùa như thế gọi là thân trái oai nghi.                              -                              Miệng trái oai nghi: Giả tiếng voi kêu, lạc đà kêu,                              trâu rống, dê kêu, tiếng ngắn, tiếng dài, hoặc vểnh                              tai lên nghe; tạo ra các âm thanh như thế để đùa cợt.                              - Thân,                              miệng trái oai nghi: Vẽ loang lổ trên mình, nửa bên                              trắng, bôi mặt đen, nhuộm tóc trắng, nhịp trống đánh                              đàn, gõ nhịp nhảy múa.v.v...                              Bấy                              giờ, các Ưu bà tắc đi đến các Tỉ-kheo muốn lễ bái,                              nghe pháp, trông thấy việc như thế nên lòng không                              vui, liền nói: "Thưa thầy! Pháp của Sa môn là làm                              các việc thiện, khiến cho những người không tin sinh                              niềm tin, những người đã tin càng thêm tin tưởng, mà                              nay các thầy làm đều phi pháp, chỉ làm cho người                              không tin càng thêm bất tín, người đã tin thêm tổn                              hại".                                Nhóm                              sáu Tỉ-kheo liền nổi giận nói: "Ngươi là thầy Ta, là                              Hòa thượng của ta chắc! (287a) Ðó là điều nghịch lý.                              Lẽ ra ta phải dạy bảo ngươi, trái lại ngươi lại dạy                              bảo ta!". Sự giận dữ ấy càng tăng mạnh, làm cho thân                              tổn hại, thân miệng tổn hại.                              - Thân                              tổn hại: Họ đi vào nhà Ưu bà tắc lôi mấy đứa bé ra                              vả tát, đánh đấm, đập vỡ đồ dùng, bẽ gãy chân bò                              nghé, đâm thủng mắt dê, rồi vào trong cửa hàng của                              họ tại chợ đổ lộn xà ngầu các thứ: Thóc gạo, tiểu                              mạch, đại mạch, muối, bún, sữa, dầu, sữa chua không                              còn phân biệt được nữa. Rồi họ ra ngoài đồng ruộng,                              những đám lúa non cần nước thì họ xả nước cho khô,                              những đám không cần nước thì họ xả nước vào cho ngập,                              cắt phá lúa non, đốt cháy lúa chín. Ðó gọi là thân                              tổn hại.                               -                              Miệng tổn hại: Ði đến nhà vua dèm pha người tốt, vu                              cáo kẻ lương thiện. Ðó gọi là miệng tổn hại.                               - Thân                              miệng tổn hại: Núp vào chỗ khuất để hù nhát người                              khác, lôi kéo kẻ vô tội. Ðó gọi là thân miệng tổn                              hại.  Do                              thế, các Ưu bà tắc nổi giận nói: "Sa môn con dòng họ                              Thích mà làm các việc phi pháp, từ nay trở đi chúng                              ta đừng cúng dường cho họ nữa".                              Bấy                              giờ, Tỉ-kheo ấy cầm bát đi khất thực, gia đình kia                              trông thấy thầy, vẫn cho thức ăn như trước nên không                              đến nỗi vất vả lắm. Thấy thế, các Ưu bà tắc bèn giao                              ước với nhau: "Sa môn con dòng họ Thích đã làm việc                              bạo ác như thế, từ nay chúng ta đừng cho họ vào cửa                              nữa". Thế rồi, Tỉ-kheo ấy bèn đến những nhà không có                              tín tâm khất thực. Ban đầu họ vẫn cho thức ăn, nhưng                              sau đó họ nghe các Ưu bà tắc cắt đứt không cho thức                              ăn nữa, họ nghĩ: "Nhất định đó là kẻ ác, vì sao ta                              lại cho thức ăn?". Do đó họ không cho vào cửa nữa.                              Vì                              vậy các Tỉ-kheo ấy bèn làm các việc thân tà mạng,                              khẩu tà mạng, thân khẩu tà mạng.                              - Thân                              tà mạng: Làm bình đựng nước, làm đồ dùng bằng gỗ để                              bán, làm bình đựng sữa, làm túi da, dệt sợi, đan                              lưới, may áo, học làm bánh rồi đem bán, học bán                              thuốc, làm liên lạc cho người, làm các việc như vậy                              để mưu sinh, đó gọi là thân tà mạng.                              - Khẩu                              tà mạng: Tụng đọc các chú thuật, như chú rắn, chú                              rồng, chú quỉ, chú bệnh, chú nước, chú lửa.v.v..,                              làm các việc như vậy để mưu sinh, đó gọi là khẩu tà                              mạng.  - Thân                              khẩu tà mạng: Tay tự nhiên bốc lửa, miệng niệm chú                              thuật, tay rưới sữa dầu, rải tung những hạt cải, làm                              các việc như vậy để mưu sinh, đó gọi là thân khẩu tà                              mạng.  Bấy                              giờ, các Ưu bà tắc ở thôn Hắc Sơn đi đến thành Xá vệ                              để giải quyết các việc quan. Sau khi xong việc, họ                              bèn đi đến Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng                              qua một bên, bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Chúng con                              là những Ưu bà tắc tại thôn Hắc Sơn. Nhóm sáu                              Tỉ-kheo ở tại thôn này làm những việc phi pháp (nói                              rõ như trên), kính xin Thế Tôn hãy kiềm chế họ,                              khiến họ không ở thôn này nữa thì tốt".                                                           (287b) Bấy giờ Thế Tôn tùy thuận thuyết pháp dạy dỗ                              các Ưu bà tắc, khiến họ được lợi ích, hoan hỉ, rồi                              họ đảnh lễ mà đi. Thế rồi, đức Thế Tôn bảo A Nan: "Ông                              hãy đến thôn Hắc Sơn làm pháp Yết ma khu xuất nhóm                              sáu Tỉ-kheo".                               A                              Nan liền bạch với Phật: "Con không dám đi".                               Phật                              hỏi: "Vì cớ gì?".                               A                              Nan đáp: ‘ Bạch Thế Tôn! Nhóm sáu Tỉ-kheo tính tình                              thô tháo, hung bạo, nếu con đến đó thì cũng giống                              như các nông phu trồng mía đang chở mía từ ruộng về                              nhà, bỗng gặp lũ trẻ từ trong xóm đi ra, rồi chúng                              chạy ùa lại giựt lấy mía mà tìm một chỗ khuất để ăn.                              Nhóm sáu Tỉ-kheo này cũng như vậy. Nếu nghe con đến,                              ắt họ sẽ đón đường con làm những việc phi pháp; hoặc                              làm pháp Yết ma khu xuất con. Thế nên con khó mà đi                              được".                                Phật                              liền bảo A Nan: "Vậy thì ông hãy đi cùng với ba mươi                              người nữa, thì có thể chiết phục được họ".                              