Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,         Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).         Ở đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo"         – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy         vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông Chân nhân pháp và phi Chân nhân         pháp. Các Ông hãy nghe và suy nghiệm kỹ Ta sẽ giảng"         – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy         vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau : – Này các Tỷ-kheo, thế         nào là phi Chân nhân pháp ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân xuất gia từ một gia đình cao sang.         Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta xuất gia từ một gia đình cao sang.         Còn các Tỷ-kheo, này không xuất gia từ một gia đình         cao sang". Vì người ấy thuộc gia đình cao sang nên khen mình chê người.         Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân         nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ         như sau : "Không phải vì thuộc một gia đình cao sang mà các tham pháp         đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người xuất         gia, không phải từ một gia đình cao sang, và         người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì         chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời         ở đây, người ấy được kính trọng, ở         đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ (patipadam) làm chánh yếu (antaram ?)         không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia đình cao sang. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân xuất gia từ một         gia đình.... (như trên).... xuất gia từ một gia đình đại phú.. (như trên)...         xuất gia từ một gia đình quý phái. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta         xuất gia từ một gia đình quý phái, còn các Tỷ-kheo         này không xuất gia từ một gia đình quý phái". Vì người ấy thuộc         gia đình quý phái, nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì thuộc         về một gia đình quý phái mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến         đoạn trừ. Nếu một người xuất gia không phải từ một gia đình quý         phái và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành         trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời         ở đây, người ấy được kính trọng, ở         đây, người ấy được tán thán". Người ấy được         sau khi lấy đạo lộ làm chính yếu không khen mình chê         người vì tự mình thuộc vào gia đình quý phái. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được nhiều người         biết, có danh xưng. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta         được nhiều người biết, có danh xưng, còn         các Tỷ-kheo này được ít người biết đến, không được         trọng vọng". Vì người ấy tự mình được nhiều người biết đến         nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là         phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân Nhân         suy nghĩ như sau : "Không phải vì mình được nhiều người biết đến         mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay sân pháp đi đến         đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một         người xuất gia không được nhiều người biết, không         có danh xưng, và người ấy hành trì đúng pháp và thuận         pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận         pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".         Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không         khen mình chê người vì tự mình được nhiều người biết và danh xưng.         Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân         nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được các vật         (cúng dường) như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh. Người ấy         suy nghĩ như sau : "Ta nhận được các vật (cúng dường) như y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh, còn các Tỷ-kheo này         không nhận được y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh". Vì người         ấy thâu nhận được như vậy nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự         mình nhận được các vật (cúng dường như) y phục, các         đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu         trị bịnh mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các         sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến         đoạn trừ. Nếu một người xuất gia không nhận được các vật (cúng dường         như) y phục, các đồ ăn khất thực, sàng         tọa, y liệu trị bệnh và người ấy         hành trì đúng pháp và thuận pháp hành, trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo         lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người tự mình         được thâu nhận như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo có người phi Chân nhân là người nghe nhiều.         Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người nghe nhiều, còn         các Tỷ-kheo này không nghe nhiều". Người ấy do được nghe nhiều nên         khen mình chê người. Như vậy này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, Người         Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì nghe nhiều         mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp         đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.         Nếu có người không nghe nhiều và người ấy hành trì đúng pháp và thuận         pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở         đây, người ấy được kính trọng, ở         đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau         khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình được nghe nhiều. Như vậy này         các Tỷ-kheo là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là bậc trì luật.         Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là bậc trì luật, còn         các Tỷ-kheo này không là bậc trì luật". Do tự mình trì luật, người ấy khen mình chê người. Như vậy, này         các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người         Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình là bậc trì luật         mà các tham pháp đi đến đoạn trừ hay các sân pháp đi         đến đoạn trừ hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu         có người không phải là bậc trì luật, những người này         hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận         pháp, thời ở đây, người ấy được         kính trọng, ở đây, người ấy được         tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu,         không khen mình chê người vì tự mình là bậc trì luật. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người thuyết         pháp. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người thuyết pháp, còn các Tỷ-kheo này không phải là người thuyết pháp".         Vì tự mình là người thuyết pháp, nên người ấy khen         mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,         là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này         các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Không phải do tự         mình là bậc thuyết pháp mà các tham pháp đi đến đoạn trừ,         hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si         pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không phải là người thuyết         pháp, nhưng hành trì đúng pháp, và thuận pháp, hành trì         chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời         ở đây người ấy được kính trọng, ở         đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau         khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người         vì tự mình là bậc thuyết pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người theo hạnh         sống ở núi rừng. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh         sống ở rừng núi, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh         sống ở rừng núi". Người ấy vì tự mình theo hạnh sống ở rừng         núi nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này         các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự         mình theo hạnh sống ở rừng núi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các         si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh sống ở rừng         núi nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn         chánh, hành trì thuận pháp, thời ở         đây, người ấy được kính trọng, ở         đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau         khi lấy đạo lộ làm chánh yếu không khen mình chê người         vì tự mình theo hạnh sống ở rừng núi. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân theo hạnh mặc phấn         tảo y. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh mặc phấn         tảo y. Còn các Tỷ-kheo này không là người theo hạnh mặc phấn tảo         y". Người này do tự mình theo hạnh mặc phấn tảo y nên khen mình chê         người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là         phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình theo hạnh mặc         phấn tảo y mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các         sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến         đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh mặc phấn tảo y         nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh,         hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy tán thán". Người         ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình         chê người vì tự mình mặc phấn tảo y. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người theo hạnh         khất thực. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta theo hạnh khất thực, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh khất thực". Người         ấy, do tự mình theo hạnh khất thực nên khen mình chê         người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là         phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân này các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình theo hạnh khất         thực mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân         pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn         trừ. Nếu một người không theo hạnh khất thực nhưng người ấy hành         trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời         ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người         ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình theo hạnh khất thực.         Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân         nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân theo hạnh sống dưới         gốc cây. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh sống         dưới gốc cây, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống         dưới gốc cây". Người ấy do tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây         nên khen mình chê người Như vậy, này         các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không         phải vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây mà các tham pháp đi đến         đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các         si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh sống dưới         gốc cây, nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận         pháp, hành trì chơn chánh và hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".         Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không         khen minh chê người vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân theo hạnh sống tại nghĩa địa..         (như trên)... theo hạnh sống ngoài trời.. (như trên)... theo hạnh thường         ngồi (không nằm)... (như trên)... Theo hạnh ngồi tại chỗ mời... (như trên)...         theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta theo         hạnh chỉ ăn một lần ngồi, còn các Tỷ-kheo này không         theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi. Do tự mình theo hạnh chỉ ăn một lần         ngồi nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này         các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì mình         theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các         si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh chỉ ăn một         lần nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì         chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng,         ở đây, người ấy được tán thán". Người         ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không         khen mình chê người vì tự mình sống chỉ ăn một lần ngồi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân ly dục,         ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có         tâm có tứ. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người chứng được         sơ Thiền, các người Tỷ-kheo này không chứng được         sơ Thiền". Người ấy do tự mình chứng được sơ Thiền nên khen         mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,         là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này         các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định sơ Thiền, tự tánh là vô tham ái, Thế Tôn đã nói         như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác,         thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy vô tham         ái làm chánh yếu, không khen mình chê người vì chứng         được định sơ Thiền. Như vậy, này các Tỷ-kheo là         Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân pháp diệt tầm và         tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một         trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm.. Thiền thứ ba.. chứng và trú thiền thứ         tư. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng đắc định Thiền thứ tư.         Còn các Tỷ-kheo này không chứng đắc định Thiền thứ         tư". Người ấy vì chứng đắc định Thiền thứ tư ấy nên         khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi         Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định Thiền thứ tư, tánh         là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác".         Người ấy sau khi lấy vô tham ái làm chánh yếu, không         khen mình chê người vì chứng đắc định Thiền thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt         lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, người         ấy nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và         trú Không vô biên xứ. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được         định Không vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng         được định Không vô biên xứ". Người ấy, vì chứng         được định Không vô biên xứ ấy, nên khen mình chê người.         Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người         Chân nhân, này các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Định         Không vô biên, xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã         nói như vậy. Những ai nghĩ như thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy         vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê người vì         chứng được định Không vô biên xứ. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân, vượt         lên Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô         biên" chứng và trú Thức vô biên xứ. Người ấy         suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Thức Vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Thức vô biên         xứ". Người ấy vì chứng được định Thức vô biên xứ ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định         Thức vô biên xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã         nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác"… Người ấy sau khi lấy         vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê người vì         chứng được định Thức vô biên xứ. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên một         cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng : "Không         có sở hữu" chứng và trú Vô sở hữu xứ. Người         ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Vô sở hữu xứ còn, các Tỷ-kheo này không chứng được định Vô sở hữu         xứ". Người ấy, vì chứng được định Vô sở hữu xứ ấy, nên khen mình chê người. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định         Vô sở hữu xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã         nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy         vô tham ái làm chánh yếu, không khen mình chê người vì         chứng được định Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các         Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên Vô sở hữu         xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Người         ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Phi tưởng phi phi tưởng         xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Phi         tưởng phi phi tưởng xứ". Người ấy vì chứng được định Phi tưởng         phi phi tưởng xứ ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này         các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định         Phi tưởng phi phi tưởng xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này thế khác thời tự tánh liền đổi khác".         Người ấy sau khi lấy vô tham ái làm chánh yếu, không         khen mình chê người vì định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp. Lại nữa, này         các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi tưởng         phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc         của vị này được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo         này không nghĩ mình là bất cứ vật gì, không nghĩ đến         bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ vì sự việc         gì. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các         Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
