Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú giữa các         dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở tu viện Nigrodha         (Ni-câu-luật Thọ Viên). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát,         đi vào Kapilavatthu để khất thực. Sau khi đi khất thực ở Kapilavatthu, ăn         xong, trên đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến trú xứ của         Thích-ca Kalakhemaka để ở ban ngày. Lúc bấy giờ, tại tu viện của         Thích-ca Kalakhemaka, có sắp đặt rất nhiều sàng tọa. Thế Tôn thấy rất         nhiều sàng tọa tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka, thấy vậy Thế Tôn         suy nghĩ : "Rất nhiều sàng tọa được sắp đặt tại tu viện của Thích-ca         Kalakhemaka. Không biết ở đấy có rất nhiều Tỷ-kheo ở không ?" Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda cùng với         rất nhiều vị Tỷ-kheo đang làm y (civarakamma) ở trú xứ của Thích-ca         Ghataya. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ         Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến trú xứ của Thích-ca Ghataya, sau         khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo         Tôn giả Ananda : – Này Ananda, có rất nhiều sàng tọa         được sắp đặt tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka. Không biết có nhiều         Tỷ-kheo trú ở đấy không. – Bạch Thế Tôn, có rất nhiều         sàng tọa được sắp đặt ở trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka; có rất nhiều         Tỷ-kheo trú tại chỗ ấy. Bạch Thế Tôn, nay là thời chúng con làm y. – Này Ananda, một Tỷ-kheo không         chói sáng nếu thích thú trong hội chúng của mình, nếu hân hoan trong hội         chúng của mình, nếu hoan hỷ trong hội chúng của mình, nếu thích thú         trong hội chúng của người, nếu hân hoan trong hội chúng của người, nếu         hoan hỷ trong hội chúng của người. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú         trong hội chúng của mình, hân hoan trong hội chúng của mình, hoan hỷ trong         hội chúng của mình, thích thú trong hội chúng của người, hân hoan trong hội         chúng của người, hoan hỷ trong hội chúng của người, có thể là một vị         chứng đắc tùy theo ý muốn, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không         mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự         kiện như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình,         xa lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng chứng đắc tùy theo ý muốn, chứng         đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư         lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự kiện như vậy có thể xảy ra.         Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú trong hội chúng của mình, hân hoan         trong hội chúng của mình, hoan hỷ trong hội chúng của mình, thích thú         trong hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ         trong hội chúng của người sẽ chứng đắc và an trú với tâm giải thoát         có hạn kỳ và thoải mái hay không có hạn kỳ và bất động; sự kiện         như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình, xa         lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng sẽ chứng đắc và an trú với         tâm giải thoát có hạn kỳ và thoái mái, hay không có hạn kỳ và bất động;         sự kiện như vậy có xảy ra. Này Ananda, Ta không quán thấy một sắc pháp         nào trong ấy có hoan hỷ, trong ấy có hoan lạc, chịu sự biến dịch, chịu         sự đổi khác mà không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Nhưng sự (an) trú này, này Ananda,         đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi không tác ý với tất         cả tướng, chứng đắc và (an) trú nội không. Và nếu này Ananda, trong khi         Như Lai an trú trong an trú này, nếu có những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư         sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần, ngoại đạo, ngoại đạo đệ tử         đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda, Như Lai với tâm hướng đến viễn         ly, thiên về viễn ly, nặng nề viễn ly, sống độc cư, hoan hỷ trong ly dục,         làm cho đoạn tận tất cả các pháp dựa trên các lậu hoặc an trú, nói         lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ. Do vậy,         này Ananda, nếu Tỷ-kheo ước vọng : "Sau khi chứng đạt nội không, ta         sẽ an trú", vị Tỷ-kheo ấy, này Ananda, cần phải an chỉ, an tọa,         chuyên nhất và an định nội tâm. Và này Ananda, như thế nào Tỷ-kheo         an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo         ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng thái         hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú         Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ,         nội tỉnh nhứt tâm... Tam thiền... chứng và trú Tứ thiền. Như vậy, này         Ananda, Tỷ-kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm. Vị ấy tác ý nội không. Trong khi         vị ấy tác ý nội không, tâm không thích thú, không tịnh tín, không an         trú, không hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo         biết như sau : "Trong khi ta tác ý nội không, tâm không thích thú, không         tịnh tín, không an trú, không hướng đến nội không". Ở đây, vị         ấy ý thức rõ ràng như vậy. Vị ấy tác ý ngoại không. Vị ấy tác ý nội         ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy tác ý bất động         thời tâm không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến         bất động". Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau :         "Trong khi ta tác ý bất động, tâm không thích thú, không tịnh tín,         không an trú, không hướng đến bất động". Ở đây, vị ấy ý thức         rõ ràng như vậy. Này Ananda, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú, an tọa, chuyên         nhất, và an định nội tâm trên định tướng (samadhinimitte) đã đề cập         về trước ấy. Vị ấy tác ý nội không. Trong khi vị ấy tác ý nội         không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không. Sự kiện         là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ý nội         không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không". Ở đây,         vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Vị ấy tác ý ngoại không. Vị ấy tác         ý nội ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy tác ý bất         động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú hướng đến bất động. Sự kiện         là như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ý bất         động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến bất động". Ở         đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy đang an         trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đi kinh hành, vị ấy đi kinh         hành (cankamati), và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang đi kinh hành, thời tham         và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy         ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo đang an trú trong an trú         này, tâm vị ấy hướng đến đứng lại, vị ấy đứng lại và nghĩ rằng         : "Trong khi ta đang đứng lại thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp         không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy         an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến ngồi, vị ấy ngồi và         nghĩ rằng : "Trong khi ta đang ngồi, tham và ưu, các ác bất thiện pháp         không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này         Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng         đến nằm, vị ấy nằm và nghĩ rằng : "Trong khi ta đang nằm, thời         tham và ưu, các ác bất thiện pháp không chảy vào". Ở đây, vị ấy         ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong         sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến nói, vị ấy suy nghĩ như sau :         "Ta sẽ không nói những câu chuyên hạ liệt, đê tiện, thuộc phàm         phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến         yếm ly, ly dục, đoạn tiệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ. Niết-bàn, như         quốc vương luận, đạo tặc luận, đại thần luận, quân luận, bố úy         luận, chiến tranh luận, thực vật luận, ẩm liệu luận, y phục luận, ngọa         cụ luận, hoan man luận, hương liệu luận, thân thích luận, xa thừa luận,         thôn luận, thị trấn luận, đô thị luận, quốc độ luận, nữ luận,         anh hùng luận, hạng trung luận, thủy bình xứ luận, tiên linh luận, sai biệt         luận, thế giới luận, hải thuyết luận, hữu vô hữu luận. Ở đây, vị         ấy ý thức rõ ràng như vậy. Nhưng này Ananda, đối với những lời nói         nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhứt hướng yếm ly, ly tham, đoạn diệt,         an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như thiểu dục luận, tri túc luận,         độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận,         tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận, vị ấy nghĩ :         "Ta sẽ nói các luận như vậy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng         như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi an trú với sự an trú này,         tâm hướng đến suy tầm (vitakka), vị ấy suy nghĩ : "Đối với những         suy tầm hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ         đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng         trí, giác ngộ, Niết-bàn, như là dục tầm, sân tầm, hại tầm, ta sẽ         không suy nghĩ các loại suy tầm ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ         ràng như vậy. Nhưng này Ananda, đối với những suy tầm này, thuộc bậc         Thánh, có khả năng cầu tiến, hướng dẫn (người suy nghĩ các suy tầm         ấy) đến sự đoạn trừ hoàn toàn đau khổ, như là ly dục tầm, vô sân         tầm, bất hại tầm, vị ấy nghĩ : "Ta sẽ suy tư các loại suy tầm         này". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng         này. Thế nào là năm ? Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả         lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức;         các hương do mũi nhận thức; các vị do lưỡi nhận thức; các xúc do thân         nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp         dẫn. Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này. Từ đây Tỷ-kheo cần phải         thường thường quán sát tự tâm như sau : "Trong tâm ta, có khởi lên         tâm hành gì với xứ (ayatana) này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng".         Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng:         "Trong tâm ta, có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm         dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như         sau: "Dục ái (chandaraga) này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với         ta, chưa đoạn diệt được". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.         Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng :         "Trong tâm ta, không có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của         năm dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri         như sau: "Dục tham này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với         ta, đã được đoạn diệt". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, có năm thủ uẩn. Ở đây,         Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng, khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt. Đây         là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc.         Đây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của         thọ. Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là sự tập         khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức. Trong khi vị ấy an trú,         tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn nào         (asmimmano) (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn         tận. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau : "Phàm         có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đã đoạn tận         ngã mạn ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Những pháp         này, này Ananda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc hiền, Thánh,         siêu thế, vượt ngoài tầm của ác ma. – Này Ananda, Ông nghĩ thế nào ?         Vì thấy lý do gì, một Thanh văn Đệ tử tự nghĩ là xứng đáng (hợp         lý) để đi theo một Đạo sư dầu cho bị hất hủi ? – Bạch Thế Tôn, đối với chúng         con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo,         nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn         thuyết giảng cho ý nghĩa này. Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ         hành trì. – Này Ananda, thật không xứng đáng         cho một đệ tử bám sát theo vị đạo sư, nếu vì lý do được nghe giải         thích khế kinh và phúng tụng. Vì cớ sao ? Trong một thời gian lâu dài,         các pháp đã được các Ông nghe, thọ trì, đọc lớn tiếng, suy tư với         ý, khéo thấu hiểu với chánh trí. Nhưng này Ananda, đối với những lời         nói nào, khắc khổ, khai tâm đưa đến nhất hướng viễn ly, ly tham, đoạn         diệt an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn như là thiểu dục luận,         tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới         luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận.         Này Ananda, do nhân duyên những loại thuyết luận như vậy, thật xứng đáng         cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Đạo sư dầu cho bị hất hủi. Sự         kiện là như vậy, này Ananda, thời có sự phiền lụy (upaddava) cho vị Đạo         sư; sự kiện là như vậy, thời có sự phiền lụy do đệ tử; sự kiện         là như vậy, thời có sự phiền lụy cho các vị tu Phạm hạnh. Và này Ananda, như thế nào là sự         phiền lụy cho vị Đạo sư ? Ở đây, này Ananda, có Đạo sư lựa một trú         xứ (senasanam) xa vắng trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ         hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một         đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ,         cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ,         cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi         vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy,         này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của Đạo sư. Vì sự phiền lụy         của Đạo sư, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng         sợ hãi, đưa đến khổ quả dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các         pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của Đạo         sư. Này Ananda, thế nào là sự phiền lụy         của đệ tử ? Này Ananda, đệ tử của một Đạo sư, bắt chước đời sống         viễn ly của Đạo sư mình, lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc         cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng,         ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy,         các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân với quốc dân bao vây xung quanh. Được         các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây cung quanh, vị ấy         khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời         sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của đệ         tử. Vì sự phiền lụy của đệ tử, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm,         dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già,         chết trong tương lai; các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda,         là sự phiền lụy của đệ tử. Và này Ananda, như thế nào là sự         phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh ? Ở đây, này Ananda, Như Lai xuất         hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,         Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,         Thế Tôn. Ngài lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên         sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài         trời hay trên một đống rơm. Trong khi Ngài sống viễn ly như vậy, các         Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các         Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, Ngài không         khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái,         không trở lui lại đời sống sung túc. Nhưng này Ananda, vị đệ tử của         bậc Đạo sư chủ tâm theo (hạnh) viễn ly của bậc Đạo sư, bắt chước         (theo hạnh ấy) lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây,         trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng,         ngoài trời, trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy,         các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được         các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy         khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời         sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của         các vị tu Phạm hạnh. Vì sự phiền lụy của Phạm hạnh, các ác bất thiện         pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn         đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy,         này Ananda, là sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh. Nhưng này Ananda, sự phiền lụy của         các vị tu Phạm hạnh là nhiều quả khổ hơn, nhiều quả não hơn đối với         phiền lụy của Đạo sư này và phiền lụy của đệ tử này, hơn nữa nó         dẫn đến đọa lạc. Do vậy, này Ananda, hãy đối xử với Ta, với tâm         thân hữu, không với tâm thù nghịch, và như vậy các Ông sẽ được hạnh         phúc an lạc lâu dài. Và như thế nào là các đệ tử đối xử vị Đạo         sư với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu ? Ở đây, này Ananda, vị         Đạo sư ấy với lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, mong cầu hạnh         phúc cho họ, vì lòng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các         Ông, đây là an lạc cho các Ông". Nhưng các đệ tử của vị ấy không         chịu nghe theo, không chịu lóng tai, chú tâm vào hướng khác (annan), ngược         lại, họ đi xa lời giảng dạy của vị Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là         các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thù nghịch, không với         tâm thân hữu. Và như thế nào, này Ananda, là các đệ tử đối xử với         bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch ? Ở đây,         này Ananda, vị Đạo sư với lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, tìm         cầu hạnh phúc cho họ, vì lòng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh         phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông". Các đệ tử của vị         ấy chịu nghe theo, chịu lóng tai, không chú tâm vào hướng khác, và không         ngược lại đi xa lời dạy của bậc Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là         các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không phải         với tâm thù nghịch. Do vậy, này Ananda, hãy đối xử với Ta, với tâm         thân hữu, chớ với tâm thù nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc         lâu dài cho các Ông. Ta không sách tấn các Ông như người thợ gốm đối         với các đồ gốm chưa nung, chưa được nung chín. Ta sẽ nói hết lời chỉ         trích này đến lời chỉ trích khác, hết lời tán thán này đến lời tán         thán khác. Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ đứng vững tồn tại. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn         giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