Khi                              ấy, A Nan cùng với ba mươi người thứ tự trước sau đi                              đến thôn Hắc Sơn. Lại có ba mươi Tỉ-kheo khác nghe                              tôn giả A Nan tới thôn Hắc Sơn, bèn bảo nhau: "Tôi                              chưa từng nghe pháp Yết ma khu xuất, vậy chúng ta                              nên theo A Nan đến thôn ấy để nghe pháp Yết ma khu                              xuất". Thế rồi, họ kết hợp với ba mươi người trước                              thành ra sáu mươi Tỉ-kheo, một đoàn vui vẻ cùng đi.                              Khi                              ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo nghe tôn giả A Nan với sáu mươi                              người nữa cùng kết làm bè bạn đi đến làm pháp Yết ma                              khu xuất họ, nên họ đâm ra sợ hãi. Do vậy Tam Văn Ðà                              Ðạt Ða, Ma Ê Sa Ðạt Ða bèn chạy tới thôn Vương Ðạo;                              còn trưởng lão Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di đi một do                              tuần để đón tiếp tôn giả A Nan và sám hối rằng: "Trưởng                              lão! Những việc làm của chúng tôi là bất thiện, phạm                              các tội lỗi, từ nay trở đi chúng tôi không dám tái                              phạm nữa". Lúc bấy giờ, Tăng chúng nhận sự sám hối                              ấy, rồi tôn giả A Nan đi tiếp đến thôn ấy. Ở đây,                              ngoài hai người đã sám hối xong, hai người chạy trốn,                              còn những người khác đang ở đó, tôn giả bèn làm pháp                              Yết ma khu xuất. Vì đức Thế Tôn không cho phép chúng                              (Tăng) làm Yết ma với chúng (Tăng) mà chỉ cho phép                              chúng Tăng làm Yết ma với hai, ba người mà thôi. Khi                              làm Yết ma, người làm Yết ma phải nói như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Các Tỉ-kheo mổ giáp này ở                              tại thôn này, thường có những hành vi trái oai nghi                              mà không chấm dứt, người đạo kẻ tục đều biết cả. Nếu                              thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nên làm Yết                              ma khu xuất các Tỉ-kheo mỗ giáp có hành vi trái oai                              nghi này".                              Rồi                              bạch như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Các trưởng lão Tỉ-kheo mỗ                              giáp kia thường có các hành vi trái oai nghi mà                              không chấm dứt, kẻ đạo người tục đều biết. Nay Tăng                              làm pháp Yết ma khu xuất các Tỉ-kheo mỗ giáp ấy. Các                              đại đức nào đồng ý thì im lặng (287c), ai không đồng                              ý hãy nói".                              Khi                              Yết ma xong lần thứ nhất tiếp đến làm Yết ma lần thứ                              hai, thứ ba cũng nói như thế. Cuối cùng kết thúc:                              "Tăng                              đã làm xong pháp Yết ma khu xuất các Tỷkheo mổ giáp                              có các hành vi trái oai nghi, vì Tăng đã đồng ý nên                              im lặng. Việc này cứ theo đó mà thi hành".                              Các                              pháp Yết ma miệng trái oai nghi cũng làm như thế.                              Ðồng thời, thân tổn hại, miệng tổn hại, thân miệng                              tổn hại cũng làm như thế. Thân tà mạng, miệng tà                              mạng, thân miệng tà mạng cũng như thế.                              Sau                              khi nói ba lần Yết ma, các Tỉ-kheo trong nhóm sáu                              Tỉ-kheo bị khu xuất bèn nói với các Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo                              Xiển Ðà, Tỉ-kheo Ca Lưu Ðà Di cũng làm điều phi pháp,                              vì sao chỉ đuổi chúng tôi mà không đuổi họ?". Chúng                              Tăng bèn nói với mấy người đó: "Vì hai Tỉ-kheo ấy đã                              đi một do tuần nghinh đón chúng Tăng mà sám hối và                              chúng Tăng đã nhận sự sám hối của họ. Còn Tam Văn Ðà                              Ðạt Ða và Ma Ê Sa Ðạt Ða thì đã chạy sang thôn Vương                              Ðạo trốn thoát. Trong khi các ông hiện diện nơi đây,                              đã không nghinh đón chúng Tăng để sám hối, cũng                              không bỏ chạy, cho nên phải làm Yết ma khu xuất".                               Họ                              lại nói: "Thưa trưởng lão! Tăng nay tùy thương, tùy                              giận, tùy sợ và tùy si, cùng có tội như nhau mà kẻ                              thì bị đuổi đi, người thì không đuổi". Các Tỉ-kheo                              bèn khuyên can: "Trưởng lão chớ đem điều phi lý mà                              hủy báng Tăng. Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy                              sợ và tùy si, cũng không phải đối với những người                              đồng tội mà có người thì đuổi đi, người thì không                              đuổi đi".                                Khi                              các Tỉ-kheo khuyên can như vậy mà họ vẫn ngoan cố                              không chấm dứt, nên phải khuyên can đến lần thứ hai,                              thứ ba, thế nhưng họ vẫn kiên trì không chấm dứt.                              Bấy giờ tôn giả A Nan bèn tùy thuận thuyết pháp cho                              các Ưu bà tắc khiến họ hoan hỉ cúng dường chúng Tăng                              trở lại như trước. Rồi tôn giả cùng đại chúng chuẩn                              bị trở về lại Xá Vệ.                              Khi                              ấy các Tỉ-kheo bèn thưa với tôn giả A Nan: "Nay Tăng                              trở về hết, thì cảnh Già Lam này giao cho ai trông                              coi?".                                A                              Nan hỏi: "Thế thì nên để ai ở lại trông coi?".                               Các                              Tỉ-kheo nói: "Nên để trưởng lão Xiển Ðà ở lại".                               A                              Nan lại nói: "Xiển Ðà trước đây đã có lỗi khiến                              người ta không tin, làm sao có thể ở lại được?".                               Tôn                              giả bèn bổ nhiệm một Tỉ-kheo khác, rồi trở về thành                              Xá Vệ, đảnh lễ chân Thế Tôn, đứng hầu một bên. Thế                              Tôn biết nhưng vẫn hỏi: "A Nan! Các ông đã làm pháp                              Yết ma khu xuất tại thôn Hắc Sơn xong rồi ư?".                              Ðáp:                              "Ðã làm xong, bạch Thế Tôn! Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca                              Lưu Ðà Di đi cả một do tuần nghinh đón chúng Tăng để                              sám hối, còn Tam Văn Ðà Ðạt Ða và Ma Ê Sa Ðạt Ða thì                              chạy đến thôn Vương Ðạo. Ngoài ra, các Tỉ-kheo khác                              không tới sám hối, cũng không bỏ chạy, nên chúng                              Tăng đã làm Yết ma khu xuất. Thế nhưng, họ thấy Xiển                              Ðà và Ca Lưu Ðà Di không bị (288a) khu xuất, nên đã                              hủy báng chúng Tăng một cách phi lý rằng: "Tăng tùy                              thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cùng phạm tội                              như nhau mà có người thì đuổi đi, người thì không                              đuổi".                                Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Nếu nhóm sáu Tỉ-kheo vô lý hủy                              báng chúng Tăng rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận,                              tùy sợ và tùy si, cùng phạm tội như nhau mà có người                              thì đuổi đi, có người thì không đuổi", thì các ông                              nên khuyên can ở chỗ vắng ba lần, chỗ nhiều người ba                              lần, rồi đến giữa chúng Tăng khuyên can ba lần,                              khiến cho họ bỏ việc ấy.                               Khi                              ở chỗ vắng nên hỏi: "Các ông vì phân bì với Tỉ-kheo                              Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di mà vô lý hủy báng chúng Tăng                              rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si,                              cùng phạm tội như nhau mà có người thì đuổi đi, có                              người thì không đuổi", có phải thế chăng?".                               Nếu                              đáp: "Có thật như vậy", thì nên khuyên can ở chỗ                              vắng rằng: "Trưởng lão! Chớ vô lý hủy báng chúng                              Tăng. Vì sao vậy? Vì chúng Tăng không tùy thương,                              tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với                              những người cùng phạm tội mà có người thì đuổi, có                              người thì không đuổi. Các ông chớ nói rằng chúng                              Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Trưởng                              lão! Nay tôi vì lòng từ khuyên can các ông là vì                              muốn được lợi ích, vậy hãy bỏ việc ấy đi. Một lần                              khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu                              họ không bỏ, thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can                              như vậy. Rồi khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần.                              Nhưng nếu vẫn không chấm dứt, thì nên đến giữa chúng                              Tăng làm pháp Yết ma cầu thính.                                                           Người làm Yết ma nên nói như sau:                              "Ðại                              đức Tăng xin lắng nghe! Nhóm sáu Tỉ-kheo này đã vô                              lý hủy báng chúng Tăng, rồi đã được khuyên can ở chỗ                              vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà                              vẫn không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với                              Tăng, nay ở giữa chúng Tăng nên khuyên can ba lần                              khiến họ chấm dứt việc ấy".                              Thế                              rồi ở giữa chúng Tăng hỏi các Tỉ-kheo ấy: "Các ông                              có thật vô lý hủy báng Tăng, rồi được khuyên can ba                              lần ở chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ nhiều người                              mà vẫn không chấm dứt chăng?".                               Nếu                              đáp: "Có thật như vậy", thì Tăng nênkhuyên rằng: "Trưởng                              lão! Chớ vô lý hủy báng chúng Tăng. Vì sao thế? Vì                              Tăng không có tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy                              si, cũng không phải đối với những người đồng phạm                              tội mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi.                              Nay Tăng vì lòng từ khuyên can các ông là muốn được                              lợi ích. Vậy các ông nên bỏ việc ấy đi. Một lần                              khuyên can đã xong còn hai lần khuyên can nữa". Nếu                              họ không chấm dứt, thì lần thứ hai, thứ ba cũng                              khuyên can như vậy. Thế nhưng họ vẫn ngoan cố không                              chấm dứt. Do đó, các Tỉ-kheo bèn đem nhân duyên ấy                              bạch đầy đủ lên Thế Tôn: "Nhóm sáu Tỉ-kheo đã được                              khuyên can ba lần ở chỗ vắng, cho đến khuyên can ba                              lần ở giữa chúng Tăng mà vẫn ngoan cố không bỏ".                               Phật                              bảo: "Gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến".                               Khi                              họ đến rồi, Phật bèn hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật                              các ông vô lý hủy báng Tăng, rồi được khuyên can ở                              chỗ vắng ba lần, cho đến khuyên ở giữa chúng Tăng ba                              lần màï vẫn ngoan cố không chấm dứt phải không?".                               Ðáp:                              "Có thật như vậy, bạch Thế Tôn!".                                                            (288b) Phật bèn nói với nhóm sáu Tỉ-kheo: "Ðó là                              việc ác. Các ông há chẳng nghe Ta thường khen ngợi                              tính dễ khuyên bảo và chê trách tính khó khuyên bảo                              hay sao? Nay vì sao các ông lại khó khuyên bảo, kiên                              trì không xả bỏ? Này nhóm sáu Tỉ-kheo! Ðó là điều                              phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy. Không thể dùng                              việc đó để nuôi lớn thiện pháp".                              Khi                              ấy, các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn!                              Do đâu nhóm sáu Tỉ-kheo này chỉ vì Xiển Ðà và Ca Lưu                              Ða Di không bị đuổi mà vô lý hủy báng chúng Tăng?"                              Phật                              nói: "Nhóm sáu Tỉ-kheo này không những ngày nay vô                              lý hủy báng chúng Tăng mà trong thời quá khứ cũng đã                              từng vô lý hủy báng người khác".                               Các                              Tỉ-kheo hỏi: "Ðã từng có như vậy sao?"                              Phật                              đáp: "Ðã từng có như vậy!"                              Các                              Tỉ-kheo nói: "Xin Thế Tôn hãy kể lại, chúng con muốn                              nghe".                               Phật                              nói: "Trong thời quá khứ có một thành phố tên Ba La                              Nại, nước tên Già Thi. Bấy giờ, trong nhà của vua có                              nuôi hai con chó, nhà vua dùng vàng, bạc làm dây                              buộc chúng và dùng châu báu đựng thức ăn cho chúng.                              Ban đêm, người ta mở dây thả ra để cho chúng giữ cửa                              ngõ. Bấy giờ, nhà vua bị chứng bệnh đau đầu, chữa                              trị đã mười hai năm mà không bớt, nhưng sau đó đã                              tạm bớt. Rồi trong khi ngủ, nhà vua nghe tiếng chó                              sủa khiến ông kinh sợ thức giấc, do đó, chứng đau                              đầu ngày càng tăng thêm. Bấy giờ, vua liền hỏi người                              hầu cận: "Vừa rồi có tiếng gì vậy?"                              Ðáp:                              "Tiếng chó sủa đó".                               Vua                              liền nổi giận ra lệnh kẻ hầu cận đuổi hết các con                              chó đang có mặt (trong thành phố). Họ bèn theo lệnh                              đuổi hết chúng đi. Bấy giờ, có một con chó hỏi người                              đuổi nó: "Vì sao đuổi tôi?"                                                           Người đuổi đáp: "Nhà vua vừa hơi bớt bệnh, thì trong                              giấc ngủ nghe tiếng chó sủa khiến vua kinh hãi thức                              giấc, nên bệnh lại gia tăng, do đó mà đuổi ngươi".                               Chó                              lại hỏi: "Tất cả chó đều bị đuổi hết phải chăng?"                              Ðáp:                              "Ðều đuổi hết".                               Lại                              hỏi: "Hai con chó trong nhà của vua cũng bị đuổi                              chăng?"                               Ðáp:                              "Hai con chó trong nhà của vua không bị đuổi".                               Chó                              liền giận dữ nói: "Ông vua này vô đạo, tùy thương,                              tùy giận, tùy sợ và tùy si".                               Rồi                              nó đọc kệ:                               "Nếu                              bảo chó nguy hại                              Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Chó của nhà vua thuở ấy nay là                              Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di, còn các con chó                              khác nay là những Tỉ-kheo còn lại trong nhóm sáu                              Tỉ-kheo. Khi ấy, do thấy hai con kia không bị đuổi                              mà chúng bị đuổi nên đã vô lý phỉ báng, ngày nay bị                              đuổi lại cũng như thế".                              Vì                              hai Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di không bị đuổi                              nên các Tỉ-kheo kia vô lý hủy báng Tăng (288c), do                              đó các Tỉ-kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              mọi người muốn cử Tỉ-kheo Xiển Ðà làm tri sự mà A                              Nan không đồng ý?"                              Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Không những ngày nay Tỉ-kheo                              Xiển Ðà muốn làm tri sự mà A Nan không đồng ý, mà                              trong thời quá khứ cũng đã từng muốn được cử làm vua                              mà A Nan không đồng ý".                               Các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðã từng                              có như vậy sao?"                              Phật                              nói: "Ðúng như vậy!"                              Các                              Tỉ-kheo bạch: "Chúng con muốn được nghe, mong Thế                              Tôn hãy kể lại".                              Phật                              nói: "Trong thời quá khứ, tại một ngọn đồi dưới chân                              núi Tuyết có một chỗ nắng ấm, nhiều loài chim qui tụ                              về đó cùng bàn bạc: "Ngày nay, chúng ta hãy cử một                              con chim làm vua để cho các con chim sợ uy, không                              dám làm việc phi pháp".                               Các                              con chim nói: "Tốt! Nhưng ai nên làm vua?"                              Có                              một con chim nói: "Nên cử Hồng hộc".                               Một                              con chim khác nói: "Không được! Vì sao? Vì nó có                              cẳng cao, cổ dài, giá như khi chúng ta phạm tội, thì                              nó sẽ mổ đầu chúng ta".                               Cả                              bầy đều bảo là đúng như vậy. Lại có một con nói: "Nên                              cử thiên nga làm vua, vì sắc lông trắng tuyệt, nên                              mọi con chim đều kính trọng". Các con chim lại nói:                              "Con này không thể được, nhan mạo tuy trắng, nhưng                              cổ dài lại gấp khúc. Chính cổ mình đã không thẳng,                              thì làm sao sửa kẻ khác cho ngay chánh được".                               Rồi                              nó lại nói: "Chỉ có con công đủ màu sắc, ai xem cũng                              thấy vui mắt, nên có thể làm vua".                               Con                              khác lại nói: "Không thể được? Vì sao thế? Vì bộ                              lông tuy đẹp nhưng không biết hổ thẹn, mỗi lần múa                              là nó để lộ ra những chỗ xấu, cho nên không thể được".                               Một                              con khác nói: "Nên cử con chim cú trọc đầu làm vua.                              Tại vì sao? Vì ban ngày thì ngủ yên còn ban đêm thì                              siêng năng hoạt động, bảo vệ chúng ta, nên có thể                              làm vua".                                Cả                              đàn đều nói: "Ðược!".                               Bấy                              giờ, có một con oanh vũ, đậu ở gần đó, có trí tuệ,                              suy nghĩ: "Qui luật của loài chim là ban đêm ngủ                              nghỉ, mà đặc tính của con cú trọc này ban đêm lại                              không ngủ nghỉ, bắt mọi con chim phải vây quanh hầu                              hạ, ngày đêm canh gác túc trực không được ngủ nghỉ,                              rất là khổ cực. Nhưng nếu ta nói ra thì nó sẽ nổi                              giận vặt hết bộ lông ta, còn như không nói thì các                              loài chim phải chịu khốn khổ lâu dài. Ta thà bị vặt                              lông chứ không thể để lẽ phải bị chà đạp", bèn đến                              trước muôn chim trương đôi cánh, cung kính nói với                              đàn chim rằng: "Xin nghe tôi đọc một bài kệ". Bấy                              giờ, đàn chim bèn đọc bài kệ đáp:                              "Có                              trí biết nghĩa rộng                              Bấy                              giờ, bầy chim đều nói: "Ðúng như oanh vũ nói". Rồi                              cùng nhau bàn bạc: "Con oanh vũ này thông minh trí                              tuệ, nên cử làm vua", bèn suy tôn oanh vũ làm vua.                              Thế                              rồi, Phật nói với các Tỉ-kheo : "Chim cú trọc thuở                              ấy, nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà, còn chim oanh vũ nay là                              A Nan. Khi ấy con này đã ngăn cản con kia không cho                              làm vua, thì nay cũng lại ngăn cản không cho làm tri                              sự".  Rồi                              Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo cư trú tại thành Xá                              vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải                              nghe lại, rồi chế giới:                                                           -- "Nếu có các Tỉ-kheo sống tại thành phố hoặc thôn                              xóm mà làm những việc xấu khiến ai cũng thấy cũng                              nghe; làm vẩn đục tín tấm của người khác, ai cũng                              thấy, cũng nghe, thì các Tỉ-kheo nên nói với những                              Tỉ-kheo ấy: "Các Trưởng lão! Các vị đã làm những                              việc xấu khiến ai cũng thấy, cũng nghe; làm vẩn đục                              tín tâm của người khác, ai cũng thấy, cũng nghe. Các                              Trưởng lão! Các vị hãy đi khỏi nơi này, không nên ở                              đây nữa".                                                           Thế rồi, những Tỉ-kheo này nói với các Tỉ-kheo: "Các                              đại đức Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si.                              Tại sao? Vì có các Tỉ-kheo đồng tội như nhau mà có                              người thì đuổi, có người thì không đuổi".                                                           Các Tỉ-kheo nên nói với những Tỉ-kheo ấy: "Các                              Trưởng lão! Các vị chớ nên nói rằng: "(Tăng tùy                              thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Có các Tỉ-kheo                              đồng tội như nhau, mà có người thì đuổi, có người                              thì không đuổi)". Tại vì sao? Vì Tăng không tùy                              thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Này các Trưởng                              lão! Các vị đã làm những việc xấu khiến ai cũng thấy,                              cũng nghe; làm vẩn đục tín tâm của người khác, ai                              cũng thấy, cũng nghe. Các vị hãy đi khỏi nơi này,                              không được ở đây nữa".                                                           Những Tỉ-kheo ấy khi được các Tỉ-kheo khuyên can,                              nếu vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỉ-kheo nên                              khuyên can lần thứ hai, thứ ba cho họ bỏ việc ấy.                              Khuyên can lần thứ hai, thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu                              không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                                                           Giải thích                              -                              Các Tỉ-kheo: Hoặc là chúng Tăng, hoặc là                              nhiều người, hoặc là một người nương tựa tại thành                              phố hay tại xóm làng.                              Thế                              nào là nương tựa vào xóm làng?: Nếu Tỉ-kheo ở nơi                              xóm làng ấy được y phục, ẩm thực, giường chõng,                              thuốc trị bệnh.v.v.. thì gọi là nương tựa mà sống.                              Nếu không được các thứ y phục, ẩm thực, giường chõng,                              thuốc trị bệnh.v.v... mà chỉ có nương tựa vào xóm                              làng để khỏi các tai nạn, thì cũng gọi là nương tựa                              mà sống. Nếu Tỉ-kheo không nương tựa vào xóm làng để                              tránh tai nạn, mà chỉ nương tựa nơi ranh giới của                              xóm làng, thì cũng gọi là nương tựa mà sống.                              -                              (289b) Người khác: Các nhà Sát đế lợi,                              Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đa la, đó gọi là người khác.                              -                              Làm vẩn đục: Nếu các Tỉ-kheo làm các việc                              phi phạm hạnh như uống rượu, ăn phi thời tại các xóm                              làng thì chưa phải là làm vẩn đục tín tâm của người                              khác.  -                              Làm vẩn đục tín tâm của người khác: Nếu                              có người trong xóm làng trước đây có tín tâm cúng                              dường chúng Tăng, kiến tạo chùa tháp mà Tỉ-kheo làm                              cho họ thối thất đạo tâm, thì gọi là làm vẩn đục tín                              tâm của người khác.                              -                              Làm các việc xấu: Thân trái oai nghi,                              miệng trái oai nghi, thân miệng trái oai nghi; Thân                              tổn hại, miệng tổn hại, thân miệng tổn hại; thân tà                              mạng, miệng tà mạng, thân miệng tà mạng, đó gọi là                              làm việc xấu.                              -                              Làm các việc xấu khiến vẩn đục tín tâm của người                              khác, ai cũng thấy, cũng nghe: Làm các việc                              xấu tại nơi xóm làng khiến ai cũng thấy, cũng nghe,                              rồi các Tỉ-kheo nói với những Tỉ-kheo ấy: "Này các                              trưởng lão! Các vị đã làm những việc xấu, ai cũng                              thấy, cũng nghe, làm vẩn đục tín tâm của người khác,                              ai cũng thấy, cũng nghe. Nay chớ có ở đây nữa".                               Các                              Tỉ-kheo ấy liền nói lại: "Này các trưởng lão! Tăng                              tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, có các                              Tỉ-kheo đồng tội mà người thì đuổi đi, người thì                              không đuổi".                               Rồi                              các Tỉ-kheo nói với những Tỉ-kheo ấy: "Này các                              trưởng lão! Các vị chớ nên nói như thế. Vì Tăng                              không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Các vị                              hãy bỏ việc ấy đi".                              -                              Những Tỉ-kheo ấy kiên trì không bỏ, lại còn vô lý                              hủy báng Tăng: Ðó là nhóm sáu Tỉ-kheo.                              -                              Các Tỉ-kheo: Hoặc là Tăng, hoặc nhiều                              người, hoặc là một người.                              -                              Ba lần khuyên can: Khuyên can ở chỗ vắng                              ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần và ở giữa chúng                              Tăng ba lần.                              -                              Khuyên can ở chỗ vắng: Hỏi ở chỗ vắng: "Các                              trưởng lão! Các vị có thật vô lý hủy báng Tăng rằng:                              "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Có các                              Tỉ-kheo đồng phạm tội mà người thì bị đuổi, người                              thì không bị đuổi, có phải thế chăng?" Nếu đáp: "Thật                              như vậy", liền khiển trách: "Các trưởng lão chớ dùng                              những lời vô lý hủy báng Tăng. Vì sao thế? Vì Tăng                              không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng                              không phải đối với những người đồng tội mà có người                              thì đuổi, có người thì không đuổi. Tôi nay vì lòng                              từ khuyên can các vị, là vì muốn được lợi ích. Vậy                              các vị hãy chấm dứt việc ấy đi. Một lần khuyên can                              đã xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu không bỏ                              thì phải khuyên can lần thứ hai, thứ ba, rồi khuyên                              can ở chỗ nhiều người ba lần. Nhưng nếu vẫn ngoan cố                              không bỏ, thì phải đến giữa Tăng làm pháp Yết ma cầu                              thính, nói như sau:                              "Xin                              đại đức Tăng lắng nghe! Các Tỉ-kheo mỗ giáp vô lý                              hủy báng Tăng và đã được khuyên can ở chỗ vắng ba                              lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần, nhưng vẫn                              ngoan cố không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp đối                              với Tăng, nay nên khuyên can ba lần ở giữa Tăng, để                              cho chấm dứt việc ấy".                              Tăng                              nên hỏi: "Các trưởng lão! các vị có thật vô lý hủy                              báng Tăng rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ                              và tùy si (289c).v.v.. cho đến được khuyên can ở chỗ                              vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà                              vẫn ngoan cố không bỏ phải không?". Nếu đáp: "Có                              thật như vậy", thì Tăng nên khuyên can: "Các trưởng                              lão! Các vị chớ vô lý hủy báng chúng Tăng. Vì cớ sao?                              Vì Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy                              si, cũng không phải đối với những người đồng tội mà                              có người thì đuổi, có người thì không đuổi. Nay Tăng                              vì lòng từ khuyên can các vị, là muốn được lợi ích.                              Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can                              nữa. Các vị nên bỏ việc ấy đi". Nếu không bỏ thì                              khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nhưng nếu vẫn                              không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              -                              Tăng Già Bà Thi Sa: Như trên đãnói. Những                              Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ vắng ba lần mà                              không chấm dứt thì mỗi lần khuyên can phạm mỗi tội                              Việt Tỳ Ni. Rồi khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần                              cũng như thế. Ðến khi khuyên can ở giữa chúng Tăng,                              lần đầu chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni; nói xong                              thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lần khuyên can thứ hai,                              nói chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni; nói xong thì                              phạm tội Thâu Lan Giá. Lần khuyên can thứ ba nói                              chưa xong phạm tội Thâu Lan Giá, nói xong thì phạm                              tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              Tội                              Tăng Già Bà Thi Sa khởi đi (trừ ba tội Thâu Lan Giá                              do vô lý hủy báng chúng Tăng) từ khi khuyên can ở                              chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần                              và khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần, gồm tất cả                              các tội Việt Tỳ Ni, các tội Thâu Lan Giá gộp chung                              lại thành một tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              Nếu                              nửa chừng mà đình chỉ thì tùy theo đình chỉ ở chỗ                              nào, trị tội ở chỗ đó. Thế nên nói:                              "Có                              các Tỉ-kheo nương tựa vào thành phố hoặc xóm làng mà                              sinh sống..., cho đến khi khuyên can lần thứ hai,                              thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng                              Già Bà Thi Sa".                                                           (Hết giới Tăng tàn thứ 13)                              HAI PHÁP BẤT ÐỊNH                                                           1. GIỚI: NGỒI CHỖ KHUẤT VỚI NGƯỜI NỮ.                              Khi                              Phật an trú tại thành Xá vệ nói rộng như trên. Bấy                              giờ, ông Bà la môn đồng hương, bạn cũ của trưởng lão                              Ưu Ðà Di có cô con gái vừa về nhà chồng, ưu sầu,                              không vui, nên cô sai người báo tin cho cha cô đến                              thăm, nếu không đi được thì nhờ trưởng lão Ưu Ðà Di                              đến thăm cô. Người cha được tin bèn đến nói với Ưu                              Ðà Di: "Con gái tôi vừa mới về nhà chồng, ưu sầu                              không vui, nên sai người nhắn tin tôi, đồng thời                              cũng nhắn tin thầy (đến thăm). Tôi nay là người thế                              tục có nhiều việc nên không thể đi được, xin thầy                              thỉnh thoảng đến thăm nó".                               Ưu                              Ðà Di nói: "Có thể được! Nếu ông không dặn dò, tôi                              cũng phải đến thăm, huống gì ông đã dặn". Thế rồi,                              trưởng lão Ưu Ðà Di sáng sớm hôm sau khoác y đi đến                              nhà ấy. Khi ấy cô ta đang đóng cửa mà ngồi. Ưu Ðà Di                              ở bên ngoài kêu: "Cô Tuyết có ở nhà không?". Cô hỏi:                              "Ai đó?". Ðáp: "Tôi là Ưu Ðà Di đây!". Cô nói: "Sư                              phụ! Thầy hãy vào. Sư phụ, (290a) thầy hãy vào".                              Thầy bèn bước vào, ngồi ở trong phòng cùng nói                              chuyện vãng với cô. Bấy giờ, bà mẹ chồng của cô là                              Tì Xá Khư Lộc Mẫu có ba mươi hai cậu con trai và ba                              mươi hai cô con gái, và các nàng dâu bà đều có phước                              đức, thành tựu các tướng tốt. Khi ấy bà thường dạy                              bảo con trai, con gái và các nàng dâu, khuyên răn họ                              về cách đối xử với cha mẹ, bà con. Rồi bà đi tới                              trước phòng của cô ấy. Bà vốn là người biết rõ lúc                              nào là đúng thời, nên không vào liền mà đứng trù trừ                              ở ngoài cửa. Thế rồi, bà nhìn vào khe cửa, thấy                              trong phòng có người cạo tóc, khoác y, đang nháy nhó                              thì thầm (với nàng dâu bà). Bà biết đó là người xuất                              gia nhưng không biết là Tỉ-kheo hay Tỉ-kheo ni, liền                              gọi cô dâu. Cô dâu ứng ngôn hỏi: "Ai đó?"                              Ðáp:                              "Ta đây".                               Cô                              nói: "Ðại gia xin mời vào".                              Bà                              hỏi: "Người ở bên ngươi là ai vậy?".                              Cô                              đáp: "Thầy Ưu Ðà Di đấy".                              Ưu                              Ðà Di nói: "Ưu Bà Di vì sao không bước vào?".                              Lộc                              mẫu liền bước vào, hỏi: "Thầy Ưu Ðà Di! Thầy ngồi                              đây sao?"                               Ðáp:                              "Ðúng vậy".                              Bà                              thưa: "Thưa thầy, chỗ ngồi này không được tỏ rõ, giả                              sử có điều gì mờ ám thì ai có thể biết được! Con sẽ                              đem việc này nói với các thầy Tỉ-kheo".                              Ưu                              Ðà Di vặn lại: "Bà nói những gì?"                              Tì                              Xá Khư Lộc Mẫu nói: "Thấy Ưu Ðà Di cùng ngồi với phụ                              nữ".  Ưu                              Ðà Di liền phản pháo: "Tôi cũng sẽ đến Phật nói về                              bà!".  Bà                              bèn hỏi: "Thầy định nói điều chi?".                              Ưu                              Ðà Di nói: "Tôi thấy Tì Xá Khư Lộc Mẫu cùng ngồi với                              đàn ông".                               Bà                              liền hỏi: "Ðàn ông nào?".                              Ưu                              Ðà Di nói:"Ta chẳng phải đàn ông sao?"                              Bà                              liền nói: "Thưa thầy! Phật không cấm con cùng ngồi                              với đàn ông, nhưng thầy là người xuất gia phải giữ                              gìn phép của Sa môn chứ?".                              Ưu                              Ðà Di giận dữ: "Than ôi! Ngươi đã não loạn ta không                              ít!", rồi đứng lên bỏ đi.                              Thế                              rồi, thầy đi tới nơi khác và cùng ngồi với phụ nữ                              tại một chỗ trống. Còn Tì Xá Khư Lộc Mẫu thì dạy bảo                              các con gái, con dâu xong rồi, bèn đi ra, lại thấy                              Ưu Ðà Di cùng ngồi nói chuyện với phụ nữ tại một chỗ                              trống, bà liền đến bên Ưu Ðà Di nói: "Ðó là việc bất                              thiện, không phải phép tắc của Sa môn. Vì sao thầy                              lại ngồi với phụ nữ ở chỗ trống trải, tôi sẽ đem                              việc này nói với các Tỉ-kheo". Ưu Ðà Di hỏi: "Bà nói                              việc gì?". Tì Xá Khư Lộc Mẫu nói: "Thấy Ưu Ðà Di                              ngồi một mình với phụ nữ ở chỗ trống mà nói chuyện".                              Ưu Ðà Di liền phản pháo: "Ta cũng sẽ đến Phật nói về                              việc của bà". Tì Xá Khư Lộc Mẫu hỏi: "Thầy nói điều                              gì?". Ưu Ðà Di nói: "Tôi thấy Lộc Mẫu cùng ngồi nói                              chuyện với đàn ông ở chỗ trống". Tì Xá Khư Lộc Mẫu                              hỏi: "Người đàn ông nào?". Ðáp: "Ta chẳng phải                              (290b) đàn ông chắc?". Tì Xá Khư Lộc Mẫu nói: "Tôi                              là người thế tục ngồi với đàn ông thì Phật cho phép,                              còn thầy là Sa môn phải giữ gìn phép tắc chớ sao lại                              thế?". Ưu Ðà Di nói: "Bà quấy rầy ta ở mọi chỗ". Nói                              như thế rồi, liền đứng dậy đi.                              Bấy                              giờ Tì Xá Khư Lộc Mẫu bèn đem việc đó bạch với các                              Tỉ-kheo. Các Tỉ-kheo bèn đem bạch đầy đủ với Thế Tôn.                              Phật bảo: "Gọi Ưu Ðà Di đến!". Họ liền gọi đến. Phật                              bèn hỏi Ưu Ðà Di: "Ông có thật như thế chăng?"Ðáp: "Có                              thật như thế, bạch Thế Tôn!". Phật liền khiển trách                              Ưu Ðà Di: "Ông là kẻ ngu si. Ðó là một việc xấu,                              người thế tục còn biết phép tắc của người xuất gia                              điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Còn ông là                              người xuất gia mà lại không biết phép tắc ngồi đứng,                              nói năng, điều gì nên, điều gì không nên. Há ông                              không thường nghe Ta dùng nhiều nhân duyên chê trách                              việc tùy thuận dâm dục và khen ngợi ly dục hay sao?                              Nay vì sao ông làm việc xấu như thế? Ðó là việc phi                              pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng nó                              để nuôi lớn thiện pháp". Rồi Phật truyền lệnh cho                              các Tỉ-kheo sống tại thành Xá vệ phải tập trung lại                              tất cả. Khi đã tập họp xong, Thế Tôn bèn đem nhân                              duyên ấy hướng đến các Tỉ-kheo nói rộng về các                              nguyên nhân sinh khởi những sự lỗi lầm, khiển trách                              những lỗi lầm đã sinh khởi, rồi tùy thuận thuyết                              pháp cho các Tỉ-kheo. Vì mười việc lợi ích mà Như                              Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri chế giới cho các đệ tử,                              lập ra pháp Ba La Ðề Mộc Xoa.                              Mười                              việc đó là:                              1- Vì                              nhiếp phục Tăng.                              Ðó                              gọi là vì mười việc lợi ích mà Như Lai Ứng Cúng                              Chánh Biến Tri chế giới cho các đệ tử; ai chưa nghe                              thì nghe, ai nghe rồi nên nghe lại:                                                           -- "Nếu Tỉ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ                              vắng vẻ, che khuất, có thể hành dâm được, rồi Ưu bà                              di khả tín tố cáo Tỉ-kheo ấy phạm một trong ba pháp:                              Hoặc Ba La Di, hoặc Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba Dạ                              Ðề. Ðoạn Tỉ-kheo ấy tự nói: "Tôi ngồi chỗ ấy", thì                              trong ba pháp kia phạm pháp nào trị phạt theo pháp                              đó: Hoặc Ba La Di, hoặc Tăng Già Bà Thi Sa; hoặc Ba                              Dạ Ðề, phải tùy theo lời tố cáo của Ưu bà di khả tín                              mà trị phạt đúng như pháp. Thầy Tỉ-kheo ấy là người                              phạm pháp Bất Ðịnh thứ nhất.                                                           Nếu Tỉ-kheo ngồi một mình (290c) với người nữ tại                              chỗ trống, không thể hành dâm được, rồi có Ưu bà di                              khả tín tố cáo Tỉ-kheo ấy phạm một trong hai pháp:                              Hoặc Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba Dạ Ðề. Ðoạn Tỉ-kheo                              ấy tự nói: "Tôi ngồi chỗ ấy", thì phải căn cứ vào                              lời tố cáo của Ưu bà di khả tín mà trị phạt Tỉ-kheo                              ấy đúng như pháp: Hoặc Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba                              Dạ Ðề".                                                           Giải thích                              (Xem                              lại một số từ ngữ đã được chú thích ở trước)                              -                              Chỗ che khuất: Hoặc ở chỗ tối, hoặc chỗ                              có che chắn.                              -                              Chỗ có thể hành dâm: Chỗ nam nữ có thể                              giao hoan mà không sợ hổ thẹn.                              -                              Một mình: Chỉ có một nam, một nữ mà không                              có người khác; giả sử có người khác mà đang ngủ,                              hoặc điên cuồng, hoặc trẻ con, phi nhân, súc sinh                              thì cũng gọi là một mình.                              -                              Ngồi chung: Ngồi gần nhau.                              -                              Ưu bà di khả tín: Người thành tựu mười                              sáu pháp sau đây thì gọi là Ưu bà di khả tín:                              1- Qui                              y Phật.                               Những ai thành tựu mười sáu pháp này thì gọi là                              người khả tín (đáng tin).                              Nếu                              Tỉ-kheo ấy tự nói rằng biết sự việc, nhưng không                              biết là mình có ngồi hay không, thì nên trị phạt về                              sự việc. Nếu nói biết là mình có ngồi, nhưng không                              biết về sự việc, thì nên trị phạt về lỗi đã ngồi.                              Nếu nói biết về sự việc cũng biết là mình có ngồi,                              thì nên trị phạt cả hai. Nếu nói không biết về sự                              việc, cũng biết là mình có ngồi hay không, thì nên                              căn cứ vào lời tố cáo của Ưu bà di khả tín mà làm                              phép Yết ma mích tội tướng (tìm xem dấu hiệu của tội).                              (Một                              số từ ngữ đã giải thích ở trước)                              -                              Chỗ trống trải: Chỗ sáng sủa trống trải,                              không có gì che chắn, đó gọi là chỗ trống trải.                              -                              Chỗ không thể hành dâm: Chỗ mà, nếu nam                              nữ giao hoan thì có thể công xúc tu sĩ.                                                           (291a) Thế nên nói:                              "Nếu                              Tỉ-kheo ngồi một mình với một người nữ ở chỗ che                              khuất, kín đáo, có thể hành dâm được..., cho đến bị                              Ưu bà di khả tín tố cáo, thì Tăng phải trị phạt                              Tỉ-kheo ấy đúng pháp. Ðó gọi là pháp Bất Ðịnh thứ                              nhất.  Nếu                              Tỉ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ trống trải,                              không thể hành dâm được..., cho đến bị Ưu bà di khả                              tín tố cáo, thì Tăng phải trị phạt Tỉ-kheo ấy đúng                              pháp. Ðó gọi là pháp Bất Ðịnh thứ hai.                                                           (Hết hai pháp Bất Ðịnh)                             
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
 
Ương ngạnh không nghe lời                             
Kẻ ngu chuốc tai họa                             
Tự hại tính mạng mình                             
Thế nên dã can ngu                             
Gặp nỗi khổ thùng gỗ".                             
 
Ngu si nắm đuôi nhau                             
Tự mình gây khổ não                             
Làm sao cứu thế gian?".                             
Lừa dối người thiên hạ                             
Trước ăn thức ăn thô                             
Ðâu có chê ngon dở?"                             
Thì nên đuổi tất cả                             
Mà nay không đuổi hết                             
Thế là vua vô đạo                             
Nhà mình nuôi hai con                             
Không đuổi mà đuổi ta                             
Mới biết ác vương này                             
Tùy thương, giận, sợ, si".                             
Hà tất kể tuổi tác                             
Ngươi tuy tuổi còn thơ                             
Nhưng có trí, cứ nói!"                             
Khi oanh vũ nghe bầy chim đọc kệ, liền nói kệ:                             
Nếu nghe theo ý tôi                             
Chớ cho cú làm vua                             
(289a) Vì vẻ mặt lúc vui                             
Trông cũng thấy khiếp sợ                             
Huống gì khi giận dữ                             
Bộ mặt không coi được".                             
2. GIỚI: NGỒI CHỖ TRỐNG VỚI NGƯỜI NỮ.                             
2- Vì nhiếp phục Tăng một cách triệt để.                             
3- Vì để cho Tăng được an lạc.                             
4- Vì để chiết phục kẻ không biết xấu hổ.                             
5- Vì để những ai có tàm quí được sống an lạc.                             
6- Vì để cho người không có lòng tin khiến họ                              tin tưởng. 
7- Vì để người đã có lòng tin tăng thêm tin                              tưởng. 
8- Vì muốn chấm dứt Lậu hoặc ngay trong hiện                              tại. 
9- Vì để cho các Lậu hoặc chưa sinh khởi thì                              không sinh khởi.                             
10- Vì muốn cho chánh pháp được tồn tại lâu                              dài, mở cửa cam lồ cho chư thiên và nhân loại.                             
2- Qui y Pháp.                              
3- Qui y Tăng.                             
4- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với                              Phật. 
5- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với                              Pháp. 
6- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với                              Tăng. 
7- Tăng chưa được lợi ích có thể làm cho lợi                              ích.  
8- Tăng đã được lợi ích có thể làm cho tăng                              trưởng. 
9- Tăng chưa được danh dự thì có thể làm cho                              danh dự vang xa.                             
10- Tăng bị tiếng xấu có thể sớm trừ diệt.                             
11- Không hành động tùy theo sự thiên vị.                              
12- Không hành động tùy theo sự giận dữ.                             
13- Không hành động tùy theo sự sợ hãi.                             
14- Không hành động tùy theo sự mê muội.                             
15- Hướng đến sự ly dục.                             
16- Thành tựu thánh giới.                             
